Thiếu nhi chúng con yêu quí!

Chúng ta vừa nghe một bài Tin Mừng thật đẹp do Thánh Luca thuật lại. Cha đố chúng con câu chuyện hôm nay thánh Luca thuật lại là câu chuyện có liên quan đến ai? Và về vấn đề gì nào?

– Dạ thưa có liên quan đến Đức Maria và bà Elisabeth.

– Rất đúng! Nhưng là chuyện gì nào?

– Thưa là Đức Mẹ đến thăm bà chị họ của mình là bà Êlisabeth.

– Cũng lại đúng nữa. Thiếu nhi chúng con giỏi quá. Nhìn vào cuộc viếng thăm này chúng con có thấy cái gì đặc biệt không?

– Dạ thưa đây là cuộc gặp gỡ của hai người mẹ.

– Chúng con trả lời hay quá. Cha khen chúng con. Đúng là cuộc gặp gỡ của hai người mẹ. Người mẹ già và người mẹ trẻ. Chúng con biết hai người mẹ đó là ai rồi.

Người mẹ trẻ là người đến thăm. Người đó chính là Đức Maria, người đang cưu mang Chúa Giêsu trong lòng, người được gọi là người “có phúc hơn mọi người nữ”, và là người có một niềm tin tuyệt vời.

Còn Người mẹ già là người được thăm: Đó là bà Êlizabeth. Bà cũng đang cưu mang. Người con bà cưu mang là người con của ân sủng. Người mẹ già và cả người con của mình đều cảm thấy được diễm phúc trước sự xuất hiện của người mẹ trẻ “Bởi đâu tôi được diễm phúc là Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi như vậy! Vì này tai chị vừa nghe lời em chào thì hài nhi liền nhảy mừng trong lòng chị”.

Chúng con hãy tập cho mình có thói quen thăm nhau như Đức Mẹ đã làm.

Lịch sử còn kể lại rằng George Washington một trong những anh hùng của nền độc lập Hoa Kỳ, thường được đề cao như một người con chí hiếu đối với Mẹ.

Sau những trận chiến cam go nhất, giữa những công việc nặng nề của một vị nguyên thuỷ Quốc Gia, George Washington vẫn thường trở về nhà thăm viếng và chuyện trò lâu giờ với người mẹ già. Một hôm, ngạc nhiên về sự gắn bó của ông đối với mình, mẹ ông đã hỏi ông:

– Tại sao con lại chịu khó mất hàng giờ như vậy để ngồi bên mẹ?

Vị Tổng Thống nước Mỹ trả lời:

– Thưa Mẹ, con ngồi bên mẹ để nghe mẹ nói không phải là một việc mất giờ, bởi vì sự bình thản và lòng tốt của mẹ dạy con muốn tiếp tục sống.

Chúng con hãy nhớ thăm hỏi là việc làm của lòng yêu thương. Tình thương nhiều khi đem lại những kết quả hết sức bất ngờ.

Tại một xứ nhỏ ở miền quê nước Pháp, có một người đàn ông tên là ALIX, mới ngoài 50 tuổi, nhưng chân bị bất toại nên không đi đứng được. Tay ông cũng không thể làm được việc gì. Mỗi buổi sáng trước khi đi làm, vợ ông thường đặt ông trên một chiếc ghế bành, và ông phải vất vả lắm mới có thể lật giở từng trang sách đọc cho qua ngày. Mặc dù, ông không phải là người Công Giáo, nhưng cha sở thỉnh thoảng vẫn đến nhà thăm ông; và tiếp đó, ngai còn lôi kéo được nhiều người trong xứ đạo đến giúp ông nữa.

Mỗi ngày thứ năm trong tuần, có một bác sỹ trẻ tuổi tình nguyện đến chăm sóc cho bệnh tình của ông. Chúa nhật nào cũng vậy, có một nhóm trẻ em vẫn đến nhà chơi với ông. Các em giúp ông lật sách, đọc truyện cho ông nghe, bưng nước, đốt thuốc, kể những mẩu chuyện vui ở trường, và làm cho ông bớt cảm thấy cô đơn.

Năm ấy, gần Lễ Giáng Sinh, ông xin cha sở cho ông rước lễ. Cha sở tỏ vẻ ngạc nhiên, bởi vì ông ta đã theo đạo bao giờ đâu, nhưng ông ta nói:

– Thưa Cha, trước đây con không tin vào Chúa. Nhưng từ ngày con được cha đến thăm, được bác sỹ săn sóc và được các trẻ em đến giúp vui, con cảm thấy như mình đã gặp được Thiên Chúa, bởi vì chỉ có Chúa mới có thể làm cho cha, bác sỹ và các em tỏ tình thương âu yếm đối với con như vậy thôi!

Thế rồi, mùa Giáng Sinh năm ấy ông được lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, Giải Tội và được rước Chúa lần đầu tiên. Ông còn sống được thêm một năm nữa, sống một cách gương mẫu nhẫn nại. Chịu khó trong vui tươi, can đảm và sau cùng, ông đã chết trong bình an của Chúa!

2. Bây giờ cha hỏi tiếp: Chúng con thấy cuộc viếng thăm mà thánh Luca thuật lại là cuộc viếng thăm như thế nào? Có đẹp không?

– Đẹp quá đi chứ: đẹp trong ý nghĩa và đẹp cả trong thành quả.

Đẹp trong ý nghĩa bởi vì đây là cuộc viếng thăm của hai người mẹ đang cưu mang trong mình những con người thánh. Và đẹp trong thành quả vì cuộc viếng thăm này đã đem lại những kết quả tuyệt vời: Gioan Tẩy giả được thánh hóa ngay từ trong lòng mẹ và Mẹ Maria đã để lại cho hậu thế một bài ca, một bài ca thánh, một bài ca có một không hai trong Lịch sử ơn Cứu độ, để nói lên tâm tình tạ ơn và ca tụng lòng nhân từ của Thiên Chúa.

Xin Chúa chúc lành cho những lần chúng ta thăm viếng nhau để chúng ta góp phần vào việc làm cho thế giới chúng ta đang sống có một khuôn mặt dễ thương hơn.

Mẹ Têrêsa thành Calcutta đã thuật lại một câu chuyện sau nhân dịp một đài truyền hình phỏng vấn mẹ.

Mẹ nói: Một lần khi khi còn ở Úc tôi có đến thăm một người thuộc thổ dân Aborigine. Ông cụ sống trong cảnh cô độc thật thảm thương. Ông sống trong một túp lều xiêu vẹo với tuổi đã già nua của mình. Khởi đầu câu chuyện cho lần gặp đầu tiên, tôi đã đề nghị:

– Để tôi dọn dẹp nhà và sửa soạn giường ngủ cho ông.

Ông ta trả lời hững hờ:

– Tôi đã quen sống như vậy rồi.

– Nhưng ông sẽ  cảm thấy dễ chịu hơn với căn nhà sạch sẽ và ngăn nắp.

Sau cùng ông ta bằng lòng để tôi dọn dẹp lại nhà cửa cho ông. Trong khi quét dọn tôi thấy một cái đèn cũ đẹp nhưng phủ đầy bụi bặm và bồ hóng. Tôi hỏi ông:

– Có bao giờ ông thắp đèn này chưa?

Ông ta trả lời cộc lốc:

– Nhưng thắp đèn để cho ai? Có ai bước chân vào nhà này bao giờ đâu? Tôi sống ở đây đã từ lâu không hề trông thấy mặt người nào cả.

Tôi hỏi ông:

– Nếu như có người tình nguyện đến thăm ông thường xuyên, ông có vui lòng thắp đèn lên không?

– Dĩ nhiên là có rồi.

Từ ngày đó, các nữ tu quyết định mỗi chiều sẽ ghé qua nhà ông. Ông ta bắt đầu thắp đèn và dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ hơn. Ông còn sống thêm hai năm nữa. Trước khi qua đời ông nhờ các nữ tu ghé thăm nhắn tin giúp ông:

– Xin gửi lời nhắn với mẹ Têrêsa, bạn tôi, rằng ngọn đèn mà mẹ thắp lên trong đời tôi vẫn còn chiếu sáng. Đó chỉ là một việc nhó mọn, nhưng trong bóng tối cô đơn của đời tôi, một tia sáng đã thắp lên và vẫn còn tiếp tục chiếu sáng mãi.

Vâng! Đúng là một cuộc viếng thăm thật tuyệt vời.

Ngọn đèn cũ không được thắp sẽ trở nên vô dụng và quên lãng nơi một xó xỉnh nào đấy, nhưng khi được châm vào một chút dầu tình yêu và sự bao dung thì nó đem đến sự sáng và sưởi ấm lòng người. Giờ đây, con người dù phải sống cô độc nhưng không còn cô đơn nữa vì bóng tối đã bị đẩy lui và nhường bước cho tình yêu và lòng bao dung của những đốm sáng nhỏ nơi con người, nơi nhân loại.

Xin Chúa cho những lần chúng ta gặp gỡ nhau đem lại cho nhau nhiều niềm vui thánh thiện để chúng ta xây dựng cuộc sống chúng ta đang sống được mỗi ngày mỗi tốt đẹp hơn. Amen.

Kính thưa anh chị em,

Các bản văn Phụng vụ hôm nay nói nhiều đến niềm vui. Nhưng tại sao lại vui như vậy? Thưa vì Chúa sắp đến. Cha Gutzwiller một nhà chú giải Kinh Thánh nổi tiếng có viết một câu rất đơn sơ nhưng ý nghĩa rất đẹp: Gặp được Chúa là gặp được niềm vui. Và trong bài Tin Mừng hôm nay Gioan Tẩy Giả sẽ chỉ cho chúng ta cách để chúng ta có thể có được niềm vui của Chúa.

A. Như anh chị em đã thấy, khi Gioan xuất hiện ở bên bờ sông Giorđanô để rao giảng thì có rất nhiều người tuốn đến với ông. Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy trước mặt ông là cả một đám rất đông quần chúng. Đây là thành phần được Gioan Tẩy Giả dành cho những tình cảm đặc biệt. Ngoài ra, ta còn thấy có hai nhóm nhỏ hơi đặc biệt một chút. Đó là những người thu thuế và một số lính tráng, những thành phần không mấy được ưa chuộng, thậm chí còn bị liệt vào số những người tội lỗi cần phải tẩy chay. Nhưng tất cả đều cảm thấy có một khát vọng phải làm một cái gì đó sau khi được nghe những điều Gioan nói. Họ thành khẩn xin Gioan Tẩy Giả chỉ cho họ và Gioan đã không phụ lòng họ.

1. Đầu tiên là đám đông quần chúng Họ cảm thấy bị lay động một cách mạnh mẽ trước những lời Gioan giảng. Họ cảm thấy  phải làm một cái gì đó như Gioan mong đợi.

2. Tiếp đến là những người lính.

3. Cuối cùng là những người thu thuế. Đây là giai cấp bị người Do Thái ghét cay ghét đắng và luôn tìm cách xa lánh.

B. Bây giờ chúng ta hãy nghe Gioan Tẩy Giả khuyên dạy.

1. Để được hiểu rõ hơn những lời Gioan Tẩy Giả nói, ta phải lưu ý một vài chi tiết này.

a- Trước hết ta thấy Gioan có đầu óc. Ông biết những gì cần phải nói và nói những việc có thể làm được.

Gioan cũng là người rất thực tế. Ông hiểu cuộc sống của từng lớp người. Ông hiểu những gì người ta có thể làm được. Ông không đòi hỏi những điều trên mây trên gió. Ông thấy được mỗi người cần phải làm gì trong chính hoàn cảnh cụ thể của mình. Đòi hỏi một điều mà người ta không thể thi hành được thì chẳng khác gì làm một việc vô ích.

b- Bây giờ chúng ta đi vào một vài chi tiết. Tin Mừng hôm nay ghi lại.

+ Với đám đông: Ông đòi hỏi họ phải biết chia sẻ. Họ phải thực hiện Bác ái. “Ai có hai áo, hãy cho người không có. Ai có  của ăn cũng hãy làm như vậy”(Lc 3,11)

+ Với những người thu thuế ông bảo họ: “Các ngươi đừng đòi gì quá mức ấn định cho các ngươi”(Lc 3,13)

+ Với những người lính thì ông lại khuyên khác: “Đừng ức hiếp ai. Đừng cáo gian ai. Hãy bằng lòng với số lương của mình”(Lc 3,14)

c- Qua những lời nói trên chúng ta thấy Gioan xứng đáng là một bậc thầy. Rất khôn khéo và cũng rất tế nhị. Không gay gắt trong ngôn từ nhưng rất quả quyết và rỏ ràng trong hành động.

+ Với những người vốn đã có một đời sống tốt đẹp như đa số đám đông quần chúng là những người đã được luật Công Bình của Cựu Ước giáo dục và chỉ dẫn, thì ông khuyên họ hãy đưa cuộc sống họ lên cao hơn một bậc nữa. Đó là cuộc sống Bác ái. Đây là cuộc sống lý tưởng mà chính Chúa Giêsu sau này cũng đòi hỏi như thế.

+ Nhưng đối với những người mà hai tiếng Công Bình còn quá xa lạ với họ như những người lính và những người thu thuế lời khuyên của Gioan hơi khác. Ông không đòi hỏi những người thu thuế phải đoạn tuyệt với người Roma mà họ đang cộng tác. Ông cũng không đòi hỏi những người lính đang phục vụ trong đạo binh của Hêrođê phải đào ngũ. Họ cứ việc giữ nguyên nghề nghiệp của họ. Thế nhưng vì họ xin ông chỉ cho họ cách họ phải làm gì thì chúng ta thấy Gioan cũng chỉ đòi hỏi họ phải đưa cuộc sống của họ lên cao hơn một bậc. Ông đề nghị với họ hãy từ bỏ những cách cư xử thiếu Công bằng: “đừng đòi gì quá mức ấn định – đừng cáo gian ai – đừng ức hiếp ai”. Đòi hỏi quá mức – cáo gian – ức hiếp người khác – Cách cư xử đó chẳng khác gì cách cư xử của muôn loài cầm thú. Cư xủ như thế là cư xử theo luật rừng. Gioan khuyên họ hãy biết sống Công bằng đối với nhau: “Hãy bằng lòng với số lương đã được ấn định cho các người”

Đó là những lời khuyên rất cụ thể và thực tế cho những người đến xin ông chỉ dẫn. Còn đối với cá nhân của Ông thì sao?

C. Khi người ta hỏi ông về vai trò của mình, ông đã trả lời một cách rất sòng phẳng và thành thật. Ở điểm này thì chúng ta phải cảm phục sự thành thật của ông. Ông không lạm dụng lòng tin của quần chúng. Giữa lúc mọi người tin rằng ông chính là Đấng Kitô, Đấng phải đến thì ông lại bảo: Ông không phải là đấng đó. Đúng là một con người ngay thẳng. Có sao thì nói vậy. Có gì thì nhận nấy. Một lời cũng không thêm, nửa chữ cũng không bớt. Khó mà tìm được một con người như thế nhất là trong xã hội nghèo khó, dầy giai cấp của người Do thái lúc đó.

Ông cũng là một con người rất khiêm nhường. Ông tự ví mình như một người không xứng đáng dù là chỉ cúi xuống cởi dây dép cho Chúa.

Vâng! Ông thành thực, ông khiêm nhường. Ông không muốn gì cho ông. Điều mà ông muốn đó là làm cho người ta nhận ra Đức Kitô. Chính Ngài mới thật là Đấng có uy quyền. Ngài mới là Đấng rửa trong Thánh Thần. Gioan chỉ rửa bằng nước. Ngài mới là Đấng đến để thánh hóa những kể thống hôí ăn năn và trừng phạt những kẻ cứng lòng.

Như vậy Gioan cũng như Sophonia, các ngài chỉ là những ngôn sứ. Các ngài là những người chỉ đóng vai trò loan báo và dọn đường. Chúa Cứu thế mới là Đấng phải đến và đã đến như lời của các ông loan báo. Ngài đến để thực hiện lời hứa cứu độ cho cả loài người. Người là Tình yêu. Ai gặp được Ngài là gặp được niềm vui.

Cha John Diamond kể lại một câu truyện như sau:

Một hôm kia có một người chẳng ưa gì đạo hỏi một cô bé có đạo:

– Em có thể cho tôi biết Thiên Chúa của em ở đâu không?

+ Xin ông vui lòng chỉ cho cháu biết chỗ nào không có Thiên Chúa!

– Thế Thiên Chúa của em có to lớn không?

+ Dạ có.

– Thế Thiên Chúa của em có nhỏ không?

+ Dạ có

– Làm sao mà lại vừa lớn vừa nhỏ như thế được?

– Vâng Ngài lớn đến nỗi cả bầu trời không chứa nổi. Nhưng lại nhỏ, nhỏ đến mức có thể ngự vào tâm hồn nhỏ bé của em.

Kính thưa anh chị em

Chúng ta sắp sửa lại mừng lễ Giáng Sinh của Chúa. Đây không phải chỉ là một việc làm ôn lại quá khứ mà là sống lại một biến cố trọng đại: Biến cố Thiên Chúa đã làm người vì chúng ta. Sự việc Ngài làm người quả đã làm cho mối tương quan giữa Ngài với con người hoàn toàn được đổi mới.

Một Thiên Chúa uy quyền cả bầu trời không chứa nổi nhưng lại có thể đến ngự ở trong mỗi tâm hồn nếu chính con người biết mở cõi lòng đón nhận. Nhưng làm sao để cho chúng ta có thể có được Ngài? Lời của Gioan Tẩy Giả nói với dân chúng, nói với những người thu thuế và lính tráng cũng chính là những lời Chúa muốn mượn miệng lưỡi của Gioan mà nói với chúng ta. Không phải thay đổi nghề nghiệp, cũng không phải thay đổi hoàn cảnh mà là phải thay đổi cách sống…sống sao cho Công Bằng, cho Bác ái. Được như thế chúng ta sẽ xứng đáng với sự Giáng Sinh của Chúa, không cần phải bằng một con người xương thịt như thuở xưa, nhưng bằng Thánh Thần và ơn Thánh Hóa để chúng ta được sống một cuộc sống xứng đáng hơn, làm con người và làm con Thiên Chúa. Amen.

Chúng con thân mến!

Hôm nay chúng con có thấy cái gì khác lạ không?

– Màu áo lễ là mầu hồng.

Rồi chúng con nghe các bài đọc vừa rồi, chúng con có thấy nói tới cái gì nhiều không? Thí dụ bài đọc thứ nhất trích từ sách Ngôn sứ Sophonia?

Ngay từ câu đầu ngôn sứ đã kêu: “Hãy vui lên”

Rồi tới bài đọc II  trích từ thư thứ I của Thánh Phaolô gửi giáo đoàn Thexalônica, thánh Phaolô cũng nói: “Anh em hãy vui mừng luôn trong Chúa”

Tiếp theo là bài Tin Mừng theo Thánh Luca cho mọi người biết muốn có niềm vui thì phải làm gì.

Chính vì thế mà các nhà Phụng vụ thường gọi Chúa Nhật hôm nay là Chúa nhật của Niềm vui

1. Cha hỏi chúng con niềm vui là gì?

Cha kể cho chúng con câu chuyện này: Có một cậu bé muốn đi gặp Chúa Giêsu, để chuẩn bị cho cuộc hành trình, cậu bỏ vào giỏ mấy chiếc bánh và hai chai sữa tươi. Và cậu bé lên đường, lòng vui tươi hớn hở. Mới đi được mấy dãy phố, cậu chợt thấy một bà cụ già đang ngồi trên một chiếc ghế đá công viên. Cậu thấy mỏi chân nên quyết định ngồi nghỉ một chút bên cạnh bà lão. Cậu lấy một chai sữa tươi ra, định uống cho đỡ khát.

Nhưng nhìn sang, thấy bà cụ run lập cập, có lẽ vì đói quá chăng. Cậu liền lấy bánh lẫn sữa ra mời bà. Bà cụ nhận tất cả với một nụ cười cảm động và biết ơn ôi nụ cười mới đẹp làm sao? Thế là hai bà cháu mải mê ngồi ăn uống và nói chuyện vui vẻ với nhau mãi.

Buổi chiều, khi cậu bé trở về nhà, bà mẹ thấy con rất vui liền hỏi:

– Hôm nay con có chuyện gì mà vui thế?

Cậu hớn hớ khoe:

– Mẹ có ngờ được không? Hôm nay con đã cùng ngồi ăn trưa với Chúa Giêsu. Người có nụ cười thật đễ thương mẹ ạ!

Trong khi đó, bà lão cũng chậm rãi trở về nhà, lòng chan chứa một niềm bình an. Cậu con trai lớn của bà hỏi thăm ngay từ cửa:

– Mẹ ơi, sao hôm nay mẹ có vẻ vui thế nhỉ?

Bà cụ móm mém trả lời:

– Này, con có ngờ được không? Hôm nay mẹ đã cùng được ngồi ăn trưa với đức Giêsu. Người trẻ hơn mẹ tương nhiều con ạ!

2. Làm sao để mình có được niềm vui?

Thánh Gioan cho chúng ta một bí quyết: Sống mỗi ngày tốt hơn một tí

Cha thấy ông Gioan là một người rất thực tế. Ông không đòi hỏi ai điều khó, khó đến nỗi họ không làm được.

Chúng con thấy khi những người lính đến hỏi ông thì ông trả lời: “Hãy bằng lòng với đồng lương của mình.”

Với những người thu thuế thì ông bảo: “Đừng có hà hiếp ai.”

Những người có đạo, ông khuyên người ta: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy.”

Cha hỏi chúng con: Tại sao ông Gioan lại đưa ra những lời khuyên khác nhau như vậy? Có phải ông phân biệt đối xử hay không? Hay là ông không muốn mọi người đều phải được đối xử như nhau.

Không phải thế chúng con! Mà phải nói như thế này mới đúng: Ông Gioan đã không dám bắt mọi người phải sống hoàn hảo như nhau. Ông chỉ muốn mỗi người sống mỗi ngày tốt hơn một tí. Những người chưa có được cuộc sống theo lẽ công bình thì hãy cố gắng sống công bình với mọi người. Những ai đã quen với cuộc sống công bình rồi thì cố gắng đưa cuộc sống mình lên cao hơn để sống bác ái.

Với những người thu thuế và những người lính, họ đã quen sống thiếu công bằng và chưa biết sống bác ái yêu thương, nghĩa là họ chỉ quen sống với điều mà người ta gọi là luật rừng, ông chỉ dám khuyên họ sống tốt hơn một chút. Sống tốt hơn ở đây là biết cư xử công bình với nhau.

Còn đối với những người đã biết sống công bình, ông khuyên họ đưa cuộc sống của họ lên cao một tí. Cao ở đây là lên tới cuộc sống bác ái yêu thương. Bác ái yêu thương ở đây là biết chia sẻ.

3. Thí dụ cụ thể.

Có lần, một sinh viên nói với nhà khoa học và triết học Blaise Pascal:

– Nếu cháu được tài giỏi như chú, cháu sẽ trở thành một người tốt hơn!

Ông Pascal trả lời:

– Điều đầu tiên là cháu hãy trở thành một người tốt hơn, rồi cháu sẽ được tài giỏi như chú!

Tại một tiệm bán thực phẩm cho các loài chim kia, vì muốn thu hút khách hàng, nên ông chủ tiệm bắt được con phượng hoàng đem nhốt vào cái lồng lớn đặt trong tiệm.

Một hôm, có hai ông cháu từ miền núi xuống thành phố mua đồ. Khi đi ngang qua tiệm, vừa trông thấy con chim phượng hoàng bị nhốt trong lồng, ông ta động lòng thương hại, liền ngỏ ý với ông chủ tiệm xin mua con chim ấy.

Không để mất cơ hội, ông chủ tiệm đòi giá tiền thật cao.

Không một lời trả giá, người khách hàng đi thẳng tới nhà ngân hàng, rút số tiền cần thiết và trở lại tiệm mua chim phượng phoàng. Ông ta vui mừng ẵm con chim trên tay bước ra khỏi tiệm. Vừa bước chân tới quãng đường vắng, ông ta liền mở tay ra để chim được tự do bay bổng giữa bầu trời mênh mông của nó.

Ngạc nhiên trước việc làm của ông, đứa cháu nhỏ tò mò lên tiếng hỏi:

– Thưa ông nội, tại sao ông lại sẵn sàng hy sinh một số tiền lớn như vậy để chuộc trả tự do cho con chim phượng hoàng ấy.

Ông vui vẻ đáp:

– Cháu hãy ghi lòng tạc dạ điều này: trên đời, giàu sang không chỉ căn cứ trên những gì mình có thể chiếm đoạt được mà thôi, nhưng chính là trên những gì mình cần phải cho đi, để có thể thực hiện được điều tốt lành cần phải làm.

Hay quá chúng con! Làm sao có thể thực hiện được những điều tốt đẹp mà mình cần phải làm. Chẳng thiếu gì những điều như thế chung quanh cuộc sống của mỗi người chúng ta. Cha cho chúng con một thí dụ.

Một cậu bé xuất hiện trước cửa hàng bán chó và hỏi người chủ cửa hàng:

– Giá mỗi con chó là bao nhiêu vậy bác?

Người chủ cửa hàng trả lời:

– Khoảng từ 30 tới 50 đô la một con!

Cậu bé rụt rè nói:

– Cháu có thể xem chúng được không ạ?

Người chủ cửa hàng mỉm cười rồi huýt sáo ra hiệu. Từ trong chiếc cũi, năm chú chó con bé xíu như năm cuộn len chạy ra, duy có một chú bị tụt lại sau khá xa. Ngay lập tức, cậu bé chú ý tới chú chó chậm chạp, hơi khập khiễng đó. Cậu liền hỏi:

– Con chó này bị sao vậy bác?

Ông chủ giải thích rằng nó bị tật ở khớp hông và nó sẽ bị khập khiễng suốt đời.

Nghe thế cậu bé tỏ ra xúc động:

– Đó chính là con chó cháu muốn mua!

Chủ cửa hàng nói:

– Nếu cháu thực sự thích con chó đó, ta sẽ tặng cho cháu. Nhưng ta biết cháu sẽ không muốn mua nó đâu.

Gương mặt cậu bé thoáng buồn, cậu nhìn thẳng vào mắt ông chủ cửa hàng và nói:

– Cháu không muốn bác tặng nó cho cháu đâu. Con chó đó cũng có giá trị như những con chó khác mà. Cháu sẽ trả bác đúng giá. Thực ra, ngay bây giờ cháu chỉ có thể trả bác 2 đô la 37 xu thôi. Sau đó, mỗi tháng cháu sẽ trả dần 50 xu được không ạ?

– Bác bảo thật nhé, cháu không nên mua con chó đó, người chủ cửa hàng khuyên. – Nó không bao giờ có thể chạy nhảy và chơi đùa như những con chó khác được đâu.

Ông vừa dứt lời, cậu bé liền cúi xuống vén ống quần lên, để lộ ra cái chân trái tật nguyền, cong vẹo được đỡ bằng một thanh kim loại. Cậu ngước nhìn ông chủ cửa hàng và khẽ bảo:

– Chính cháu cũng chẳng chạy nhảy được mà và chú chó con này sẽ cần một ai đó hiểu và chơi với nó.(Dan Clark)

Muốn có được niềm vui chúng ta cũng phải làm như thế. Phải biết chia sẻ, Chia sẻ càng nhiều càng tốt. Làm được như thế nhất định chúng ta sẽ có thật nhiều niềm vui trong Mùa Giáng Sinh này. Amen.

Kính thưa anh chị em.

Lại một làn nữa, chúng ta được nghe một đoạn Tin Mừng của Thánh Sử Luca.

 Tin Mừng chúng ta vừa nghe gồm 3 ý :

1. Ý số một: Thánh Luca  muốn cho mọi người thấy Đức Giêsu là một nhân vật có thật trong lịch sử.

Chính vì thế mà Luca liệt kê ra những nhân vật lịch sử đang hành quyền lúc Gioan Tẩy giả bắt đầu rao giảng. Trong số những nhân vật ấy,

– Có những người đang nắm quyền thuộc lãnh vực chính trị, như Hoàng đế Tibêriô, Tổng trấn Phonxiô Philatô, các Tiểu vương Hêrôđê, Philípphê, Lyxania.

– Có những người đang nắm quyền thuộc lãnh vực tôn giáo, như các thượng tế Khanna và Caipha.

Lãnh địa mà họ đang hành quyền vừa là phần đất Do thái (như Giuđê, Galilê), vừa là phần đất lương dân (như Iturê, Trakhônít, Abilên).

2. Ý thứ 2: Khi kê khai ra những nhân vật đang cầm quyền vừa trong lãnh vực tôn giáo lẫn lãnh vực chính trị, vừa ở đất Do thái vừa ở đất lương dân, Thánh Luca còn muốn nói Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ phổ quát, chẳng những cho người Do thái mà còn cho mọi dân tộc. Thiên Chúa là Chúa của mọi người, mọi dân tộc chứ không phải là Chúa của riêng ai, hay của một dân tộc nào.

Một thi sỹ nọ đã sáng tác một bài thơ để giúp chúng ta tránh những tư tưởng ích kỷ trong lúc đọc kinh Lạy Cha như sau:

“Bạn không thể đọc Kinh Lạy Cha

Nếu chỉ một lần bạn nghĩ là “của tôi”

Bạn không thể đọc Kinh Lạy Cha

Nếu chỉ một lần bạn nghĩ  là “cho tôi”

Bạn cũng không thể đọc Kinh Lạy Cha

Nếu không cầu cho kẻ khác”.

Khi chúng ta xin lương thực hằng ngày chúng ta phải hiểu là “cho mọi người”. Bởi lẽ mọi người đều có mặt trong mỗi một và trong tất cả câu kinh. Từ chữ đầu cho đến chữ cuối, không một chữ nào mang chữ “tôi”.

Anthony de Mello, S.J.kể lại rằng:

Một Kitô hữu nọ đến thăm một vị thiền sư và nói với vị ấy rằng:

– Xin Ngài cho phép tôi đọc cho Ngài nghe bài giảng trên núi.

Vị thiền sư trả lời:

– Rất hân hạnh được nghe ngài.

Người Kitô hữu đọc được một câu. Vị thiền sư mỉm cười bảo:

– Người tuyên bố những lời này đúng là kẻ đã giác ngộ.

Thích thú, người Kitô hữu đọc tiếp. Vị thiền sư ngắt lời và nói:

– Lời này phải là của một Đấng cứu chuộc thiên hạ.

3. Ý thứ 3: Gioan Tẩy giả chính là kẻ Tiền Hô dọn đường cho Chúa.

 Vâng! Gioan được kêu gọi “trong sa mạc”, nghĩa là trong một khung cảnh thinh lặng. Và ông cũng lại lên tiếng trong sa mạc.

“Tiếng của người hô trong sa mạc: Hãy dọn đường Chúa, hãy bạt lối Người đi” (Mt. 3,3)

Tại sao tiếng hô lại được cất lên trong sa mạc chứ không phải là thành thị, phố xá hay phòng trà, chợ búa, nơi người ta đang quây quần đông đúc hay đang vui chơi tội lỗi? Tiếng hô phải được cất lên chính những nơi này mới có người nghe, mới mong có kẻ quay đầu qui chánh, sửa đường bạt lối, làm nên nẻo chính đường ngay cho Đấng Thiên Sai chứ!

Lạ lùng thật! Gioan sống trong sa mạc và tiếng hô của ông cũng lại vang lên giữa vùng hoang vắng.

Không biết chốn trời không mông quạnh thế kia thì tiếng hô được mấy ai chú ý. Tiếng hô vang, vang lên mãi… Nhưng trong nơi trống vắng thì ai nghe cho!

Phải chăng Gioan đã hô lên cho chính mình ông nghe?

Quả đúng như vậy. Trước khi lời kêu gọi: “Hãy dọn đường Chúa, hãy bạt lối Người đi” đến được với mọi người thì trước tiên lời đó phải đến với chính Gioan trước.

Chính nhờ biết hô với chính mình trước hết nên Gioan đã có sức lôi kéo từng đoàn người từ khắp xứ Giuđê đến với ông, để nghe tiếng ông hô, và chịu làm theo lời ông răn dạy. Chính nhờ biết hô cho chính mình mà tiếng hô của Gioan đã vang đến tận khắp các vùng Giêrusalem, xâm nhập tới cõi lòng của bao kẻ sa đọa khô khan.

Không phải chỉ sau khi nghe tiếng hô của Gioan mới bắt đầu có người ăn năn hối cải, chịu thanh tẩy để dọn đường cho Chúa đến. Đúng hơn, từ hoang vắng của sa mạc và trong nơi tịch liêu của cõi lòng, Gioan đã nghe tiếng hô phát ra: “Hãy dọn đường cho Chúa đến”. Lời đó vang đi dội lại trong lòng ông, thúc bách ông nối dài tiếng hô bằng cách ra đi “dọn lòng người cho Chúa đến.”

Cho nên, Gioan chính là người đã dọn đường lòng mình trước nhất. Vì biết lắng nghe những điều mình hô, nên tiếng hô của mình mới có người đáp lại. Sự lắng nghe không chỉ bằng thính giác, nhưng còn bằng tâm hồn. Và từ tâm hồn mới phát sinh những thái độ sống. Một đứa trẻ “biết nghe” không nhất thiết phải là một đứa trẻ có thính giác tốt, nhưng là một đứa trẻ biết ghi tâm lời nói của bố mẹ, thầy cô, và mang ra thực hành.

Thomas Merton đã từng nhận xét:

“Nếu đời ta cứ phun ra những lời vô ích

Chẳng bao giờ ta nghe được bất cứ điều gì,

Chẳng bao giờ ta thấy bất cứ điều gì,

Chẳng bao giờ ta trở nên bất cứ cái gì.

Thế rồi,

Vì cứ nói mãi trước khi có cái gì để nói,

Ta trở thành người không biết nói.”

Không biết nói hoặc nói điều vô ích mà cứ bắt người khác lắng nghe thì chỉ tạo nên những cực hình, phản kháng.

Nhiều gia đình bất an, nhiều cộng đoàn bất thuận, nhiều quốc gia bất hoà chỉ vì có kẻ không biết nói. Nguyên do là thiếu lắng nghe, sự lắng nghe của tâm hồn. Tâm hồn không nghe được vì còn ngổn ngang đây đó nhiều chướng ngại của tự ái, ích kỷ, kiêu căng, tự mãn… Nói tới đây tôi nhớ một câu chuyện. Câu chuyện có liên quan tới một nhân vật lịch sử rất quen thuộc với nhiều người. Đó là ông Gandhi.

Mahatma Gandhi là một vị lãnh tụ chính trị chủ trương bất bạo động, do vậy ông được mọi người dân An-Độ rất tin cậy quý mến trong mọi việc lớn nhỏ. Một hôm, có một bà mẹ dắt một bé gái đến, khẩn nài Gandhi thuyết phục con bà chừa bỏ tật xấu ăn quá nhiều kẹo. Gandhi trầm ngâm hồi lâu rồi bảo:

– Thế này nhé, tôi xin hẹn 3 tuần nữa bà đưa cháu bé trở lại đây, tôi sẽ nói chuyện với cháu…

Ba tuần sau, người mẹ đưa con trở lại. Lần này Gandhi gọi bé gái đến bên cạnh và ôn tồn giải thích cho em về những tai hại của thói quen ăn quá nhiều chất ngọt như kẹo bánh. Em bé gật đầu hiểu ra và hứa sẽ chừa bỏ. Bà mẹ mừng rỡ, rối rít cám ơn Gandhi, nhưng bà cũng không quên thắc mắc:

– Thưa ngài, sao ngài không bảo ngay cho cháu cũng những lời khuyên quý báu ấy cách đây 3 tuần?

Gandhi khiêm tốn thú nhận

– Cách đây 3 tuần ư? Lúc ấy chính tôi cũng còn đang mắc phải tật xấu ăn quá nhiều đồ ngọt…”

Gandhi đã ý thức thật rõ: mình còn có tật xấu thì làm sao mà chinh phục được người khác!

 Lắm khi ta than thở: “Chúa không chịu nghe tiếng tôi”. Nhưng thử hỏi: “Chúa không nghe tiếng tôi hay vì tôi không nghe được tiếng Ngài? Rồi khi nghe được tiếng Chúa, liệu tôi có chấp nhận để tiếng ấy uốn nắn biến đổi đời mình không?”

Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con,
xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.

 Mỗi lần con thấy Chúa,
xin biến đổi ánh mắt con.
Mỗi lần con rước Chúa,
xin biến đổi môi miệng con.
Mỗi lần con nghe lời Chúa,
xin biến đổi tai con.

 Xin làm cho khuôn mặt con ngời sáng hơn
sau mỗi lần gặp Chúa.

 Ước chi mọi người thấy nét tươi tắn của Chúa
trong nụ cười của con,
thấy sự dịu dàng của Chúa
trong lời nói của con.

 Thế giới hôm nay không cần những kitô hữu
có bộ mặt chán nản và thất vọng.

 Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm
cùng đi với Chúa và với tha nhân
trên những nẻo đường gập ghềnh.
Amen.

Thiếu nhi chúng con yêu quí.

Chúng ta vừa nghe một bài Tin Mừng do thánh Luca thuật lại.

Cha đố chúng con Thánh Luca nói đến ai và nói về vấn đề gì trong bài Tin Mừng hôm nay?

– Dạ thưa cha Thánh Luca nói đến Ông Gioan Tẩy Giả.

– Và nói về vấn đề gì nào?

– Dạ thưa cha nói về những lời kêu mọi người sám hối để được ơn tha tội.

– Chúng con trả lời rất đúng. Cha khen chúng con. Và bây giờ cha bắt đầu nói với chúng con về từng vấn đề.

1. Trước hết là về Gioan Tẩy Giả.

Khi nhìn vào cuộc đời của Gioan Tẩy Giả, chúng con có thấy điều gì nổi bật không? Không biết chúng con nghĩ sao chứ riêng cha, cha thấy có một vài điểm rất nổi bật này:

+ Đầu tiên cha thấy ông là người coi thường những thứ mà người đời hay tìm kiếm. Nhưng thử hỏi những thứ mà người đời hay tìm kiếm là những thứ nào chúng con? Cha đọc trong lịch sữ cha thấy những điều mà người đời hay tìm kiếm là những thứ có cò liên hệ mất đến 4 nhu cầu căn bản này của con người đó lá Ăn-Ở-Đi-Mặc.

Ai cũng muốn được ăn ngon-mặc đẹp-Ở nhà sang- Đi lại bằng những phương tiện sang trọng.

Gioan có thèm những thứ đó không chúng con?

Chúng con hãy đọc lại Tin Mừng. Tin Mừng ghi làm sao? Tin Mừng Thánh Marcô ghi: “Vào thời đó, ông Gioan Tẩy Giả đã xuất hiện ở trong hoang địa, rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội. Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng.” (Mc 1.4.7)

Đúng là cuộc sống siêu thoát, không màng gì đến những thú vui của thế gian mặc dầu ông có dư điều kiện để sống cuộc đời như nhiều người thèm muốn. Thủ hỏi ông làm như thế để làm gì chúng con. Cha tưởng là ông muốn tự rèn luyện mình để trở thành một cây lim cây sến như Đức Cha Thiamer Toth nói, một con người có chí khí sắt đá kiên cường, hầu có thể đứng vững trước mọi thử thách mà ông phải đương đầu sau này khi ông đi loan truyền sứ vụ Chúa trao phó.

+ Tiếp theo cha thấy ông Gioan Tẩy Giả là người có một lý tưởng để sống. Có lần Chúa Giêsu nói về ông như thế này: “Anh em ra xem gì trong hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng? Thế thì anh em ra xem gì? Một người mặc gấm vóc lụa là chăng? Kìa những kẻ mặc gấm vóc lụa là thì ở trong cung điện nhà vua. Thế thì anh em ra xem gì? Một vị ngôn sứ chăng? Đúng thế đó; mà tôi nói cho anh em biết, đây còn hơn cả ngôn sứ nữa. Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến. Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả.(Mt 11,7-11)

Cha thấy ở trên đời có nhiều người sống nhưng không biết sống để làm gì. Chúng con nghe câu chuyện này.

Ngày kia có ba người mặt mày buồn bã đến hỏi ý kiến của một nhà hiền triết, xem làm thế nào để họ được sống vui vẻ có ý nghĩa. Nhà hiền triết hỏi họ:

– Trước tiên, các ông hãy nói cho tôi biết các ông sống vì cái gì?

Người thứ nhất trả lời – Vì tôi không muốn chết, cho nên tôi sống.

Người thứ hai nói: – Vì tôi muốn nhìn xem ngày mai có tốt hơn ngày hôm nay hay không, vì vậy mà tôi sống.

Người thứ ba nói: – Vì tôi có một gia đình phải nuôi dưỡng. Tôi không thể chết, vì vậy mà tôi sống.

Nghe vậy nhà hiền triết lắc đầu nói:

 – Thế thì đương nhiên là các ông không được vui vẻ rồi, vì các ông sống chỉ vì sợ hãi, chờ đợi, trách nhiệm bất đắc dĩ, chứ không vì lý tưởng.

Nhìn vào cuộc sống của Gioan, mọi người phải nể phục ông. Ông sống rất đẹp. Mọi người phải nể phục không phải vì Gioan là người có quyền cao chức trọng nhưng vì đời sống của ông đẹp quá, cao cả quá, thánh thiện quá. Gioan là người luôn hướng nhìn về phía trước, sống cho phía trước. Phía trước có cõi đời đời. Trong cõi đời đời đó có Thiên Chúa hằng sống. Gioan sống và phục vụ cho Đấng Hằng Sống vì thế mà đời của Gioan đẹp.

2. Tiếp theo là đề tài ông Gioan rao giảng.

Tin Mừng bảo Gioan đã mượn lời tiên tri Isaia để nói với mọi người. “Hãy dọn sẵn con đường của Ðức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng.”(Lc 3,4-5)

Ý của Gioan thật rõ ràng. Ơn Cứu độ của Thiên Chúa đã gần kề. Muốn được Chúa Cứu độ thì phải làm đường, nghĩa là phải làm cho tâm hồn của mình cho xứng đáng.

Chúng con hãy nghe câu chuyện cảm động này: Charlie là một tội phạm. Anh bị cáo buộc là đã giết một viên chức hành chánh tại đại học Haverford ở Pennsylvania. Anh bị toà kết án và án là phải tử hình trên ghế điện. Trong khi anh ngồi tù, thì có một đoàn truyền bá Phúc âm thuộc nhà thờ Alden Union giúp anh đến với Chúa. Charlie học Kinh thánh và rất thích Thánh ca. Charlie hay hát bài: “Không ai săn sóc tôi bằng Chúa Giêsu”.

Trước khi bị đưa lên ghế điện, Charlie xin được nói chuyện với các bạn tù của anh. Khi được phép, Charlie nói với mọi người về niềm vui của anh trong Chúa. Anh bảo rằng anh không còn sợ bị hành quyết. Anh rất hối hận về tội của mình, nhưng đã được Chúa tha thứ và bịết rằng chẳng bao lâu nữa sẽ được gặp Chúa trực tiếp.

Cuối giờ nói chuyện, Charlie hát bài hát mình thích nhất rồi bước xuống. Một tờ báo tại Philadelphia thuật rằng khi đi vào ghế điện, anh hát một lần nữa. Khi người ta trùm đầu Charlie, câu nói cuối cùng của anh cũng là lời hát, rằng: “Một ngày kia tôi sẽ gặp mặt Chúa phúc hạnh”.

Charlie đối diện với cái chết không sợ sệt vì bịết rằng Chúa Giêsu đã cất đi “tội ác và bóng tối” trong tâm hồn anh. Chuá đang sống và cùng đi với anh vào thung lũng của tử thần.

Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con,
xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.

 Mỗi lần con thấy Chúa, xin biến đổi ánh mắt con.
Mỗi lần con rước Chúa, xin biến đổi môi miệng con.
Mỗi lần con nghe lời Chúa, xin biến đổi tai con.

 Xin làm cho khuôn mặt con ngời sáng hơn
sau mỗi lần gặp Chúa.

 Ước chi mọi người thấy nét tươi tắn của Chúa trong nụ cười của con,
thấy sự dịu dàng của Chúa trong lời nói của con.

 Thế giới hôm nay không cần những kitô hữu
có bộ mặt chán nản và thất vọng.

 Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm cùng đi với Chúa và với tha nhân trên những nẻo đường gập ghềnh. Amen.

Kình thưa anh chị em,

Cùng với toàn thế Giáo Hội, chúng ta chính thức bước vào Mùa Vọng hôm nay.

Mở đầu Mùa Vọng,“Chúa Giêsu bảo chúng ta: “Hãy ngẩng đầu lên vì ơn cứu độ đã đến gần”(Lc 21,28)

1. Thế nàongẩng đầu lêntại sao lại phải ngẩng đầu lên như vậy?

Chúa Giêsu bảo chúng ta phải ngẩng đầu lên vì chúng ta thường hay cúi đầu xuống. Cúi đầu xuống để chỉ nhìn thấy những cái dưới đất, chỉ khao khát, tìm kiếm những cái dưới đất và lấy làm thỏa mãn với những cái dưới đất.

Nói là: “cúi đầu xuống” nhưng thực ra là để cho lòng bị thu hút, bị phong tỏa, bị ràng buộc vào trái đất bởi biết bao sợi giây vô hình, gỡ ra không nổi. Tình trạng này làm tâm hồn chúng ta tê liệt đến nỗi không còn đủ sức cất cánh lên cao, để khao khát, tìm kiếm những gì chân thật, vĩnh cửu, là những cái tạo nên thực chất và ý nghĩa cuối cùng của cuộc đời con người.

Một chú vịt trời theo đàn bay về phương Bắc. Một buổi chiều khi đáp xuống một nông trại, chú vịt trời thấy đàn vịt nhà đang ăn bắp, liền nhảy lên để được ăn. Bữa ăn ngon làm nó không muốn bay theo đàn nữa, nó tự nhủ: để mai mốt mình bay theo cũng không muộn.

Nhưng rồi ngày qua ngày nó vẫn ở với đàn vịt nhà để được nuôi ăn. Mùa thu đến, đàn vịt trời bay từ hướng Bắc xuống hướng Nam: các bạn cũ kêu nó trở về khi bay qua nông trại, chú vịt trời ráng sức dập cánh bay lên, nhưng đôi cánh bây giờ quá yếu, nó chỉ bay được lên nóc nhà rồi lại rơi xuống đất. Đời sống dễ dãi ở đây đã làm nó không thể bay được như xưa. Nó đành đứng nhìn đàn vịt trời bay xa dần.

Từ đó mỗi mùa xuân và mùa thu, chú vịt trời đều thấy các bạn cũ bay qua hướng Bắc rồi trở về hướng Nam. Nhưng nó không thể cất cánh bay theo vì nó đã đánh mất đi khả năng thiên phú của nó để rồi nó yên phận sống dưới đất với đàn vịt nhà trong trang trại!.

Cuộc sống của con người trên trái đất này nhiều khi cũng như thế. Có nhiều người đã để cho mình bị mắc kẹt vào những sự tầm thường mà không gỡ ra nổi.

Đành rằng cuộc sống diễn ra dưới đất thì không thể không yêu mến trái đất này. Phải khai thác, sử dụng trái đất hợp với nhu cầu và lợi ích chính đáng của con người. Mỗi người phải nhận lấy trách nhiệm xây dựng trần thế và gây dựng cuộc đời của chính mình. Điều này chính đáng và cần thiết.

Nhưng như vậy đã đủ chưa? Một chén cơm đầy, một ngôi nhà sang trọng, một trương mục đầy tiền, một chiếc xe hơi lộng lẫy đã đủ để thỏa mãn ước mơ làm người của chúng ta chưa? Có còn cần cái gì khác nữa không?

Chúa Giêsu bảo chúng ta hãy ngẩng đầu lên là muốn thức tỉnh chúng ta. Đừng giam mình trong những giấc mơ nhỏ bé hoặc hão huyền. Đừng bao giờ lấy làm thỏa mãn với những cái dễ dãi, tương đối. Đừng ưa hàng giả. Phải mơ ước những cái thật cao cả. Phải tìm kiếm những gì thực sự đưa tới hạnh phúc chứ không phải chỉ đánh lừa hạnh phúc.

2. Chúa Giêsu Còn Bảo: Ơn Cứu Độ Đã Gần Đến

Thế nào là đã gần đến? Có thể hiểu những chữ đã gần đến theo nhiều nghĩa.

Trước hết, ơn cứu độ đã gần đến có nghĩa là ơn cứu độ thật khẩn trương. Khẩn trương vì quan trọng nhất, cần thiết nhất. Đừng có chần chừ, do dự, thoái thác. Tìm ơn cứu độ phải đứng đầu trong các việc cần làm ngay. Khốn nỗi, trong tâm hồn nhiều tín hữu, nhiều lúc việc khẩn thiết nhất này đã mất tính ưu tiên. Có lẽ nó được nghĩ đến ít nhất vì thường bị coi là phụ thuộc nhất.

Thứ đến, ơn cứu độ đã gần đến cũng có nghĩa là ơn cứu độ luôn ở tầm tay, không bao giờ thiếu. Hễ muốn là có, hễ tìm là thấy… vì Thiên Chúa rộng lượng, lúc nào cũng sẵn sàng ban và ban thật dồi dào. Nhưng xem chừng hồng ân đó chẳng được giá bao nhiêu. Người ta đâu có hăm hở vào Nước Trời như chen chúc nhau vào các rạp hát, các cửa hàng bán hạ giá, xếp hàng dài trước địa điểm phát hàng ngoại nhập.

 Vào năm 160, dưới thời bắt đạo của Hoàng Đế Marc Ausèle Valérien, chồng của thánh nữ Cécilia, và em là Tiburce bị nhốt ngục vì đức tin. Một sĩ quan Maxime được lệnh dẫn các ông ra pháp trường. Mở cửa ngục thất, ông thấy họ quỳ gối dưới đất, mắt ngước lên trời, guơng mặt bình tĩnh phi thường. Tuổi thanh xuân, gia đình sang trọng, vẻ ngây thơ trong trắng và tinh thần nhẫn nhục chịu đựng nơi các tử tội đã khiến người quân nhân rơi lệ.

          – Tại sao ông khóc? – một tù nhân hỏi.

– Tôi khóc vì thấy các bạn trẻ trung, giàu sang, qúy phái mà lại sắp chết .

–  Ông Maxime ạ, đừng tưởng nhầm nữa. Chúng tôi là người công giáo, và một một khi đã giã từ cõi trần này, người công giáo tôi chuyển sang một cuộc sống tươi đẹp hơn, một nơi không có bóng dáng tử thần nữa.

– A! Giả như đúng như lời các bạn nói?

– Nếu ông hứa sẽ giữ đúng niềm tin ngưòi công giáo thì giờ chúng tôi chết, ông sẽ nhìn thấy sự thật tận mắt.

Maxime hứa và khi nhát dao người đao phủ chặt đầu các vị  tuẫn giáo vừa đứt, ông đã thấy linh hồn họ sáng ngời. Sau đó không lâu, chính Maxime cũng đã tìm đến với đức tin van được nhận triều thiên chiến thắng.

3. Khám Phá Niềm Vui

 Có lẽ ít khi chúng ta nghĩ đến niềm vui trong Chúa. Chúng ta cũng thường quên rằng niềm vui là nét tiêu biểu của đời Kitô hữu. Có lẽ bởi vậy mà ít khi chúng ta vui thật, vui sâu xa và lâu bền trong lòng, một niềm vui biến thành bình an. Bình an chính là một tên gọi khác của niêm vui.

Cũng chính vì chúng ta không đặt niềm vui của chúng ta “trong Chúa” nên chúng ta thường đại tìm nguồn vui độc hại ở nơi khác ngoài Chúa. Hậu quả là lo âu, buồn chán của cuộc sống có cơ lấn át bình an, làm cản nghị lực và sức sông, làm chúng ta yếu đi, già đi.

Phụng vụ “Chúa nhật Vui mừng chẳng những gợi lên tính vui tươi của Mùa Vọng mà còn chỉ cho chúng ta thấy nguồn vui vô tận luôn tiềm ẩn trong lòng người tín hữu. Nguồn vui vô tận ấy chính là sự hiện diện của Thiên Chúa trong mỗi tâm hồn.

Cách đây mấy năm, tại Hollywood, có một tài tử điện ảnh đột nhiên ngã bệnh. Sau khi khám cho anh, bác sĩ riêng đã thẳng thắn nói cho chàng tài tử biết: “Tình trạng sức khoẻ của anh bi đát lắm! Chúng tôi cần phải thực hiện một cuộc giải phẫu kéo dài 36 tiếng đồng hồ mới may ra cứu sống anh được”. Về sau, chàng tài tử ấy thực sự thú nhận: “Trong 36 tiếng đồng hồ ấy, tôi đã học được nhiều điều hơn 36 năm trước đó của tôi, và tôi đã cảm nghiệm được niềm vui mà trước đó tôi chưa bao giờ cảm nghiệm được. Tôi khám phá ra rằng tôi chẳng hề sợ chết vì trước đó tôi có thói quen mỗi ngày cầu nguyện với Chúa Giêsu và bây giờ khi phút giây cam go xảy đến, tôi cảm nhận được kết quả của lời cầu nguyện ấy. Chính lúc đó tôi mới khám phá ra rằng nhờ những lần tâm sự, nói chuyện hằng ngày với Chúa Giêsu truớc đó, mà giữa Ngài và tôi chẳng xa lạ gì nhau, chúng tôi đã trở nên đôi bạn chí thân”.

Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con nhìn thấy sự hiện diện của Chúa ở bên con dưới muôn ngàn dáng vẻ.

Xin cho con gặp Chúa nơi bất cứ ai là người vì họ có cùng khuôn mặt với Chúa.

Xin cho con khám phá ra Chúa đang hẹn gặp con nơi mọi biến cố buồn vui của đời thường.

Ước gì con thấy Chúa ở khắp nơi, đâu đâu cũng là nhà của Chúa.

Và ước gì con đừng bỏ lỡ bao cơ hội gặp Chúa trên bước đường đời của con. Amen.

Thiếu nhi chúng con yêu quí.

Chúng ta vừa được nghe một bài Tin Mừng rất lạ của Chúa Giêsu.

Trong bài Tin Mừng này Chúa nói với mọi người về ngày Chúa Quang Lâm hay ngày Chúa trở lại phán xét trần gian mà chúng ta quen gọi là ngày Tận thế. Ngày ấy chưa xảy ra nhưng chắc chắn nó sẽ xảy ra.

Chúa đã dùng những lời nói và những hình ảnh hết sức ấn tượng để nói về ngày này.

Đây chúng con hãy nghe lại vài câu: “Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển. Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến.”(Lc 21,26-27)

Chúa bảo lúc đó người ta sẽ sợ đến hồn xiêu phách lạc.Thật là đáng sợ! Nhưng giữa cảnh sợ hãi đó, Chúa lại nói với chúng ta là những người con cái của Chúa những lời hết sức phấn khởi. Chúa bảo làm sao chúng con? Chúa bảo: “Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc”(Lc 21,28).

Hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên. Chỉ có hai câu thật vắn tắt thôi nhưng chúng ta cũng thấy được ý muốn của Chúa đối với chúng ta thật lạ lùng. Chúa muốn chúng ta phải tin tưởng vào Chúa và sống anh hùng.

1. Đứng thẳng!

Chúa không muốn chúng ta sống bạc nhược run sợ trước mọi thử thách ở trên trần gian này. Chúa muốn chúng ta phải biết đứng thắng. Đứng thẳng là tư thế của của những anh hùng.

Đức Cha Tihamer Toth có thuật lại một câu chuyện hết sức cảm động về một em bé tên là Barlaam như thế này. Thời kỳ cấm đạo đẫm máu trong thế kỷ thứ nhất của đạo Thiên Chúa, một người dân quê bị bắt và bị dẫn ra trước tượng thần Jupiter.

– Hãy bỏ hương vào lửa rồi dâng cúng cho thần linh chúng ta!

Người ta giục anh như thế.

– KHÔNG! anh trả lời…

Người ta bắt đầu hành hạ anh, nhưng anh vẫn đứng thắng và im lặng. Người ta nâng tay anh lên trên ngọn lửa, người ta nhét hương vào bàn tay anh và bảo anh chỉ có việc bỏ rơi hương xuống lửa:

– Hãy bỏ hương xuống, mày sẽ được tự do!.

– KHÔNG. Barlaam, người dân quê đó vẫn trả lời như thế. Anh vẫn đứng thằng và tay giơ lên… ngọn lửa bốc mạnh liếm hẳn vào bàn tay anh, hương bắt đầu bén khói, nhưng anh vẫn không động đậy… Bàn tay anh bị cháy xém với hương, nhưng Barlaam thà chịu chết vì Đạo còn hơn chối Chúa. Một quả tim biết chịu đựng! Đúng là thái độ của một anh hùng

Và đây đây là câu chuyện có thật xảy ra thời Liên xô còn thống trị cả một vùng đất lớn bên Âu Châu. Khi quân đội Nga tiến vào thủ đô Budapest nước Hung-ga-ri để trấn áp một cuộc bạo động, có một viên sĩ quan trẻ hung hăng trong tư thế một kẻ chiến thắng, đã tìm đến nhà của một vị mục sư.

Anh ta bước vào phòng. Đóng xập cửa lại, tay chỉ lên cây Thánh Giá treo trên tường và bảo ông mục sư:

– Này, ông có biết không, cái đó là một sự dối trá, mê hoặc dân nghèo để bọn người giàu có thể kìm hãm họ trong sự ngu dốt. Bây giờ chỉ có ông và tôi, ông hãy thú nhận là ông không hề tin cái ông Giê-su nào đó là Con của Thiên Chúa…

Vị mục sư điềm tĩnh nhỏ nhẹ trả lời:

– Không thể được, tôi thật sự tin vào Người!

Viên sĩ quan rút súng ra và bảo:

– Ông đừng có đùa với tôi! Nếu ông không khẳng định đó là sự dối trá, tôi sẽ nổ súng giết ông ngay lập tức!

Vị mục sư đứng thẳng người, nhìn sâu vào đôi mắt anh ta và dõng dạc trả lời:

– Tôi không thể nói khác được. Đức Giê-su thật sự là Con Thiên Chúa!

Thật không ngờ, nghe đến đây, viên sĩ quan vứt khẩu súng xuống nền nhà, chạy lại ôm chầm lấy vị mục sư. Anh vừa khóc vừa nói:

– Xin lỗi ông, tôi chỉ muốn thử xem ông có trung thực hay không! Đúng thế, tôi cũng đã âm thầm lặng lẽ tin trong suốt nhiều năm qua như ông đã tin! Nhưng giờ đây, tôi đã khám phá ra rằng: có ít nhất một người dám chết cho Đức Tin của mình, chính ông, ông đã củng cố Đức Tin cho tôi!

Đó! Những người theo Chúa phải sống anh hùng như thế.

2. Tiếp theo Chúa bảo chúng ta: Hãy ngẩng đầu lên!

Dale Carnegie trong tác phẩm nổi tiếng của ông là cuốn Quảng Ganh Lo Đi Và Vui Sống có thuật lại một câu chuyện rất nhỏ nhưng ý nghĩa của nó thì thật sâu sắc.  Câu chuyện như sau: “Trong một nhà tù, hai người cùng đứng vịn tay vào song sắt; một người nhìn xuống chỉ trông thấy một bức tường trơ trụi, còn một người ngửa mặt nhìn lên trời, thì thấy những vì sao.”

 Hai người cùng một hoàn cảnh tù tội, cùng đứng trong một căn phòng, nhưng hai thái độ của họ đối với cuộc sống hoàn toàn khác nhau. Thái độ của người biết nhìn lên hoàn toàn khác với thái độ của người chỉ biết nhìn xuống.

Bước vào Mùa vọng hôm nay, Chúa cũng muốn chúng ta biết ngẩng đầu lên. Tại sao Chúa lại muốn chúng ta ngẩng đầu lên như vậy?

Chúa Giêsu bảo chúng ta phải ngẩng đầu lên vì chúng ta thường cúi đầu xuống. Cúi đầu xuống để chỉ nhìn thấy những cái ở dưới đất. Chỉ khao khát, tìm kiếm những cái ở dưới đất và lấy làm thỏa mãn với những cái ở dưới đất, làm cho tâm hồn chúng ta tê liệt đến nỗi không còn đủ sức cất cánh lên cao, để khao khát, tìm kiếm những gì chân thật, vĩnh cửu là những cái tạo nên thực chất và ý nghĩa cuối cùng của cuộc đời con người.

Hãy biết ngẩng đầu lên để nhìn thấy trời cao, thấy những vì sao sáng trên bầu trời bát ngát bao la. Trái đất nhỏ bé lắm chúng con. Hãy ngẩng đầu lên chúng ta mới được cuộc sống này thật đẹp và thấy được những việc lạ lùng Chúa làm cho chúng ta.

Ðây là câu chuyện của Jimmy Durante, một diễn viên hài được mời tham gia một buổi trình diễn để phục vụ những cựu chiến binh trong thế chiến thứ hai. Ông báo với ban tổ chức rằng lịch diễn của ông rất khít nên chỉ có thể tham gia diễn trong vài phút. Nhưng nếu họ cho phép, ông sẽ độc diễn một đoạn rồi đi ngay. Dĩ nhiên là ban tổ chức đồng ý.

Nhưng khi Jimmy lên sân khấu, điều thú vị đã xảy ra. Ðộc diễn xong ông vẫn đứng lại,.Tiếng hoan hô càng lúc càng lớn hơn và ông cứ đứng đấy trên sân khấu. 15, 20 phút rồi đến cả nửa tiếng. Cuối cùng ông mới cúi đầu chào lần cuối và rời sân khấu.

Tại hậu trường, có một người hỏi ông:

– Tôi ngỡ là ông sẽ đi sau vài phút chứ. Có chuyện gì xảy ra vậy?

Jimmy trả lời :

– Ðúng là tôi phải đi nhưng tôi sẽ chỉ cho anh thấy tại sao tôi lại ở lại. Anh hãy nhìn xuống hàng ghế trước xem. Anh có thấy 2 người đàn ông mỗi người đều bị cụt mất một cánh tay không. Một người mất cánh tay mặt. Người còn lại mất cánh tay trái. Vậy mà họ có thể vỗ tay được? Bạn hãy nhìn xem. Họ đang cùng nhau dùng bàn tay còn lại của mình để vỗ tay đấy. Họ làm điều đó một cách hết sức nhiệt tình.

Đẹp quá phải không!

Hãy ngẩng đầu lên để nhìn thấy những việc lạ lúng Chúa làm mà những người chỉ biết nhìn xuống không thể thấy nổi.

Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã yêu trái đất này,
và đã sống trọn phận người ở đó.
Chúa đã nếm biết
nỗi khổ đau và hạnh phúc,
sự bi đát và cao cả của phận người.

 Xin dạy chúng con biết đường lên trời,
nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.

 Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu,
chúng con thấy mình được thêm sức mạnh
để xây dựng trái đất này,
và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.

 Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa,
xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời
không làm chúng con quên trời cao ;
và những vẻ đẹp của trần gian
không ngăn bước chân con tiến về bên Chúa.

 Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con,
mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện. Amen.