16/08 – Thứ năm tuần 19 thường niên.
“Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy”.

Lời Chúa: Mt 18,21 – 19,1

Khi ấy, Phêrô đến thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần? Có phải đến bảy lần không?” Chúa Giêsu đáp: “Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy.

“Về vấn đề này, thì Nước Trời cũng giống như ông vua kia muốn tính sổ với các đầy tớ. Trước hết người ta dẫn đến vua một người mắc nợ mười ngàn nén bạc. Người này không có gì trả, nên chủ ra lệnh bán y, vợ con và tất cả tài sản của y để trả hết nợ. Người đầy tớ liền sấp mình dưới chân chủ và van lơn rằng: “Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, và tôi sẽ trả lại cho ngài tất cả”. Người chủ động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho y.

“Khi ra về, tên đầy tớ gặp một người bạn mắc nợ y một trăm bạc: Y tóm lấy, bóp cổ mà nói rằng: “Hãy trả nợ cho ta”. Bấy giờ người bạn sấp mình dưới chân và van lơn rằng: “Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, tôi sẽ trả hết nợ cho anh”. Y không nghe, bắt người bạn tống giam vào ngục, cho đến khi trả nợ xong. Các bạn y chứng kiến cảnh tượng đó, rất khổ tâm, họ liền đi thuật với chủ tất cả câu truyện. Bấy giờ chủ đòi y đến và bảo rằng: “Tên đầy tớ ác độc kia, ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta; còn ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn ngươi như ta đã thương ngươi?” Chủ nổi giận, trao y cho lý hình hành hạ, cho đến khi trả hết nợ. “Vậy, Cha Thầy trên trời cũng xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình”.

Khi Chúa Giêsu nói những lời đó xong, thì Người bỏ xứ Galilêa mà đến Giuđêa, bên kia sông Giođan.

  • SUY NIỆM: Tha Thứ

Một đôi vợ chồng nọ đưa nhau ra tòa xin ly dị. Vị luật sư biện hộ cho quan tòa biết: đôi vợ chồng này sống hoàn toàn yên lặng với nhau trong suốt 12 năm liên tiếp. Họ cũng không muốn gặp nhau nữa, nếu cần cho nhau biết điều gì, thì họ chỉ cần viết vào một mảnh giấy để sẵn trên bàn cho người kia đọc. Ðôi vợ chồng này trước đây đã sống hạnh phúc với nhau trong vòng 18 năm, đã nuôi nấng con cái khôn lớn, nhưng rồi không rõ vì lý do gì, hai người đã không thèm nói chuyện với nhau, và giờ đây họ không nhớ đã giận nhau vì lý do gì.

Những hờn giận, phiền muộn xẩy ra trong sinh hoạt hằng ngày, nếu không được nghiêm chỉnh giải quyết, vượt qua, thì sẽ dễ dàng chồng chất làm thành những bức tường ngăn cách giữa cha mẹ với nhau, hay giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em trong gia đình, hoặc giữa bạn bè thân thích. Những tâm tình phiền muộn tiêu cực mỗi ngày một ít cũng đủ ảnh hưởng đến cả cuộc sống, làm chúng ta không còn vui sống và bình an nữa.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta phải tha thứ và tha thứ luôn luôn. Nhưng tại sao phải tha thứ? Vì tha thứ là một điều cần thiết trong đời sống xã hội, trong gia đình, trong các đoàn thể; vì tha thứ là đặc điểm của tình yêu: trong tình yêu Chúa, chúng ta tha thứ cho nhau như Ngài đã tha thứ cho chúng ta. Tha thứ như thế không phải là yếu nhược, mà là sức mạnh của tình yêu, là khí cụ của hòa bình. Cuộc đời là một cuộc hành trình, nếu chúng ta cứ để mình mang nặng gánh ưu tư, phiền muộn thì làm sao có đủ sức để đạt tới đích được. Do đó chúng ta hãy luôn sống tha thứ để tâm hồn chúng ta được nhẹ nhàng thanh thoát trên đường đời với niềm hy vọng và an vui.

Một nhà tâm lý người Mỹ đã đưa ra nhận định như sau: Trên bình diện nhân bản, nếu suy nghĩ cho cùng, thì tha thứ là giải pháp tốt nhất cho người tha thứ và kẻ được tha thứ: sự tha thứ khai mở năng lực tinh thần con người và có tác dụng làm cho con người sống lành mạnh vui tươi hơn. Trên bình diện thiêng liêng, sự tha thứ có giá trị tích cực, chứng tỏ tình thương làm phát sinh nguồn an ủi trong tâm hồn; nếu chúng ta không thật lòng tha thứ cho nhau, thì Cha trên trời cũng không tha thứ cho chúng ta.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết tha thứ cho những ai xúc phạm đến chúng ta, và như vậy chúng ta trở thành khí cụ đem niềm vui đến cho mọi người.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

  • CẦU NGUYỆN:

Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận, xin dạy con biết phục vụ âm thầm. Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt, xin dạy con biết yêu thương tự hiến. Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ, xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm. Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị, xin dạy con biết coi mọi người như anh em.

Lạy Chúa Ba Ngôi, Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng, xin cho các Kitô hữu chúng con trở thành tình yêu cho trái tim khô cằn của thế giới. Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài, biết sống nhờ và sống cho tha nhân, biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh.

Lạy Ba Ngôi chí thánh, xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa ở sâu thẳm lòng chúng con, và trong lòng từng con người bé nhỏ.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Nguồn: http://gplongxuyen.org/NewsDetail.aspx?ID=20180815110000

Tương truyền, Đức Mẹ hiện ra tại La Vang năm 1798. Vào thời gian đó, vua Cảnh Thịnh (Tây Sơn – con thứ Vua Nguyễn Huệ – Quang Trung) ra chiếu chỉ cấm đạo ngày 17 tháng 8 năm 1798, một số các tín hữu ở gần đồi Dinh Cát (nay là thị xã Quảng Trị) phải tìm nơi trốn ẩn tại núi rừng La Vang, và thường tụ tập nhau dưới gốc cây đa cổ thụ, cùng nhau cầu nguyện, an ủi và giúp đỡ nhau.
1. NHÀ THỜ NGÓI CỔ LA VANG (1901 – 1923)
Tương truyền, Đức Mẹ hiện ra tại La Vang năm 1798. Vào thời gian đó, vua Cảnh Thịnh (Tây Sơn – con thứ Vua Nguyễn Huệ – Quang Trung) ra chiếu chỉ cấm đạo ngày 17 tháng 8 năm 1798, một số các tín hữu ở gần đồi Dinh Cát (nay là thị xã Quảng Trị) phải tìm nơi trốn ẩn tại núi rừng La Vang, và thường tụ tập nhau dưới gốc cây đa cổ thụ, cùng nhau cầu nguyện, an ủi và giúp đỡ nhau.
Một hôm đang khi cùng nhau lần hạt kính Đức Mẹ, bỗng họ nhìn thấy một người phụ nữ xinh đẹp, mặc áo choàng rộng, tay bồng Chúa Hài Đồng Giêsu, có hai thiên thần cầm đèn chầu hai bên. Mẹ bày tỏ lòng nhân từ, âu yếm, và an ủi giáo dân. Mẹ dạy hái một loại lá cây có sẵn chung quanh đó, đem nấu nước uống sẽ lành các chứng bệnh. Mẹ lại ban lời hứa: “Mẹ đã nhận lời các con kêu xin. Từ nay về sau, hễ ai chạy đến cầu khẩn Mẹ tại chốn này, Mẹ sẽ nhận lời ban ơn theo ý nguyện”.
Sự kiện xảy ra trên thảm cỏ gần gốc cây đa cổ thụ nơi giáo dân đang cầu nguyện. Sau đó, Mẹ còn hiện ra nhiều lần như vậy để nâng đỡ và an ủi con cái Mẹ trong cơn hoạn nạn.

Từ chân tượng Đức Mẹ nhìn về phía Quảng trường, tháp cổ và nhà hành hương. Dưới chân tượng đá có hình 2 em bé được bố mẹ chúng dán lên trên bệ đá. Rất nhiều lời cầu nguyện của con cái Mẹ khắp nơi đã được thực hiện tại đây!
Từ đó đến nay sự kiện Đức Mẹ hiện ra tại núi rừng La Vang, qua các thế hệ được loan truyền khắp nơi, và nhiều người chân thành tin tưởng, đến cầu khấn Đức Mẹ. Đức Mẹ La Vang thường được biểu tượng bằng một phụ nữ mặc áo dài Việt Nam bế con cũng mặc trang phục truyền thống Việt Nam.
***
Lịch sử nhà thờ La Vang vốn được xây trên nền của một miếu thờ Bà (có thể là Phật Bà Quan Âm hoặc bà chúa Liễu Hạnh) cho người đi rừng, nguyên là một mái nhà tranh dưới gốc cây đa và rào sơ bốn mặt, sau biến cố Mẹ Maria hiện ra năm 1789 được nhường cho giáo dân để xây một nơi tôn kính Mẹ Maria.
Những nhà thờ trước năm 1900 đều chưa tìm được hình ảnh. Khoảng từ năm 1886, Đức Cha Marie Antoine Caspar (Lộc) cho xây lại một ngôi nhà thờ bằng ngói và cho mãi đến năm 1901 nhân dịp đại hội La Vang đầu tiên được tổ chức vào ngày 08 tháng 08 thì mới có Lễ mừng khánh thành nhà thờ.
Ngôi nhà thờ này tồn tại từ năm 1901-1923, Ngôi đền thánh bên trong theo kiểu cách Annam có cột kèo xuyên trên có sức chứa khoảng 400 người. Mặt tiền có hơi theo kiểu Tây với hai tháp vuông. Thiết kế này giống với một số nhà thờ hiện tại ở Miền Bắc (Bùi Chu, Bắc Ninh…) là nhìn mặt tiền thì nhà thờ khá rộng (nhờ có thêm 2 tháp vuông) nhưng trong lòng nhà thờ thì hẹp hơn nhiều. Bên trong, trên bàn thờ có tượng ảnh Đức Chúa Bà mua bên Tây, một bên có Đức Chúa Giêsu đứng là Notre Dame des Victoires. Dưới bàn thờ có tượng ảnh Đức Bà Môi Khôi, có ông thánh Đôminicô và bà thánh Catarinà chầu.

Trong ảnh, Ngôi nhà thờ đã xuống cấp nhiều, tháp bên phía trái đã có dấu hiệu bị nứt và nghiêng lún và sau đó tự động đổ xuống vào tháng 5.1925 nhưng không làm ai bị thương. Hình ảnh của ngôi nhà thờ này hiện đang được lưu trữ tại Hội Thừa Sai Paris.
2. LINH ĐÀI ĐỨC MẸ 1
Linh đài theo kiểu Việt Nam được xây vào khoảng năm 1950 và nằm trước linh đài hiện nay khoảng 15 thước. Linh đài này tồn tại trong khoảng từ năm 1950 – 1960. Có thể thấy bức tượng Đức Mẹ La Vang bên trong linh đài.

3. TƯỢNG ĐỨC MẸ LA VANG 1
Trong dịp Đại Hội La Vang lần đầu tiên – khánh thành nhà thờ ngói vào ngày 08.08.1900, Đức cha Caspar Lộc đã cung thỉnh bức thánh tượng Đức Mẹ La Vang theo mẫu tượng Đức Bà Chiến Thắng đặt trong ngôi nhà thờ ngói.
“Đức Mẹ mặc áo choàng màu thiên thanh, phủ trên áo trắng ngà, đầu đội triều thiên vàng, chân đứng trên đám mây. Đức Mẹ nhìn đàn con, nét mặt dịu hiền, dáng điện uy nghi. Hai tay Mẹ nâng đỡ Chúa Hài Đồng đứng bên tay mặt như muốn đưa ra giới thiệu cùng chúng ta, trao ban cho chúng ta. Chúa Giêsu Hài Đồng thật duyên dáng trong bộ áo màu hồng, đầu đội triền thiên, chân đứng trên quả địa cầu lấp lánh mấy vì sao. Chúa Hài Đồng một tay níu áo Mẹ, nương tựa vào Mẹ như để làm gương cho ta, một tay giơ ra như để mời gọi ta chay đến cùng Mẹ để tỏ lòng hiếu thảo mến yêu và lãnh nhận muôn ơn lành nhờ lời Mẹ chuyền cầu.

Bức thánh tượng quý giá này đã bị hủy hoại trong cuộc chiến Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, nay không còn nữa.

Bức tượng Đức Mẹ La Vang (phục hồi) lại được để trên bệ thờ bên hông tháp cổ. Bức tượng Mẹ theo hình dáng này hiện cũng được khá nhiều người đặt trên bàn thờ tại nhà hoặc các Tượng đài Mẹ La Vang ở các nhà thờ, nhà nguyện….
4. NHÀ THỜ LA VANG GIAI ĐOẠN 1923 – 1961
Trong dịp Đại Hội La Vang 8 (1923), Đức cha Allys Lý nhận thấy số giáo dân hành hương ngày một đông, ngôi nhà thờ ngói thì quá chật hẹp, lại đã xuống cấp, có thể sụp đổ bất cứ lúc nào nên đã quyết định xây dựng ngôi đền thánh rộng lớn tại La Vang.
Ngày lễ Đức Mẹ Lộ Đức 11.02.1924, cha sở Cổ Vưu Morineau Trung phát hiệu lệnh khởi công xây dựng đền thánh La Vang theo đồ án của kiến trúc sư Carpentier, với mức kinh phí dự trù tối thiểu phải hai mươi ngàn đồng bạc.

Ròng rã bốn năm trời với biết bao công sức tiền của đổ ra, công trình Đền Thánh La Vang vĩ đại đã hoàn thành, một Ngôi thánh đường với hai tầng mái và hai cánh thánh giá cổ điển, cùng với cây tháp vuông hai tầng cao ngất nổi bật lên giữa cảnh đồi cát chung quanh và núi rừng xa xa.
Vào lúc 08 giờ sáng ngày 20.08.1928, nhân dịp Đại Hội La Vang 9, Đức cha Allys Lý đã long trọng cử hành nghi thức làm phép nhà thờ mới.
Nhà thờ La Vang vào thời kỳ mới được xây dựng xong:

Hình ảnh Vương cung thánh đường La Vang chụp năm 1931, giáo dân với trang phục đặc trưng và nón lá. Các công trình kiên cố khác xung quanh Thánh đường vẫn chưa có nhiều. Trong hình, Nhà thờ cũng đã có dấu hiệu xuống cấp do thời tiết khắc nghiệt của miền trung. Gần khu vực Linh đài hiện tại vẫn là ngôi nhà tranh.
5. GIAI ĐOẠN KIẾN THIẾT TRUNG TÂM THÁNH MẪU TOÀN QUỐC LA VANG (1961 – 1963)
Ngày 13.04.1961, Hội Đồng Giám Mục Miền Nam Việt Nam đã quyết định La Vang là Trung Tâm Thánh Mẫu Toàn Quốc và chọn đền thánh La Vang làm đền thờ dâng trái tim vẹn sạch Đức Mẹ. Đồng thời chấp thuận một chương trình kiến thiết Trung Tâm Thánh Mẫu La Vang.

Sáng 22.08.1961, ngày xức dầu đền thánh, cũng là ngày cuối cùng trong 6 ngày Đại Hội La Vang 15, trước hàng giáo sĩ và 300.000 giáo dân, Đức ông De Nitris, thư ký Tòa Khâm Mạng, đại diện Tòa thánh tuyên đọc nguyên văn bằng La ngữ sắc chỉ MAGNO NOS SOLATIO của Đức Thánh cha Gioan XXIII nâng Đền Thờ La Vang lên bậc VƯƠNG CUNG THÁNH ĐƯỜNG.

Những hình ảnh ngày đại lễ Đại Hội La Vang lần 15 ngày 22.08.1961:





Sáng 22.08.1961, ngày xức dầu đền thánh, cũng là ngày cuối cùng trong 6 ngày Đại Hội La Vang 15, trước hàng giáo sĩ và 300.000 giáo dân, Đức ông De Nitris, thư ký Tòa Khâm Mạng, đại diện Tòa thánh tuyên đọc nguyên văn bằng La ngữ sắc chỉ MAGNO NOS SOLATIO của Đức Thánh cha Gioan XXIII nâng Đền Thờ La Vang lên bậc VƯƠNG CUNG THÁNH ĐƯỜNG.
Những hình ảnh ngày đại lễ Đại Hội La Vang lần 15 ngày 22.08.1961:


Đây là bức thánh tượng thứ ba được tôn kính tại La Vang, mẫu tượng mới với chủ đề hoàn toàn khác với hai mẫu tượng cũ Đức Bà Chiến Thắng. Linh đài ba cây đa nhân tạo được khởi công ngày 20.06.1963, vừa xong phần bê tông cốt thép, chưa có phần trang trí mỹ thuật bên ngoài thì bị đình đốn do biến cố ngày 01.11.1963 xảy ra. Hơn 40 năm qua, linh đài vẫn tồn tại nguyên trạng ban đầu.
7. NHỮNG CÔNG TRÌNH CỦA TRUNG TÂM LA VANG TRƯỚC NĂM 1972
Công trường Mân côi Là khuôn viên trước đền thờ, đã hoàn thành với diện tích 30 x 480 mét, rải đá, tráng nhựa. Hai bên là 15 pho tượng bằng đá cẩm thạch được chạm khắc công phu theo nghệ thuật hiện thực – loại hình nghệ thuật tượng thánh thường thấy – diễn tả Mười Lăm Mầu Nhiệm Mân Côi.


Trong hình trên, Hồ Tịnh Tâm dự tính nằm ở hai bên hình, là khoảng ruộng trước đền thờ rộng 6 ha, đã đào xong với 30.000 ngày công do giáo dân Huế tự nguyện. Theo thiết kế, hồ được tạo hình theo kiểu hồ Tịnh Tâm thành nội Huế, giữa mỗi hồ có một cù lao nhỏ, bên hồ này xây đài kỷ niệm các đấng Chân Phước tử đạo Việt Nam, bên hồ kia xây đài kỷ niệm các đấng bổn mạng xứ truyền giáo. Nội dung phần này chưa thực hiện.
Phía sau Thánh đường có những công trình như Nhà Tĩnh Tâm, khởi Công ngày 24.04.1962. Hoàn thành và đưa vào sử dụng tháng 10.1963. Đó là ngôi nhà lầu bê tông tường gạch một tầng, hình chữ U, ngang 10 mét, rộng 36 mét, cộng với hai cánh, mỗi cánh 12 mét. Được thiết kế gồm nhiều phòng ngủ, hội trường, phòng đọc sách, phòng giải trí, nhà xe, nhà bếp, và nhà ăn 500 khẩu phần một lúc. Chúng ta có thể nhìn thấy công trình này trong hình dưới đây:

Trong hình trên, Ba Vị Giám mục đứng ở đây lúc đó chắc cũng không nghĩ là ngôi Thánh đường trước mặt sẽ bị bom đạn phá tan tành và trong tương lai sẽ có một ngôi thanh đường nguy nga khác được xây nên trên ngay chỗ các Ngài đang đứng. Ngôi nhà hành hương bề thế 2 tầng bên cạnh nhà thờ cũng bị tàn phá không còn dấu tích gì. Ba cây đa và tượng đài Đức mẹ nằm khuất trong lùm cây bên phía phải hình. Các công trình khác như Nhà Hành Hương, Công Trường Thánh Tâm (với tượng đài Kitô Vua đứng trên quả cầu hình bán nguyệt. Một bàn thờ bằng đá cẩm thạch lộ thiên dưới chân tượng. Một hồ nước trong xanh phía trước và một hoa viên tươi tốt bao quanh), Hồ GIÊNÊZARÉT (với hai cầu vồng bắc qua hồ, mỗi cầu rộng 6 mét dài 30 mét, nối liền lộ trình Đền Thánh – Đồi Calvariô – Đền Thánh. Đây là lộ trình chính dành cho các cuộc kiệu lớn) và hệ thống đường sá, điện nước, mương cống, nhà vệ sinh…. Riêng chỉ với những công trình kiến thiết trên đây thôi cũng đã khiến La Vang “phảng phất như một lâu đài thiên quốc…, một kinh thành ánh sáng…, một mảnh thiên đàng rớt xuống miền rừng núi hoang vu.

Hình ảnh các đoàn lễ sinh và giáo dân hướng về phía lễ đài. 40 năm sau, sau nhiều thăng trầm, cũng tại chính vị trí này đã diễn ra nhiều buổi Lễ trọng đại của Giáo hội Việt Nam trong đó có buổi lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng một Vương cung thánh đường mới. Ngôi thánh đường trong hình giờ chỉ còn di tích tháp chuông.
8. LA VANG – NHỮNG NĂM THÁNG YÊN BÌNH (~1970)
Mặc dù chiến tranh đã lan rộng ra toàn miền trung từ những năm 1967 nhưng miền La Vang vẫn tương đối yên bình và hầu như chưa bị ảnh hưởng gì!

Đường vào La Vang 1967
Những hình ảnh Trung tâm La Vang chụp vào thập niên 60 khi chiến tranh chưa lan tới, một khung cảnh yên bình và thanh thản:



9. CHIẾN SỰ LAN TỚI LA VANG
Sự hiện diện của xe quân sự và binh lính báo hiệu chiến sự đã lan tới La Vang (1970)

Đỉnh điểm của cuộc chiến là vào ngày giữa năm 1972, chiến sự ác liệc giữa Cộng quân và Quân đội VNCH đã tàn phá thành bình địa toàn bộ Thánh địa La Vang. Ngày 7/7/1972, mặc dù tái chiếm lại được Thành Quảng Trị và La Vang, nhưng tất cả chỉ còn là đống đổ nát. Ngôi thánh đường xinh đẹp trước đây đã bị tàn phá nặng nề.

Vị Tổng thống VNCH lúc đó là Ông Nguyễn Văn Thiệu đã đến quỳ gối cầu nguyện trước tại gian cung thánh lộng lẫy một thời của Thánh đường với bàn thờ cẩm thạch xinh đẹp thủa nào, giờ chỉ còn là đống đổ nát.

Mặc dù đã Quảng Trị đã được tái chiếm cuối tháng 12 năm 1972, những người lính VNCH hiện diện tại La Vang, linh đài vẫn còn nhưng tượng Đức Mẹ đã bị hư hại với phần đầu tượng đã bị bể.
10. LA VANG – NHỮNG NĂM THÁNG TRẦM LẶNG VÀ HỒI SINH 1975 – 2010
La Vang sau những năm 1972, chiến sự tiếp tục lan rộng cộng với khung cảnh đổ nát khiến khu vực linh địa trở nên trống vắng và hoan tàn. Đặc biệt, sau năm 1975 thì các buổi lễ cũng không được phép tổ chức hoặc gặp rất nhiều khó khăn. Những người muốn đến bên Mẹ La Vang bị xét hỏi, đuổi về nhà, đất đai Linh địa bị thu hẹp nhiều… Giáo hội chỉ còn giữ được Linh đài, Di tích Thánh Đường và phần phụ cận nhỏ xung quanh.
Tại Linh địa cũng không còn Linh mục phụ trách, Linh Mục giáo xứ Diên Sanh gần đó là người duy nhất quản nhiệm La Vang nhưng cũng gặp nhiều khó khăn.
10.1 DI TÍCH VƯƠNG CUNG THÁNH ĐƯỜNG
Thực ra, sau năm 1975, ngôi Thánh đường La Vang chưa bị sập hẳn hoàn toàn, phần thiệt hại nặng nề nhất là khu vực giữa nhà thờ và làm kết cấu nhà thờ yếu đi rất nhiều. Năm 1985, cơn siêu bão đổ bộ vào miền Trung đã “giúp” di tích thiệt hại thêm. Tuy vậy, cho tới năm 1997, phần gian cung thánh và phần phía sau (Tháp chuông) vẫn còn tồn tại:


Toàn cảnh ngôi Thánh Đường sau năm 1975. Ngôi tháp cổ có hình dạnh như thế này cho đến năm 2000 mới mới được “phục chế lại” cho vuông vức hơn. Phía lòng nhà thờ giờ thành nhà nguyện “tiền chế”. Những phần tường đổ nát còn lại đã bị dỡ bỏ đi vì rất khó phục hồi nguyên trạng.
10.2 DI TÍCH THÁP CỔ
Những hình ảnh cận cảnh ngôi tháp cổ sau khi được trùng tu và vá lại các phần bị trúng đạn pháo:









10.3 GIẾNG NƯỚC ĐỨC MẸ:

Năm 1903, khi lên chăm sóc vườn Mẹ, cha phó Cổ Vưu Giuse Nguyễn Xuân Cảnh đã cho đào một giếng đất ngay trước nhà thờ ngói. Giáo dân quen gọi là GIẾNG ĐỨC MẸ.

Nước giếng Đức Mẹ không trong lắm nhưng có vị ngọt và mát, không bị ô nhiễm bởi môi trường bên ngoài nên có thể uống ngay, không cần nấu chín.
Vẫn biết nước giếng Đức Mẹ là nước uống bình thường không mang dược tính gì cả, nhưng từ truyền khẩu ngày xưa đến thực tế ngày nay nhiều bệnh nhân uống nước giếng Đức Mẹ mà được lành các bệnh tật là do bởi lòng thành kính cậy tin quyền phép Đức Mẹ được Mẹ ban ơn lành theo ý nguyện mà thôi.

Ngày nay, hơn một thế kỷ trôi qua, giếng Đức Mẹ vẫn được bảo quản sạch đẹp, vệ sinh làm tăng vẻ mỹ quan vườn Mẹ, nhưng trên hết giếng Mẹ là một bảo chứng tình yêu tuyệt vời đối với con cái Mẹ. Từ mạch tự nhiên này, biết bao ơn lành hồn xác Đức Mẹ đã đổ xuống cho con cái Người.
Hiện nay, nước giếng được bơm trực tiếp lên bồn và mọi người lấy nước qua hệ thống vòi phía sau Linh Đài (theo hướng mũi tên chỉ trên miệng giếng như trong hình):

10.4 LINH ĐÀI ĐỨC MẸ
Như đã nói trên, kể từ sau năm 1963 đến tận năm 2010 thì Linh đài Đức Mẹ (Cây đa bê tông) vẫn để nguyên phần thô rêu phong cùng đạn pháo và nắng mưa. Trận chiến năm 1971 tuy phá hủy hầu hết các công trình trong khu La Vang bao gồm cả tượng Đức Mẹ Xuống Ơn trong Linh Đài nhưng ba cây đa vẫn còn hầu như nguyên vẹn.

Linh đài Đức Mẹ vẫn giữ nguyên hình hài cũ cho đến tận năm 2010
Sau đó, năm 1980, HĐGM Việt Nam mới quyết định Tượng Đức Mẹ mang hình dáng người phụ nữ Việt Nam và Bức Tượng này được đặt lại vị trí cũ cùng năm đó:

10.5 TRÙNG TU LINH ĐÀI ĐỨC MẸ – BA CÂY ĐA
Như đã nói trên, Linh đài Đức Mẹ với hình dáng cách điệu ba cây đa bê tông do Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ thiết kế và xây dựng từ những năm 1960 nhưng chưa bao giờ được hoàn thành và khối bê tông thô vẫn để như vậy cho đến hơn 40 năm sau thì mới được tô vẽ cho đúng vẻ kiến trúc của nó. Quá trình này được bắt đầu làm lại trong năm 2010 thì hoàn thành. Tuy nhiên, khung cảnh hoang sơ của Linh đài mẹ đã không còn nữa. Thay vào đó là khung cảnh lộng lẫy hơn.



Linh đài Đức Mẹ La Vang hiện nay với Bức Tượng Mẹ mặc áo dài khăn đống theo truyền thống phụ nữ Việt Nam tạc trên đá quý từ năm 2011
11. LA VANG NGÀY NAY
Thật ra, từ lúc nhà nước “mở cửa”, các công trình tại La Vang cũng đã được xây thêm, trùng tu tôn tạo nhưng hầu như là mang tính tự phát và chưa gắn kết được với nhau thành một khối tổng thể.
Nhà hành hương đối diện với Linh đài được xây dựng bề thế phục vụ chỗ ở cho khoảng 300 khách hành hương một lúc. Theo các thiết kế mới thì nhà hành hương này cũng sẽ bị đập bỏ để phù hợp với quy hoạch chung.

Lễ đài nhìn từ phía tháp cổ dịp đại lễ 1999

Toàn cảnh công trường mân côi. Theo thiết kế mới, Công trường mân côi sẽ giữ nguyên và hầu như không thay đổi gì.
12. THIẾT KẾ LA VANG

Hình chụp Linh đài năm 1999 cho thấy lúc đó La vang vẫn còn hoang sơ và hoang tàn lắm!

Linh đài lúc chưa trùng tu!
Năm 2010, HĐGM Việt Nam ủy quyền cho Tòa Tổng Giám Mục Huế tổ chức cuộc thi Thiết kế lại toàn bộ Linh địa La Vang với tiêu chí về kiến trúc như sau:
– Giữ gìn và Bảo tồng phần Tháp cổ, Giếng nước, Quảng trường Mân côi và Linh đài.
– Mang bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam và phù hợp với kiến trúc tôn giáo.
– Phân khu chức năng, không gian kiến trúc và quy hoạch, sử dụng đất và hạ tầng kỹ thuật. Thể hiện hài hòa giữa Trung tâm hành hương và các vùng lân cận.
– Kiến trúc quy hoạch quan tâm đến môi trường, khí hậu nhiệt đới gió mùa. Định hướng phát triển không gian mở rộng Trung tâm Hành hương về phía Đông Tây.
– Tính khả thi, kỹ thuật của đồ án: Giải pháp kỹ thuật – Phân kỳ thực hiện – Đề xuất xây dựng công trình – Định hướng nguồn năng lượng thay thế …
Và quan trọng hơn, đồ án phải “thổi được hồn Đạo và hồn Việt vào các công trình kiến trúc của Trung Tâm này”.
Có nhiều Công ty tham gia thiết kế, rất nhiều ý tưởng thiết kế được đưa ra, để chọn được một thiết kế để xây dựng không phải là một điều dễ dàng. Nhưng cũng phải hết sức trân trọng các ý tưởng thiết kế của các người tham gia vì họ cũng đã bỏ công bỏ sức tâm huyết vào thiết kế của mình.
Ngày 21/8/2010, tại Trung tâm Mục Vụ Huế đã diễn ra Lễ Công bố & Phát thưởng giải cuộc Thi Thiết kế quy hoạch Dự Án Trung Tâm Hành Hương Đức Mẹ La Vang. Tuy nhiên, cuộc thi đã không tìm ra được thiết kế để xây dựng (không có giải nhất). Chúng ta hãy cùng xem lại các phương án thiết kế này.








7. THAY LỜI KẾT – THIẾT KẾ LA VANG THEO PHONG CÁCH LA VANG
Vì La Vang nằm ở Miền Trung (Huế) và nếu đọc, hiểu, cảm nhận được hết lịch sử, con người, văn hóa… của La Vang thì mới thiết kế được La Vang. Nhưng thiết kế phải là như thế nào? Không thể giống với Phát diệm, không thể giống với phương Tây…La Vang nên phải là La Vang.

Lễ khởi công xây dựng Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ La Vang
Tuy nhiên, có rất nhiều phương án thiết kế và điều quan trọng là phải chọn ra được phương án thiết kế phù hợp dự án cho tương lai. Nếu phân vân, chờ đợi, lựa chọn, thiết kế, và không dám quyết định… thì e rằng sẽ khó có thể có một La Vang cho tương lai vì chín người mười ý đó là chưa kể phải tốn thêm nhiều nguồn tài chính nữa… Câu trả lời dành cho những người có thẩm quyền trong giáo hội, giáo quyền và … giáo dân.

Thánh lễ khởi công trên nền đất mà khu vực năm xưa các Đức Cha tiền nhiệm đã từng có những buổi đại lễ (Xem hình trắng đen ở phần đầu)
Xin kết thúc phóng sự Lịch sử La Vang bằng hình trên với mô hình thiết kế mới nhất được lựa chọn. Tuy có nhiều ý kiến khen chê nhưng nếu mọi người cùng góp ý theo hướng tích cực thì hy vọng sẽ có một La Vang được nhiều người đồng tình nhất. Như theo lời Đức Cha phụ trách nghệ thuật thánh thì: “… là công trình đòi hỏi một sự hiểu biết khá sâu rộng về văn hóa Việt Nam với một thế giới biểu tượng vô cùng sâu sắc về ý nghĩa và phong phú, đa dạng, về hình ảnh và màu sắc. Hơn nữa, điều khó khăn hơn là làm thế nào sử dụng các biểu tượng văn hóa Việt Nam để diễn tả các mầu nhiệm đức tin. Đó là vấn đề hội nhập văn hóa. Trong tiến trình xây dựng vẫn có thể chỉnh sửa những chi tiết trong đồ án nếu cần. Rất mong quí vị cao minh, thông thạo văn hóa, rộng tình chỉ bảo, để công trình kiến trúc được hoàn hảo.
Ngoài ra, bất cứ sự lựa chọn nào cũng bao hàm một định hướng, một giới hạn, không thể đáp ứng hết mọi đòi hỏi hay mọi quan điểm, nhất là trong lãnh vực nghệ thuật. Rất mong sự thông cảm của tất cả mọi người.”

Buổi đọc Kinh Truyền tin trưa Chúa nhật 12 tháng 8 diễn ra trong bầu khí đặc biệt, với gần 100 ngàn bạn trẻ Italia vừa kết thúc cuộc hành hương “Qua vạn nẻo đường”, và các tín hữu hành hương. Dựa trên lời kêu gọi của thánh Phaolô: ”Anh chị em đừng làm phiền Thánh Linh của Thiên Chúa, vì chính Ngài là dấu ấn ghi trên Anh chị em, để chờ ngày cứu chuộc” (Ep 4,30), ĐTC Phanxicô giải thích thế nào là làm phiền lòng Thánh Linh của Thiên Chúa và ngài mời gọi các tín hữu không chỉ không làm điều xấu nhưng còn phải làm điều tốt.

Không làm phiền Thánh Linh: sống lời hứa của bí tích rửa tội chứ không sống giả hình

ĐTC đặt câu hỏi: Nhưng làm phiền Thánh Linh thế nào? Và Ngài giải thích: Tất cả chúng ta đã nhận lãnh Thánh Linh trong bí tích Rửa tội và Thêm sức, vì thế, để không làm phiền Thánh Linh, ta cần sống phù hợp với những lời đã hứa khi chịu phép rửa tội, và khi được canh tân trong bí tích Thêm Sức. Do đó, để không làm phiền Thánh Linh, cần sống phù hợp với các lời hứa của bí tích rửa tội, chứ không sống giả hình. Kitô hữu không thể sống giả hình: phải sống cách phù hợp. Những lời hứa của bí tích rửa tội có hai khía cạnh: từ bỏ sự ác và gắn bó với điều thiện.

Từ bỏ sự ác và gắn bó với điều thiện

Từ bỏ sự ác có nghĩa là không chiều theo những cám dỗ, tội lỗi, ma quỷ. Cụ thể hơn, nó có nghĩa là từ bỏ nền văn hóa chết chóc, được diễn tả qua sự trốn chạy thực tại tìm đến hạnh phúc giả dối được biểu lộ trong sự dối trá, lừa đảo, bất công, khinh rẻ người khác. Sự sống mới được ban cho chúng ta trong Bí tích rửa tội, và có Chúa Thánh Linh là nguồn mạch, loại bỏ lối sống theo những tâm tình chia rẽ và bất thuận. Vì thế, Thánh Phaolo Tông Đồ khuyên nên xua đuổi khỏi tâm hồn mình ”mọi cứng cỏi, phẫn nộ, giận dữ, la ó, và nói xấu cùng với mọi thứ gian ác” (v.31). 6 yếu tố hoặc tật xấu này làm xáo trộn niềm vui của Thánh Linh làm ô nhiễm tâm hồn và dẫn đưa tới lăng mạ chống Thiên Chúa và tha nhân.

“Không làm điều xấu thì tốt, nhưng không làm điều tốt thì xấu”

Và ĐTC nói thêm: Không làm sự ác mà thôi thì chưa đủ để trở thành một Kitô hữu tốt; cần gắn bó với sự thiện và làm sự thiện. Và Thánh Phaolô tiếp tục: ”Trái lại anh chị em hãy tử tế với nhau, có lòng thương xót, tha thứ cho nhau như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh chị em trong Chúa Kitô” (v.32). Bao nhiêu lần chúng ta nghe một số người nói: ”Tôi không làm hại một ai”. Đồng ý, nhưng bạn có làm điều thiện không? Bao nhiêu người không làm điều ác, nhưng họ cũng chẳng làm điều thiện, và đời sống của họ diễn ra trong sự dửng dưng, trong lãnh đạm, nguội lạnh. Thái độ ấy trái ngược với Tin Mừng, và trái ngược cả với đặc tính của người trẻ, tự bản chất các bạn năng động, say mê và can đảm. Thánh Alberto Hurtado nói: “Không làm điều xấu thì tốt, nhưng không làm điều tốt thì xấu.”

Kitô hữu thật: chống lại sự dữ, thực hành điều thiện

ĐTC nhắn nhủ các tín hữu hãy trở thành những người giữ vai chính trong sự thiện! Ngài nói: Đừng cảm thấy mình đúng khi không làm điều làm sự ác; mỗi người có lỗi đối với sự thiện họ có thể làm nhưng đã không làm. Không oán ghét mà thôi, thì không đủ, còn cần tha thứ nữa; không oán hận mà thôi thì vẫn chưa đủ, còn cần cầu nguyện cho kẻ thù nữa; không là nguyên nhân gây chia rẽ mà thôi thì vẫn chưa đủ, còn phải mang hòa bình đến nơi nào không có, không nói xấu người khác mà thôi thì chưa đủ, còn cần chặn lại, khi nghe nói xấu người khác. Nếu chúng ta không chống lại sự ác, có nghĩa là chúng ta mặc nhiên nuôi dưỡng sự ác. Cần can thiệp tại nơi mà sự ác lan tràn; vì sự ác phổ biến tại những nơi nào thiếu các tín hữu Kitô can đảm chống lại sự thiện, và ”bước đi trong bác ái” (Xc 5,2), theo lời cảnh giác của Thánh Phaolô.

Cuối cùng ĐTC khuyến khích các bạn trẻ, những người đã bước đi rất nhiều trong những ngày này: hãy bước đi trong bác ái! ĐTC mời gọi họ cùng nhau tiến về Thượng HĐGM sắp tới tại Roma về đề tài ”Giới trẻ, đức tin và sự phân định ơn gọi”. Ngài cầu xin Đức Trinh Nữ Maria nâng đỡ tất cả bằng lời chuyển cầu từ mẫu của Mẹ, để mỗi người, mỗi ngày, bằng việc làm, có thể khước từ sự ác và chấp nhận sự thiện.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican

15/08 – Thứ tư tuần 19 thường niên – ĐỨC MẸ LÊN TRỜI. Lễ trọng. Lễ HỌ. Cầu cho giáo dân.
“Đấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại: Người nâng cao những người phận nhỏ”.

Lời Chúa: Lc 1, 39-56

Trong những ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Elisabeth, và khi bà Elisabeth nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà, và bà Elisabeth được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng rằng: “Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm? Vì này tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện”.

Và Maria nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi, vì Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ của Chúa. Này từ nay muôn thế hệ sẽ khen tôi có phước, vì Đấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại, và Danh Ngài là thánh. Lòng thương xót Chúa trải qua đời nọ đến đời kia dành cho những người kính sợ Chúa. Chúa đã vung cánh tay ra oai thần lực, dẹp tan những ai thần trí kiêu căng. Chúa lật đổ người quyền thế xuống khỏi ngai vàng và nâng cao những người phận nhỏ. Chúa đã cho người đói khát no đầy ơn phước, và để người giàu có trở về tay không. Chúa săn sóc Israel tôi tớ Chúa, bởi nhớ lại lòng thương xót của Ngài. Như Chúa đã phán cùng các tổ phụ chúng tôi, cho Abraham và dòng dõi người đến muôn đời”.

Maria ở lại với bà Elisabeth độ ba tháng, đoạn Người trở về nhà Mình.

  • SUY NIỆM: Mẹ lên trời

Hôm nay chúng ta mừng kính lễ Mẹ hồn xác về trời. Vậy thì về trời có nghĩa là gì?

Về trời ở đây không phải là chuyện đi lên hay đi xuống trong một khoảng không gian, mà là một tình trạng hoàn toàn được kết hiệp với Thiên Chúa, được đem vào sự thánh thiện và sự sống của chính Thiên Chúa.

Như thế, về trời trước hết phải là con đường của Đức Kitô, đây là lẽ đương nhiên bởi vì Ngài vốn là một vị Thiên Chúa, nay trở về với ngôi vị của mình. Có khác chăng là cùng với Ngài, có cả thân xác vật chất của mình nữa.

Tiếp đến, đó phải là con đường của Mẹ Maria. Đối với Mẹ thì về trời là hiệu quả của ơn Phục sinh nơi Đức Kitô, vì Mẹ cũng là một thụ tạo cần được cứu độ. Mẹ là người đầu tiên được hưởng hiệu quả trọn vẹn của ơn cứu độ, vì cuộc đời và sự cộng tác của Mẹ làm cho Mẹ được trở nên xứng đáng với đặc ân cao cả ấy.

Sau cùng về trời còn phải là con đường, còn phải là mục đích cuối cùng mà chúng ta phải theo đuổi trong cuộc sống này, như lời thánh Augustinô đã nói: Tâm hồn tôi luôn băn khoăn lo lắng cho tới khi nào được nghỉ yên trong bàn tay yêu thương của Thiên Chúa.

Tuy nhiên, để đạt tới mục đích cuối cùng ấy thì chúng ta phải làm gì? Tôi xin thưa là ngay từ bây giờ chúng ta phải sống gắn bó mật thiết với Đức Kitô và cố gắng thực thi những điều Ngài truyền dạy. Phải làm cho Đức Kitô được sinh ra và lớn lên trong tâm hồn chúng ta cũng như trong tâm hồn những người chung quanh.

Con đường ấy chắc chắn sẽ không phải là một con đường rộng rãi thênh thang với những hoa thơm cỏ lạ. Chính Mẹ Maria cũng đã kinh qua một cuộc đời trần gian đầy gian nan và thử thách như lời ông già Simêon đã nói: Một lưỡi gươm sẽ đâm qua lòng bà. Đúng thế, từ lúc xin vâng trong hoạt cảnh truyền tin cho đến khi đứng dưới chân cây thập giá, cuộc đời của Mẹ là một cuộc đời vâng phục đầy khổ đau, đầy cay đắng, thế nhưng chính những khổ đau này đã làm cho Mẹ được trở nên cao trọng trước mặt Thiên Chúa.

Vì thế, chúng ta hãy ngước mắt trông lên Mẹ để thấy được rằng: Đau khổ sẽ làm cho niềm tin thêm tinh ròng, đồng thời không có một con đường nào của niềm tin mà không có những gian nan thử thách của nó.

Tuy nhiên, chúng ta tin chắc chắn rằng Đức Maria là Mẹ chúng ta, Ngài sẽ ra tay nâng đỡ và dìu dắt chúng ta trên con đường lữ hành của niềm tin cho đến lúc chúng ta được yên nghỉ trong tình thương của Chúa.

  • CẦU NGUYỆN:

Lạy Mẹ Maria, khi đọc Phúc Âm, lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường. Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu. Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ. Mẹ tìm con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana. Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng. Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.

Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong, từ con người hay từ Thiên Chúa. Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu trong mọi bước đường của cuộc sống. Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa. Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con đừng sợ lên đường mỗi ngày, đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.

Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Nguồn: http://gplongxuyen.org/NewsDetail.aspx?ID=20180814110000

14/08 – Thứ ba tuần 19 thường niên – Thánh Mácximilianô Maria Kônbê, linh mục, tử đạo. Lễ nhớ.
“Các con hãy coi chừng, đừng khinh rẻ một ai trong những kẻ bé mọn này”.

Lời Chúa: Mt 18, 1-5. 10. 12-14

Khi ấy các môn đệ đến bên Chúa Giêsu mà hỏi: “Chớ thì ai là kẻ lớn nhất trong Nước Trời?” Chúa Giêsu gọi một trẻ nhỏ lại, đặt nó giữa các ông mà phán rằng: “Thật, Thầy bảo thật các con: nếu các con không hoá nên như trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời. Vậy ai hạ mình xuống như trẻ nhỏ này, người ấy là kẻ lớn nhất trong Nước Trời.

“Và kẻ nào đón nhận một trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón nhận Thầy. Các con hãy coi chừng, đừng khinh rẻ một ai trong những kẻ bé mọn này, vì Thầy bảo các con, thiên thần của chúng trên trời hằng chiêm ngưỡng thánh nhan Cha Ta, Đấng ngự trên trời.

“Các con nghĩ sao? Nếu ai có một trăm con chiên mà lạc mất một con, thì người đó lại không bỏ chín mươi chín con trên núi, để đi tìm con chiên lạc sao? Nếu người đó tìm được, Thầy bảo thật các con, người đó sẽ vui mừng vì con chiên đó, hơn chín mươi chín con chiên không thất lạc. Cũng vậy, Cha các con trên trời không muốn để một trong những kẻ bé mọn này phải hư mất”.

  • SUY NIỆM: Tinh Thần Trẻ Thơ

Tin Mừng Mátthêu được cấu trúc xoay quanh năm diễn từ dài của Chúa Giêsu, và diễn từ thứ tư bắt đầu với chương 18 nói về nếp sống của người môn đệ trong cộng đoàn. Tin Mừng hôm nay nhắc đến hai đặc điểm của nếp sống người môn đệ trong cộng đoàn.

Trước hết là thái độ sống trẻ thơ.

Một tiểu thuyết gia nọ đã đưa ra nhận định: “Khi người lớn chúng ta không còn giữ liên hệ nào với các trẻ nhỏ, thì chúng ta không còn giữ được tính người nữa, mà đã trở thành như những chiếc máy chỉ biết ăn uống và kiếm tiền”.

Lòng tin tưởng của trẻ thơ gợi lên cho chúng ta về sự tin tưởng mà Chúa Giêsu đã dạy chúng ta phải có đối với Thiên Chúa Cha, Ðấng ngự trên trời. Thái độ trẻ thơ khâm phục trước vũ trụ và thiên nhiên nhắc nhớ sự khâm phục mà chúng ta cần có đối với vũ trụ do Thiên Chúa Cha chúng ta dựng nên. Thái độ đáp trả của trẻ nhỏ trước tình yêu thương nhắc chúng ta phải đáp trả đối với tình yêu thương của Thiên Chúa.

Nhận định trên đây giúp chúng ta hiểu tại sao Chúa Giêsu muốn các môn đệ trong cộng đoàn mà Ngài thiết lập phải trở nên như những trẻ nhỏ: đơn sơ, tin tưởng phó thác, không có thái độ kẻ cả.
Những đức tính tốt của tuổi thơ sẽ giúp cho các thành phần trong cộng đoàn chấp nhận và phục vụ nhau, không kỳ thị phân biệt. Cộng đoàn những con người cụ thể dĩ nhiên có những khuyết điểm, những bất toàn, tội lỗi. Chúa Giêsu biết rõ điều đó, nhưng Ngài không muốn môn đệ Ngài có thái độ sống kỳ thị tách biệt khỏi những người khác, nhất là những người tội lỗi. Trái lại, Chúa Giêsu đã mở ra một viễn tượng mới, Ngài mạc khải thái độ nhân từ thương xót của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi, đến nỗi đã bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc, và vui mừng khi tìm được nó. Chúa Giêsu mời gọi con người ăn năn sám hối trở về với sự thật, với tình thương và với người anh em.

Xin Chúa cho chúng ta sống tinh thần trẻ thơ trước mặt Chúa và trong tương quan với người khác. Xin cho chúng ta sống tin tưởng, yêu thương phục vụ mọi người vì tình yêu Chúa.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

  • CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ, nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói, dễ thấy Chúa hiện diện và hoạt động trong đời con.

Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa, xin cho con đừng trở nên cứng cỏi, khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.

Xin dạy con sự khiêm nhu để con dám buông đời con cho Chúa.

Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm, vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài, hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

Nguồn: http://gplongxuyen.org/NewsDetail.aspx?ID=20180813110000

“Chỉ có Chúa Thánh Thần là ngôi ba Tình Yêu đổ tràn Tình Yêu. Từ Tình Yêu và Ngọn Lửa yêu thương khơi lên cho chúng ta sống bác ái yêu thương và phục vụ”. Đó chính là tâm tình hết sức tâm tình mà Đức Cha Tôma Vũ Đình Hiệu – Chủ Tịch Ủy Ban Bác Ái Xã Hội Caritas Việt Nam gửi đến cộng đoàn sáng hôm nay trong bài chia sẻ của Đức Cha trong Thánh Lễ tạ ơn mừng kính Thánh bổn mạng.

Trong tâm tình hân hoan cùng với Giáo Hội mừng kỷ niệm năm thánh 30 năm các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam được tuyên thánh, Caritas Việt Nam cũng mừng kính nhưng lại mừng kính cách trọng thể hơn vì Caritas Việt Nam đã nhận Thánh Antôn Nguyễn Đích làm bổn mạng.

Với niềm vui này, hôm nay, Chúa nhật ngày 12 tháng 8 năm 2018, Caritas Việt Nam đã hội tụ về Trung Tâm Mục Vụ Tổng Giáo Phận Sài Gòn để mừng Lễ.

Từ rất sớm, nhiều người đã quy tụ về khuôn viên TTMV để mừng Lễ. Nét mặt hân hoan, vui tươi cùng với những câu hỏi thăm, chào nói với nhau đượm tình bác ái yêu thương.

9 g 00, cộng đoàn bắt đầu vào chương trình mừng với phần diễn nguyện “Hạt giống đức tin” được trình bày hết sức sốt sắng bởi Cha Giuse Trần Cao Thăng – chính xứ Bắc Dũng và nghệ sĩ, nhóm múa. Kèm theo đó là phần đóng góp của Ban Hợp Xướng và nhạc sĩ Lê Đức Hùng (nhóm Lửa Hồng)

Sau phần diễn nguyện là phần rước kiệu kính Thánh Tử Đạo Antôn Nguyễn Đích.

10 g 00, Thánh Lễ mừng kính Thánh Tử Đạo Antôn.

Chủ tế Thánh Lễ sáng nay là Đức Cha Tôma Vũ Đình Hiệu – Chủ Tịch Ủy Ban Bác Ái Xã Hội Caritas Việt Nam. Cùng đồng tế với Đức Cha có quý Cha Giám Đốc Caritas Việt Nam và một số giáo phận và một số Cha khác nữa.

Trong lời mở đầu Thánh Lễ cũng như bài chia sẻ, Đức Cha Tôma mời cộng đoàn cùng nhìn lại gương sáng đời sống đạo đức của các Thánh Tử Đạo, cách riêng thánh Antôn Nguyễn Đích.

Đức Cha không quên mời cộng đoàn dâng lời cầu nguyện cho những người đã khuất, cho những ân nhân đã đóng góp cho Caritas.

Đức Cha nói rất rõ về chứng tá gương sống của mỗi người : “Đây là niềm tự hào của Caritas cũng như của mỗi người chúng ta. Trong 1 gia đình có 4 người tử đạo nhưng có 2 người được tuyên thánh. 2 người con trai được phúc tử đạo và chúng ta mong ước những người con đó chúng ta mong được tuyên thánh. Trong số chúng ta cũng có chúng ta quen biết quê hương Quần Cống – quê hương Đức Tổng Giuse Ngô Quang Kiệt. Quê hương rất tự hào “tam gia nhất thánh”. Trong gia đình có 3 người được tuyên thánh. Đó là những bậc tiền nhân của Đức Tổng Giuse.

Từ đời sống đức tin, mẫu gương như vậy, bổn mạng chúng ta là chứng nhân anh dũng. Chứng nhân anh dũng từ việc yêu mến hàng giáo sĩ, giáo dân. Nhất là Cha Năm cùng phúc tử đạo với thánh Đích. Đó chính là lòng yêu mến sẵn sàng phục vụ. Chăm sóc lo lắng cho các chủng sinh, thời gian bận bịu nhưng sẵn sàng đón nhận các Thầy nhưng không lo lắng gì, bận tâm gì. Bên cạnh đó, ngoài việc chăm sóc việc nuôi các vị truyền giáo, ta thấy là vị chứng nhân anh dũng. Khi chúng ta nhìn lại suốt 200, chúng ta thấy xuất hiện hàng trăm ngàn chứng nhân. Trong đó, Thánh Đích đã nêu gương đời sống đạo hạnh để mỗi người chúng ta bắt chước. Mỗi hội viên Caritas nhắc nhớ nhau. Đó là niềm tự hào và vinh hạnh của chúng ta. Đó là mẫu gương phục vụ.

Nói đến phục vụ, hội viên Caritas quan tâm nhu cầu của người khác, chúng ta để ý người bệnh tật, neo đơn, kém may mắn hơn chúng ta. Họ cần được chúng ta quan tâm. Chúa ban cho Caritas sứ mạng phục vụ. Phục vụ với tất cả sự yêu mến. Dù chúng ta hy sinh thời giờ, sức lực nhưng chúng ta noi gương thánh bổn mạng, chúng ta không quản ngại hy sinh phục vụ. Chúng ta bắt chước thánh bổn mạng để làm chứng cho đức tin kiên cường mạnh mẽ của chúng ta …

Kèm theo lời nhắc nhớ về gương sáng đời sống của Thánh Bổn mạng về sự hy sinh, chia sẻ, Đức Cha nhắc cho cộng đoàn biết rằng tất cả những điều mà hội viên làm đều phải kết hợp với Chúa và đặc biệt khi chúng ta có đầy Chúa Thánh Thần. Chỉ có Chúa Thánh Thần mới làm cho các vị tử đạo kiên vững và tràn đầy Tình Yêu. Chỉ có Thánh Thần mới khơi dậy chúng ta ngọn lửa yêu thương và phục vụ.

Logo Caritas Việt Nam mà chúng ta đang mang chúng ta thấy điều đó, trong suốt thời gian này, chúng ta đọc lại và tôn vinh các thánh tử đạo Việt Nam. Chúng ta qua lời cầu nguyện, các Ngài đã quyết một lòng theo Đức Kitô trên con đường thập giá. Chắc chắn Chúa Thánh Thần khơi ngọn lửa đức tin đó nơi tâm hồn chúng ta … Khi có Chúa Thánh Thần, chắc chắn chúng ta có thể nói như Thánh tông đồ Phaolô : “Không có gì tách chúng tôi ra khỏi tình yêu Đức Kitô …”. Chúng ta có thể làm được những điều đó, trở nên dấu chỉ đời sống của chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần.

Ước mong hội viên chúng ta noi gương các Thánh tử Đạo Việt Nam, đặc biệt chúng ta noi gương Thánh Antôn Nguyễn Đích, chúng ta luôn sống đức tin của mình và luôn kiên vững sống liêm khiết, công bằng và bác ái với mọi người dù chung quanh chúng ta có những người cản trở chúng ta. Xin các Ngài chuyển cầu, với sức mạnh của Chúa Thánh Thần, chúng ta sống công chính, công bình và bác ái. Với sức mạnh và ngọn lửa của Chúa Thánh Thần, chúng ta có thể sống chứng tá cho Chúa giữa lòng xã hội và Giáo Hội nữa.

Xin các Thánh Tử đạo và Thánh Antôn Nguyễn Đích chuyển cầu cho mỗi hội viên chúng con”.

Trước khi kết lễ, đại diện cộng đoàn ngỏ tâm tình cảm ơn Đức Cha, cảm ơn quý Cha và cộng đoàn cũng như Cha chính xứ Bắc Dũng, nhạc sĩ Lê Đức Hùng, nhóm hợp xướng và nhóm múa diễn nguyện.

Sau lời cảm ơn, Đức Cha cảm ơn Đức Cha Giám Quản, Cha giám đốc Trung Tâm Mục Vụ và mọi người. Rất tâm tình, Đức Cha Tôma nói : “Ước mong mọi người chung vui với nhau, chúng ta tiếp tục sứ mạng của chúng ta và chúng ta xin các Ngài đổ mưa hồng ân trên Caritas để chúng ta hoàn thành sứ mạng Chúa trao phó”.

Thánh Lễ mừng kính Thánh bổn mạng Caritas Việt Nam hôm nay khép lại với tâm tình bài hát tạ ơn : “Lời tạ ơn ! Dâng lên những lời tạ ơn ! Tạ ơn Chúa chúng con cảm tạ ơn Chúa, đã thương xem chúng con như là dân riêng. Cánh tay Ngài tháng năm ôm ấp giữ gìn, trọn đời con yêu mến cậy tin … “và những tấm hình lưu niệm ghi nhớ ngày vui này.

Nguyện xin ơn Chúa Thánh Thần, đặc biệt qua lời chuyển cầu của Thánh Anton Nguyễn Đích, ban cho mỗi hội viên Caritas Việt Nam những ơn lành cần thiết để mỗi hội viên sống chứng tá cho tình yêu của Chúa giữa đời như các Thánh Tử Đạo và như Thánh bổn mạng Antôn.

Người Giồng Trôm

Nhiều năm trước, một Cha giáo đã dạy các thầy chủng sinh rằng: “Các con hãy nhớ, các con không được phép nhai kẹo cao su trong khi cầu nguyện.” Một trong các thầy chủng sinh liền hỏi lại: “Thưa Cha, chúng ta có được cầu nguyện trong khi nhai kẹo cao su không?” “Tất nhiên là có”, cha giáo trả lời. Các thầy ngạc nhiên vì làm thế nào để có thể thực hành những hướng dẫn mâu thuẫn này.

Mẩu truyện trên đây muốn nói rằng cầu nguyện vừa là một hành động tự thân vừa là cách thức sống của trọn đời sống con người. Cầu nguyện có khi như một nghi thức, có khi không cần như vậy. Cầu nguyện có khi bằng khẩu nguyện, có khi thinh lặng, có khi là hoạt động, có khi là chiêm niệm. Cầu nguyện là trò chuyện với Thiên Chúa. Giống như chúng ta nói chuyện và chia sẻ với những người bạn tốt nhất của mình về những gì đang xảy ra trong cuộc sống của chúng ta, chúng ta cũng nói chuyện với Thiên Chúa như vậy. Giống như lắng nghe bạn bè tâm sự, chúng ta cũng lắng nghe Thiên Chúa trong một cách thức tương tự.

Như khi chúng ta giao tiếp với nhau, việc cuộc gặp gỡ của chúng ta với Thiên Chúa cũng được thể hiện bằng nhiều cách thức khác nhau. Chúng ta thân thưa với Thiên Chúa bằng lời nói hay các bài thánh ca; bằng trí tưởng tượng hay bằng chính sự thinh lặng của chúng ta. Chúng ta đến với Thiên Chúa qua một nghi lễ chính thức hoặc bằng sự tự phát nào đó. Chúng ta có thể cầu nguyện trong nhà thờ, trong vườn, trên xe, hoặc ngay cả trong lúc tắm rửa. Chúng ta cũng có thể cầu nguyện trên giường. Khi vừa thức dậy, chúng ta dâng ngày mới cho Chúa và tạ ơn Ngài trước khi đi ngủ. Người Công giáo tin rằng, với ý hướng ngay lành, mọi khoảng khắc của ngày sống – những niềm hy vọng, công việc, niềm vui, những nỗi khổ đau – đều có thể trở thành nội dung rất ý nghĩa cho lời cầu nguyện.

Các tín hữu cầu nguyện theo nhiều cách thức khác nhau. Tuy nhiên, trong sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, Giáo Hội dạy chúng ta ba cách phổ biến nhất như sau.

  • Khẩu nguyện

Khẩu nguyện là thưa với Thiên Chúa tất cả những gì đang xảy ra trong tâm trí chúng ta. Khẩu nguyện có thể đơn giản mà tâm tình như “Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa vì một buổi sáng đẹp trời này.” Đó có thể trang nghiêm như khi cử hành Thánh lễ vào một dịp đặc biệt nào đó. Khẩu nguyện cũng có thể mãnh liệt và cấp bách như lời cầu nguyện của Đức Giêsu trong vườn Giệt-si-ma-ni: “Xin đừng theo Ý Con, nhưng xin cho Ý Cha được thể hiện.”

Hầu hết các tín hữu đều biết đến những lời cầu nguyện truyền thống từ khi thơ bé. Những lời cầu nguyện truyền thống như kinh Vì Dấu Thánh Giá, kinh Kính Mừng, kinh Lạy Cha, và kinh xin ơn thánh hóa bữa ăn. Đó cũng có thể là kinh Dâng Ngày và kinh trước khi đi ngủ. Theo thời gian, nhiều tín hữu đã học thêm những kinh khác như kinh Hãy Nhớ, kinh Lạy Nữ Vương, kinh Lạy Mẹ Thiên Chúa để cầu nguyện vào mỗi thời điểm thích hợp.

Người Công giáo thường cầu nguyện theo nhóm. Khi hai hay nhiều người tụ họp lại với nhau để dâng trọn tâm hồn mình lên Chúa thì lời cầu nguyện của họ được gọi là lời cầu nguyện chung. Những ví dụ về lời cầu nguyện chung là Kinh Mân Côi, những lời cầu nguyện sùng kính bao gồm cả những bài thánh thi và những lời kinh cầu nguyện, những lời cầu nguyện trong lớp học, và quan trọng nhất là Thánh Lễ. Cùng đứng với nhau đọc kinh Tin Kính trong Thánh lễ (“tôi tin kính một Thiên Chúa, là Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất…” là một kinh nghiệm mạnh mẽ vừa diễn đạt vừa định hình Đức tin của chúng ta. Mặc dù chúng ta có thể dâng những lời cầu nguyện tương tự trong suốt cuộc đời của chúng ta, nhưng ý nghĩa của những lời nguyện ấy sẽ lớn lên và thay đổi theo những kinh nghiệm sống của chúng ta. Và chắc chắn kinh Lạy Cha mang ý nghĩa rất khác biệt giữa hai người, một người vừa mới chôn cất cha mình với một đứa trẻ mới chỉ có những kinh nghiệm mơ hồ về Thiên Chúa. Những lời cầu nguyện khẩu nguyện không chỉ là “việc trải qua những cảm xúc,” nhưng chúng là dấu chỉ của một niềm tin sống động trong chúng ta.

Trong Thánh Lễ, cha chủ tế mời gọi mỗi người: “Hãy nâng tâm hồn lên.” Khi chúng ta chân thành đáp lại: “Chúng con đang hướng về Chúa”, thì chúng ta biết rằng chúng ta đang thực sự cầu nguyện, vì đó là lời cầu nguyện – nâng tâm hồn lên Thiên Chúa.

  • Suy Niệm

Suy niệm là suy ngẫm hay phản tỉnh về Thiên Chúa. Khi chúng ta suy niệm, chúng ta giữ cho lòng mình tập trung và hướng về Thiên Chúa để có thể nhận ra sự hiện diện của Ngài trong cuộc sống chúng ta, đồng thời đáp lại những gì Ngài đang mời gọi chúng ta thực hiện. Nhiều thứ có thể giúp chúng ta tập trung và khơi nguồn cho trí tưởng tượng khi suy niệm. Chúng ta có thể sử dụng Kinh Thánh, đặc biệt là Tin Mừng; những lời cầu nguyện truyền thống; những tác phẩm các cha linh hướng; những hình ảnh tôn giáo; hoặc lịch sử. Suy niệm còn được gọi là cầu nguyện phản tỉnh, dẫn chúng ta đến cuộc trò chuyện với Thiên Chúa. Hãy nhớ rằng chúng ta đang ở trước sự hiện diện của Thiên Chúa, chúng ta có thể lắng nghe Ngài nói với chúng ta. Chúng ta bước vào không gian và thời gian thánh thiêng của Thiên Chúa và nhận biết rằng Ngài luôn ở bên chúng ta mọi lúc, mọi nơi.

  • Chiêm niệm

Khi chúng ta đắm chìm vào sự hiện diện của Thiên Chúa trong sự an nhiên tự tại thì chúng ta đang cầu nguyện chiêm niệm. Khi chiêm niệm, chúng ta dành thời gian ở với Chúa trong thinh lặng và ý thức rằng Ngài đang ở bên chúng ta. Để hiểu cách thức chiêm niệm như thế nào, chúng ta có thể so sánh chiêm niệm với việc suy nghĩ hoặc chiêm ngắm một buổi hoàng hôn tuyệt đẹp. Chúng ta ý thức về tất cả những đang trải nghiệm, nhưng phản ứng của chúng ta là thing lặng. Khi kinh nghiệm về Thiên Chúa một cách cá vị, chúng ta sẽ cảm nhận được tình yêu của Ngài và chờ đợi Ngài nói chuyện với chúng ta theo cách riêng của Ngài. Điều quan trọng là dành thời gian để thư giãn và lắng nghe trong sự hiện diện của Chúa, tìm kiếm sự hiệp nhất với Chúa, Đấng hằng yêu thương chúng ta.

Chuyển ngữ: Pr. Nguyễn Văn Đương, S.J.
(dongten.net 13.08.2018/ loyolapress.com)

Trong dịp mừng kỷ niệm 70 năm Legio Mariae hiện diện hoạt động tại Việt Nam (1948-2018), sáng ngày 13 tháng 8 năm 2018, gần 400 hội viên Legio Mariae thuộc Comitium Bắc Ninh đã quy tụ về Nhà thờ Chính Toà Lạng Sơn để tham dự họp thường kỳ và Thánh lễ tạ ơn trọng thể.

Chị Maria Nguyễn Thị Hiếu, Trưởng Curia Lạng Sơn Cao Bằng, thay mặt toàn Curia chào mừng sự hiện diện rất đặc biệt của Đức cha Giuse Châu Ngọc Tri – Giám mục Lạng Sơn Cao Bằng, quý Cha Linh giám, Đại diện Ban quản trị Regia Hà Nội, Comitium Bắc Ninh và đông đảo Anh chị em Hội viên Legio thuộc Comitium đã về tham dự chương trình Tạ ơn trong ngày hôm nay được tổ chức tại Lạng Sơn.

Chương trình bắt đầu lúc 8 giờ sáng. Ban ủy viên và quý hội viên Legio Mariae đã tề tựu trong Nhà thờ Chính Toà để bắt đầu họp thường kỳ. Cộng đoàn dâng lên Đức Mẹ lời kinh Mân Côi, sau đó là phần tổng kết, phúc trình những hoạt động, công tác đã thực hiện trong thời gian qua, những điểm điểm mạnh cần phát huy và những vấn đề cần phải được khắc phục. Sau khi đọc kinh Catena, các hội viên đang hiện diện trong buổi tổng kết lắng nghe bài huấn từ của Đức cha Giuse và quý Cha linh giám.

Sau giờ họp, quý hội viên Legio Mariae có những giây phút giải lao, chuẩn bị tâm hồn để hiệp dâng Thánh lễ. Thánh lễ tạ ơn diễn ra lúc 10h30 do Đức cha Giuse chủ sự. Đồng tế với ngài có Cha Tổng Đại diện Giuse Trần Đức Hạnh, quý cha linh giám, quý cha khách với sự tham dự quý hội viên Legio Mariae và đông đảo bà con giáo hữu.

Trong bài giảng lễ, Đức cha mời gọi cộng đoàn Phụng vụ chiêm ngắm gương mẫu Đức Maria hoan hỷ đến thăm viếng Bà Isave. Ngài nhấn mạnh: mỗi ngày chúng ta đọc lời nguyện của người hội viên Legio là ta hiệp cùng Mẹ dâng lời ngợi khen Thiên Chúa khi nhận ra biết bao ơn lành Chúa ban trong cuộc đời mình.

Thiên Chúa không chỉ là bao điều trọng đại nơi Đức Maria nhưng ngài cũng làm bao điều kỳ diệu nơi cuộc sống mỗi người chúng ta hôm nay. Ơn cứu độ đã được ban cho mỗi chúng ta qua Đức Giêsu Kito và trong sự cộng tác của Đức Maria. Hãy nhận biết xem đâu là những ơn mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Ơn cao quý nhất là chúng ta được làm con cái Chúa, chia sẻ tâm tình của Đức Maria và cùng Mẹ lên đường đem Chúa cho mọi người. Cùng Mẹ chúng ta hoan hỉ tiến bước về tương lai trong tâm tình tạ ơn qua từng phút giây cuộc đời.

Mỗi hội viên Legio bước theo Mẹ và đọc lời kinh của Mẹ mỗi ngày, hãy cố gắng làm cho muôn người ngợi khen Thiên Chúa và được diễm phúc kề bên Mẹ trong mọi bước chân Tông đồ. Hãy thực sự mang lấy tâm tình của Đức Maria trong từng hoạt động Tông đồ của người hội viên Legio. Hãy khiêm nhường thẳm sâu, vâng lời trọn vẹn, thanh khiết không tì ố, nhân hậu yêu thương và can đảm lên đường như chính Mẹ đã nêu gương.

Khi họp nhau mừng kỷ niệm 70 năm hiện diện của Legio tại Việt Nam, với tâm tình tạ ơn, ta hãy hướng về tương lai để quyết tâm mạnh bước theo Mẹ hơn nữa đến với mọi người. Đâu có Legio Mariae là nơi đó ghi đậm dấu chân nhiệt thành Tông đồ của mỗi Hội viên. Hãy hân hoan phấn khởi bước đi theo Mẹ, bất chấp khó khăn thách đố, hãy dành thời gian vàng cho Mẹ trong sứ vụ Tông đồ Legio Mariae. Với ơn Chúa và sự nâng đỡ của Mẹ, chúng ta tin tưởng những bước chân hoạt động nhiệt thành của chúng ta sẽ đem lại nhiều hoa trái tốt lành cho chính chúng ta và mỗi người.

Cuối Thánh lễ, chị trưởng Maria Nguyễn Thị Hiếu thay mặt Curia Lạng Sơn Cao Bằng nói lên tâm tình tri ân Đức cha Giáo phận, quý Cha Linh giám, quý Đại diện Ban quản trị Regia Hà Nội, Comitium Bắc Ninh và đông đảo quý hội viên Legio Maria trong Comitium đã lên với miền đất Lạng Sơn xa xôi này để tham dự ngày họp mặt đầy ý nghĩa và Thánh lễ tạ ơn trọng thể hôm nay. Tâm tình tri ân cũng được dâng tặng Đức cha, quý Cha trong món quà xứ Lạng thân thương.

Đức cha Giuse ban Phép lành với ơn Toàn xá trong Năm Thánh tôn vinh các Thánh Tử Đạo Việt Nam cho toàn thể cộng đoàn hiện diện.

Tại Toà Giám mục Lạng Sơn, tất cả tham dự viên cùng chia sẻ với nhau trong bữa trưa thân mật agape, cùng được lắng nghe những làn điệu dân ca quan họ do các anh chị Hội viên từ Bắc Ninh trình bày.

Ngày họp mặt kết thúc trong niềm vui tràn ngập trên mỗi người tham dự. Với niềm vui và ơn Chúa, Hội viên Legio Mariae tiếp tục dấn thân mạnh mẽ hơn nữa trong sứ vụ Tông đồ giáo dân, tiến bước dưới hiệu kỳ của Đức Mẹ để đem tình yêu thương bác ái và sự chia sẻ chân thành với mọi người.

Ban truyền thông Giáo phận LSCB

13/08 – Thứ hai tuần 19 thường niên.
“Họ sẽ giết Người, nhưng Người sẽ sống lại. Con cái thì được miễn thuế”.

Lời Chúa: Mt 17, 21-26

Khi ấy, các môn đệ và Chúa Giêsu còn đang ở Galilêa, thì Chúa Giêsu bảo các ông rằng: “Con Người sắp bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết người, nhưng ngày thứ ba, Người sẽ sống lại”. Các môn đệ rất đỗi buồn phiền.

Khi các ngài đến Capharnaum, thì những người thu thế đền thờ đến gặp Phêrô và hỏi rằng: “Thầy các ông không nộp thuế “đền thờ’ sao?” Ông nói: “Có chớ”.

Khi ông về đến nhà, Chúa Giêsu hỏi đón trước rằng: “Simon, con nghĩ sao? Vua chúa trần gian thu thuế má hạng người nào? Đòi con cái mình hay người ngoài?” Ông thưa rằng: “Đòi người ngoài”. Chúa Giêsu bảo ông rằng: “Vậy thì con cái được miễn. Nhưng để chúng ta không làm cho họ vấp phạm, con hãy ra biển thả câu: con cá nào câu lên trước hết thì bắt lấy, mở miệng nó ra, sẽ thấy một đồng tiền, con hãy lấy tiền đó mà nộp cho họ, trả phần Thầy và phần con”.

  • SUY NIỆM: Nộp Thuế Cho Ðền Thờ

Vào thời Chúa Giêsu, người Do thái không những phải đóng thuế cho nhà nước tức là thuế dân sự, mà còn phải đóng thuế cho Ðền thờ nữa: ngoại trừ đàn bà, các thiếu niên và các nô lệ, tất cả những ai từ 20 tuổi trở lên đều phải nộp thuế để bảo trì và tu sửa Ðền thờ Giêrusalem.
Câu chuyện trong Tin Mừng hôm nay xẩy ra vào khoảng tháng 10, năm thứ hai cuộc đời rao giảng của Chúa Giêsu, tức là ít lâu sau biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi Thabor. Chúa Giêsu và các môn đệ trở lại Capharnaum, và ở đó, những người thu thuế đến yêu cầu Phêrô nộp thuế. Dĩ nhiên là Phêrô sẵn sàng nộp thuế.

Khi Phêrô về tới nhà, Chúa Giêsu hỏi đón ông: “Simon, con nghĩ sao? Vua chúa trần gian lấy thuế của ai? Con cái mình hay người ngoài? Phêrô đáp: “Thưa, người ngoài. Chúa Giêsu liền bảo thế thì con cái được miễn”. Ðây cũng là một mạc khải, bởi vì qua câu: “Thế thì con cái được miễn”, Chúa Giêsu muốn nói rằng xét về bản tính Thiên Chúa, Ngài không phải nộp thuế; nhưng xét về bản tính loài người, Ngài cũng tuân giữ việc nộp thuế cho Ðền thờ như bất cứ ai. Tuy nhiên, Ngài nộp thuế bằng một phép lạ: Chúa Giêsu bảo Phêrô đi câu cá, bắt được con cá đầu tiên, trong miệng có một đồng bạc, đủ để nộp thuế cho Ngài và cho Phêrô. Chúa không bảo Giuđa xuất quĩ mà nộp, cũng không bảo các phụ nữ đạo đức dâng cúng, nhưng Ngài đã làm phép lạ để các môn đệ tin vào quyền năng của Ngài.

Nếu ngày xưa, người Do thái có bổn phận nộp thuế cho Ðền thờ để lo việc phụng sự Nhà Chúa, thì ngày nay trong Giáo Hội cũng có những cách đóng góp hay dâng cúng, đó cũng là một việc thờ phượng và là một sự chia sẻ cho những anh chị em nghèo khó. Chúng ta hãy nhận ra nét đặc biệt trong nhân cách của Chúa, khi hòa nhập vào nếp sống cụ thể của những người đồng thời với Ngài. Mầu nhiệm nhập thể đòi buộc Chúa phải chia sẻ trọn vẹn đời sống con người. Ước gì chúng ta cũng biết noi gương Chúa, chấp nhận như hạt lúa mì rơi xuống đất và chết đi để trổ sinh nhiều hoa trái tốt đẹp.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

  • CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, xin dạy con luôn tươi tắn và dịu dàng trước mọi biến cố của cuộc sống, khi con gặp thất vọng, gặp người hờ hững vô tâm, hay gặp sự bất trung, bất tín nơi những người con tin tưởng cậy dựa.
Xin giúp con gạt mình sang một bên để nghĩ đến hạnh phúc người khác, giấu đi những nỗi phiền muộn của mình để tránh cho người khác phải đau khổ.

Xin dạy con biết tận dụng đau khổ con gặp trên đời, để đau khổ làm con thêm mềm mại, chứ không cứng cỏi hay cay đắng, làm con nhẫn nại chứ không bực bội, làm con rộng lòng tha thứ, chứ không hẹp hòi hay độc đoán, cao kỳ.

Ước gì không ai sút kém đi vì chịu ảnh hưởng của con, không ai giảm bớt lòng thanh khiết, chân thật, tử tế, chỉ vì đã là bạn đồng hành của con trong cuộc hành trình về quê hương vĩnh cửu.
Khi con loay hoay với bao nỗi lo âu bối rối, xin cho con có lúc thì thầm với Chúa một lời yêu thương.
Ước chi đời con là cuộc đời siêu nhiên, tràn trề sức mạnh để làm việc thiện, và kiên quyết nhắm tới lý tưởng nên thánh.

Amen. (dịch theo Learning Christ)

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

Nguồn: http://gplongxuyen.org/NewsDetail.aspx?ID=20180812110000