Kính thưa anh chị em

Với câu chuyện hôm nay Chúa muốn cho chúng ta thấy hai điều rất căn bản của cuộc sống này:

+  Đàng sau cái thế giới mà hôm nay chúng ta đang sống còn một thế giới khác nữa

+  Đồng thời với tất cả những diễn tiến sống động trong câu truyện giữa Abraham và người giầu có, Chúa còn cho chúng ta thấy thêm một sự thật nữa đó là có một mối dây liên hệ mật thiết giữa cuộc sống hôm nay và thế giới mai sau.

I. CHÚNG TA HÃY NHÌN VÀO CUỘC SỐNG CỦA HAI NHÂN VẬT TRONG CÂU CHUYỆN.

Cả hai đều là những con người sống trên đất. Đời sống của hai người được

– Bắt đầu với việc sinh ra.

Cả hai đều được sinh ra. Không ai trong hai người được lựa chọn hay được hỏi ý kiến trước khi được sinh ra trên đời, nhưng khi đã được sinh ra rồi thì cả hai đều có quyền sống như một con người. Bản hiến chương nổi tiếng của Liên hiệp quốc năm 1948 đã công khai xác định điều đó

– Và kết thúc với cái chết.

Cuộc sống của hai người được diễn ra giữa hai làn mức được coi như là định mệnh đó.

Vì là người cho nên mọi người đều có quyền được chia sẻ những tài sản chung mà Thiên Chúa đã trao cho cả loài người quản lý. Thế nhưng sự việc thực tế từ trước cho đến bây giờ chưa bao giờ được như thế. Có người thì chiếm hữu quá nhiều. Có người thì thiếu thốn mọi sự.

Năm Tân hợi 1910 nhà Cách mạng Tôn dật Tiên bên Trung hoa đặt ra bốn mục tiêu để theo đuổi với mục đính là làm cho cuộc sống con người nhờ đó mà được tốt đẹp, xứng đáng với con người hơn. Bốn mục tiêu đó là: Ăn – Ở – Đi – Mặc.

Xét theo bốn mục tiêu này thì

+ Người phú hộ trong câu truyện hôm nay có tất cả mọi sự.

Ăn thì Tin Mừng mô tả: Ngày ngày yến tiệc linh đình.

thì tuy Tin Mừng không cho chúng ta biết rõ nhưng Tin Mừng cho một chi tiết rất thú vị là trước nhà của người đó có cổng. Tiếng Hy lạp gọi là “poulon”. “Poulon” là loại cổng rất đẹp, chỉ có những ngôi nhà thật sang trọng mới có.

Đi thì có lẽ ta khỏi cần phải nói. Chắc chắn phương tiện của người phú hộ phải hơn hẳn những người khác.

Còn mặc thì theo Tiến sĩ Morgon, một nhà chú giải Tin Mừng tôi rất ưa thích, nói rằng chiếc áo vải gai mịn người đó mặc có giá trị bằng vàng nặng gấp 6 lần cái áo đó.

Tóm lại là người đó có tất cả. Có dư dật.

+ Còn Lagiarô người nghèo khó thì chẳng có gì.

Ăn thì Tin Mừng mô tả: Chỉ ước, ước được những thứ từ bàn ăn của người giầu có rơi xuống… vậy mà cũng không được. Thật là đáng thương. Mơ ước những thứ rơi rớt từ bàn ăn của người giầu có xuống để có chút cho vào bụng cho đỡ đói mà cũng không có.

thì chẳng có nhà. Địa chỉ thường trú của Lagiarô là ở gần cổng “poulon” đẹp đẽ của nhà người giầu có. Cứ theo Tin Mừng mô tả thì có lẽ anh đã ở tại đó rất lâu…Lâu đến mức độ những con chó của người giầu có đã quen thuộc – không những không còn sủa, còn xua đuổi người nghèo như những con chó khôn ngoan của những người giầu có thường làm – mà trái lại xem ra chúng đã trở thành bạn hữu của anh ta…chúng đến liếm những chỗ lở loét trên con người của anh ta.

Đi thì chúng ta khỏi bàn đến. Một con người như thế là sao mà có được cơ hội để đi đến đâu. Và giả như có đi thì nào có được ai sẵn sàng tiếp đón một con người như thế này.

– Và cuối cùng là mặc thì Tin Mừng bảo: thật rách rưới. Chắc là còn có thêm nhiều mùi hôi hám nữa.

Đến đây thì chúng ta thấy:

Khúc đầu của hai người giống nhau. Thật giống nhau… Đều là những con người được sinh ra để làm người sống trên đời.

Nhưng khúc giữa sao mà KHÁC NHAU nhiều quá.

Và bây giờ đến khúc cuối. Tin Mừng nói cả hai đều chết. Người giàu có chết và Lagiarô người nghèo khó cũng chết.

Người giầu có chết – Của cải, châu báu vàng bạc, các thứ của ngon vật lạ trên đời, quần áo gấm vóc lụa là … tất cả những thứ đó đều không đủ sức giữ cho người đó khỏi chết.

Và Lagiarô người nghèo khó cũng vậy.

Cả hai dều chết. Một sự giống nhau nữa.

Với những người không tin thì như thế là xong. Thế là chấm dứt cuộc sống của một con người đã có một thời được sống trên đất.

Thế những đối với Chúa thì không như thế

Một bức màn được mở ra. Thế giới đàng sau cuộc sống trên đất được tiếp nối bằng một thế giới khác.

– Người giầu có bị vứt vào hỏa ngục

– Còn Lagiarô người nghèo khó thì được đưa lên, lên rất cao, cao đến tận lòng của tổ phụ Abraham.

Một sự đổi đời nhanh đến chóng mặt.

II. CHÚA MUỐN DẠY GÌ QUA CÂU CHUYỆN NÀY?

Chúa muốn nhắn nhủ mọi người còn sống hai điều:

+ Bên kia cái chết, nhân cách và ý thức con người vẫn còn tồn tại

Bên kia lằn mức của sự chết cả người giầu có và Lagiarô người nghèo khó vẫn còn tồn tại và vẫn còn nhận ra nhau.

+ Cuộc sống trên đất và cuộc sống sống ở thế giới bên kia có một sự liên hệ gắn bó mật thiết chặt chẽ với nhau. Sự chết dù có ác nghiệt cách mấy đi nữa cũng không hủy diệt được mối giây liên hệ đó.

Và kết quả là chúng ta thấy:

– Người giầu có sau cái chết đã bước vào thế giới bên kia như một kẻ ăn xin:

– Còn Lagiarô người nghèo khó thì được các thiên thần đưa lên đến tận lòng của tổ phụ Abraham … như một kẻ chiến thắng.

Như vậy vấn đề mấu chốt còn lại mà chúng ta phải suy nghĩ hôm nay là phải sống làm sao để cuộc sống mai sau sẽ trở thành một cuộc cuộc chiến thắng chứ không bao giờ trở thành chiến bại. Mỗi người chỉ có một cuộc đời. Thành công thì sẽ có tất cả. Còn thất bại …chắc là không ai trong chúng ta mong muốn.

Đàng sau làn mức của sự chết thì mọi sự sẽ trở thành vĩnh cửu, không còn có thể thay đổi được bất cứ một sự gì. Đó là một sự thật đáng sợ mà mọi người không được phép coi thường hay không nghĩ tới.

Dửng dưng trước những nỗi khốn cùng của người khác là một tội trước mặt Chúa.

Vào một ngày mùa đông lạnh buốt, ông thị trưởng đầu tiên của Thành phố New- York nổi tiếng là giầu có phải chủ tọa một phiên tòa.

Người ta điệu đến trước mặt ông một ông lão quần áo tả tơi. Người đàn người này bị tố cáo là đã ăn cắp một mẩu bánh mì. Lời tự biện hộ duy nhất mà người đàn ông khốn khổ đưa ra là: “gia đình tôi đang chết đói”.

Nghe xong lời cáo buộc của cử tọa cũng như lời biện bạch của ông lão, viên thị trưởng đưa ra phán quyết như sau: “Luật pháp không dung thứ cho bất kỳ một hành động xấu nào. Tôi thấy cần phải trừng phạt ông, và hình phạt cho tội ăn cắp là ông phải đóng phạt 10 đôla” Vừa công bố bản án, ông thị trưởng rút trong ví tiền của mình ra 10 dollars và trao cho người đàn ông lo đáng thương kia để ông nộp phạt theo phán quyết của toà. Sau đó ông quay xuống cử tọa và nói tiếp:

– Ông lão này đã bồi thường vì tội ăn cắp của ông. Còn phần quí vị, tôi yêu cầu mỗi người phải đóng 50 xu tiền phạt vì sống dửng dưng đến độ để cho trong thành phố  giàu có của chúng ta còn có một người nghèo phải đi ăn cắp.

Nói xong, ông ra lệnh cho viên cho viện biện lý đi thu tiền và trao tất cả cho ông lão. Khi chiếc mũ đã được chuyền một vòng tòa án và trở về tay mình ông lão đếm được tất cả 47dollars 50xu.

Dửng dưng trước nỗi khổ của người khác không là thái độ vô thưởng vô phạt, mà là một hành động tội ác. Ông thị trưởng thành phố New York trong câu chuyện trên đây quả thực đã thấy được tội ác của chính ông và thị dân của ông đối với lão ông ăn cắp bánh mì, họ đã sám hối bằng những việc làm rất cụ thể. Xin Chúa cũng cho chúng ta được sống như thế. Amen.

Thiếu nhi chúng con yêu quí,

Chúng con vừa được nghe một câu chuyện hết sức đặc biệt mà Chúa Giêsu đã kể cách đây hai ngàn năm. Cha đố chúng con biết khi kể câu chuyện đặc biệt này Chúa Giêsu muốn nói cho mọi người điều gì?

– Chúa muốn nói đến sự sống ở đời sau.

– Chúa muốn nòi đến sự sống sau khi chết.

– Chúa muốn nói đến cuộc sống của con người sống hôm nay và mai sau có liên hệ với nhau.

Chúng con giỏi quá.

Theo cha thì Chúa muốn nói với mọi người hai điều này:

Trước hết là đàng sau cuộc sống chúng ta đang sống hôm nay, có một cuộc sống khác. Đó là cuộc sống đời sau.

Thứ đến là giữa cuộc sống hôm nay và cuộc sống đời sau có một mối giây liên hệ mật thiết với nhau.

Bây giờ cha bắt đầu nói về hai vấn đề này.

1. Trước hết là đàng sau cuộc sống chúng ta đang sống hôm nay, có một cuộc sống khác. Đó là cuộc sống đời sau.

Cha hỏi chúng con: Chúng con có tin rằng có cuộc sống mai sau không?

Tin vào cuộc sống mai sau là một trong những điều phải tin trong kho tàng đức tin của chúng ta.

Thế nhưng đây không phải là niềm tin của mọi người. Có rất nhiều người không tin vào cuộc sống đời sau, không tin vào cuộc sống đàng sau cái chết. Họ bảo: chết là hết, chẳng còn gì. Khi đã xuôi tay nằm xuống là phải đem đi chôn. Thế là hết cuộc đời.

Phần chúng ta, chúng ta tin có cuộc sống mai sau, cuộc sống đời đời.

Nếu không có cuộc sống mai sau thì cuộc sống đời này thật vô nghĩa.

Cha mời chúng con nghe câu chuyện này. Đây là câu chuyện giả tưởng nhưng nó cũng đem lại những giá trị hết sức đặc biệt cho mọi người.

Câu chuyện như thế này: Một lần kia một ông bác sĩ phụ trách sản khoa đã nói chuyện với một bào thai còn trong lòng mẹ. Ông bác sĩ nói:

– Bào thai ơi, thời gian trong bụng mẹ chỉ là giai đoạn sửa soạn, cuộc đời thực sự sẽ đến sau này trên trần thế. Đó là một cuộc đời mà ngươi chưa biết và không thể tưởng tượng ra được không?

Nghe vậy, bào thai liền nói:

– Thôi ông đừng có nói chuyện mê tín dị đoan. Cuộc đời trong bụng mẹ tôi là cuộc đời duy nhất mà tôi biết được lúc này, ngoài ra không còn cuộc đời nào khác nữa. Một cuộc sống ở nơi nào khác chỉ là điều bịa đặt của những kẻ cuồng tín.

Nhưng, suy nghĩ một hồi, bào thai liền thắc mắc:

– À nhưng mà tôi sẽ có mắt ở trên mặt. Để làm chi nhỉ? Ở đây đâu có gì để nhìn? Tôi sẽ có chân, nhưng tôi không có đủ chỗ để duỗi chân ra, vậy có chân để làm gì đây? Và tại sao tôi lại phải có tay? Có tay để cứ khoanh mãi như thế này ư? Tay làm phiền tôi và mẹ tôi. Sự tăng trưởng của tôi trong lòng mẹ sẽ thật vô nghĩa, nếu như sau này không có một cuộc đời với ánh sáng, màu sắc và nhiều điều khác nữa để tôi nhìn ngắm. Không gian mà cuộc đời khác của tôi sẽ sống chắc là vĩ đại lắm nhỉ? Chắc là tôi phải đi thật nhiều nên tôi mới cần có đôi chân? Chắc là tôi phải làm việc nhiều và chiến đấu cam go lắm, nên tôi mới cần có đôi tay? Bác sĩ nói đúng đấy! Chắc chắn phải có một cuộc đời khác nữa trên trần thế ở bên ngoài bụng mẹ tôi.

Hội Thánh dạy chúng ta rằng cuộc đời trên trần gian này không khác gì bào thai đang sửa soạn cho một cuộc đời thực sự sẽ đến sau này trên Nước Trời.  Cũng như mắt, chân và tay của bào thai sự khôn ngoan dành cho cuộc đời sắp đến. Sự phát triển của con người trong cuộc đời này chứng minh cho một cuộc đời mai sau.

2. Và đây là vấn đề thứ hai: Giữa cuộc sống hôm nay và cuộc sống đời sau có một mối giây liên hệ mật thiết với nhau.

Cha Walter Ciszet đã trải qua 23 năm trong ngục tù và các trại lao động bên Nga. Tình cờ ngài được phóng thích và trở về quê hương ở Mỹ. Cuốn sách của Cha: Ngài dẫn đưa tôi mô tả niềm tin sâu sắc vào cuộc sống vĩnh cửu rực cháy trong tâm hồn những người Nga bình dị. Bao nhiêu thập kỷ tuyên truyền chủ nghĩa vô thần bằng phương tiện truyền thông đại chúng, rồi bao nhiêu năm chế độ đó nắm chính quyền cũng không thể xóa được niềm tin trong tâm hồn họ.

Điều gì thuyết phục tôi rằng có đời sau? Điều gì cản trở tôi sống phù hợp với niềm tin của tôi?

Nếu hạt giống rơi vào đất đen có thể trở thành bông hồng đẹp đẽ thì tâm hồn con người sẽ trở thành cái gì trong cuộc hành trình đến với sự sáng (Gilbert K. Chesterton) (Trích “Viễn tượng 2000”).

Nhà minh giáo lừng danh Hettinger một hôm đi dạo trên cánh đồng, đã gặp một đứa bé đi học, Ngài vừa đi vừa đặt nhiều câu hỏi để xem đứa bé có biềt gì về giáo lý hay không. Khi hỏi những người giàu có được vào nước trời không thì em bé trả lời:

– Được, nếu họ giúp đỡ những người nghèo.

Vị linh mục lại hỏi người nghèo có có được vào thì em bé trả lời:

– Được, nếu họ biết nhẫn nại chịu đựng những đau khổ và thánh giá của họ.

Hettinger thích nhắc lại những câu trả lời này của đứa bé và Ngài thêm rằng: “Những lời đó chứa đựng một triết lý, triết lý của thánh giá”. Không có thánh giá, tức là không có khốn cực và đau khổ, thì không có hạnh phúc thật ở đời này, và không có sự cứu rỗi ở đời sau.

Có một ông vua rất yêu chuộng sự khôn ngoan. Nhà vua cho triệu tập tất cả những nhà thông thái trong cả nước đến và nói:

– Ta biết rằng người khôn ngoan tìm kiếm sự thật và luyện tập nhân đức để được trường thọ và hạnh phúc. Nay Ta yêu cầu các ngươi hãy triệu tập và sưu tầm các sách khôn ngoan trong nước. Tất cả các sách dạy sống tốt lành, hữu ích và được các thần ưu đãi khi đã về cuối đời.

Vâng lệnh vua, các nhà thông thái đi khắp các nơi trong nước và ngoài nước để thu thập tài liệu. Sau thời gian tìm kiếm, họ đã dâng lên vua 100 cuốn sách chứa đựng những điều khôn ngoan, cần thiết và yêu thương. Nhà vua ngạc nhiên nhìn những quyển sách và nói:

– Nhiều quá, các ngươi hãy mau tóm tắt những điều quan trọng trong mỗi cuốn sách. Ta muốn học thật mau lẹ những điều khôn ngoan để đạt tời hạnh phúc thật.

Sau nhiều năm, những nhà thông thái trở lại triều đình đem mười quyển đã tóm tắt lại trong 100 quyển. Nhưng nhà vua vẫn chưa hài lòng và ra lệnh họ phải tóm gọn lại nữa các sách vì vua không có thì giờ đọc sách. Hơn nữa vua cũng già cũng gần đất xa trời. Ngày tháng trôi qua họ vẫn chưa thâu tóm lại trong mười quyển sách. Một hôm họ báo tin cho vua có một nhà thông thái cưỡi lạc đà từ Phương Đông tới xin gặp vua. Nhà thông thái tâu với vua:

– Muôn tâu chúa thượng, nếu chúa thượng muốn biết đâu là bí quyết sống hạnh phúc, làm hài lòng các thần ở đời này và đời sau, thì đây là bí quyết: “Yêu mến Thiên Chúa và yêu mến hết mọi người”. Nhà thông thái vừa dứt lời thì tại cửa đền vua xuất hiện một thánh nhân Chúa cũng gởi đến từ Phương Đông. Thánh nhân cũng trình bày với vua một bí quyết đạt tới khôn ngoan và hạnh phúc, còn ngắn gọn hơn câu của nhà thông thái trước:

Tâu chúa thượng, nếu muốn được cứu thoát và sống hạnh phúc thì hãy yêu thương đồng loại, rồi chúa thượng sẽ được Thiên Chúa yêu mến.

Yêu người là gồm tóm mọi lề luật và mọi bí quyết khôn ngoan để được cứu thoát và sống đời đời. Ở đâu có một người, ở đó có Thiên Chúa. Ở đâu có đứa trẻ khóc trong bóng tối ở đó có Chúa. Ở đâu có người già bị bỏ rơi, có sự khao khát công lý chân chính, ở đó có Chúa.

Lạy Chúa là nguồn tình yêu và hạnh phúc và là sự sống đời con. Con tin Chúa, Chúa đã phục sinh khải hoàn, đã toàn thắng sự chết và mở cửa thiên đàng và hạnh phúc trường sinh cho toàn thể nhân loại. Xin hãy mở mắt tâm hồn con để nhận biết Chúa trong họ, yêu mến và phục vụ Chúa qua họ. Vì đó là cách con yêu mến Chúa.

Chúng ta tiếp tục nói truyện với nhau về con đường hẹp của Chúa. Hôm nay chúng ta nói với nhau về vấn đề hơi tế nhị một chút. Vấn đề có liên quan đến tiền bạc.

I. Nói đến tiền bạc tự nhiên tôi nghĩ đến một câu châm ngôn của Pháp. “Tiền bạc là một người đầy tớ tốt nhưng là một ông chủ xấu”. Nếu không biết cảnh giác thì con người rất có thể bị tiền bạc chi phối và sai khiến…biến người có nó thành một tên nô lệ.

Thánh Antonio, là giám mục của vùng Firenze nước Ý vào khoảng thế kỷ thứ 15, có kể lại một câu chuyện mà ngài đã tận mắt chứng kiến trong đời mục vụ tông đồ:

Một hôm, ngài đang đi trên đường thì Thiên Chúa cho ngài thấy có một vị thiên thần cứ bay lượn bên trên một ngôi nhà nghèo nàn lụp xụp. Ngài ghé vào hỏi thăm cha sở vùng nay thì được biết gia đình ấy tuy rất nghèo nhưng lại rất đạo đức và tốt bụng, luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi người. Thánh Antonio động lòng thương, hiểu ra ý Chúa muốn soi sáng cho mình, ngài bèn trích quỹ từ thiện, kín đáo trợ cấp hàng tháng một số tiền vừa đủ để gia đình này có vốn liếng mà chí thú làm ăn cho đỡ nghèo khổ.

Bẵng đi một thời gian, ngài lại có việc đi qua vùng ấy. Ngài chợt giật mình trông thấy một tên quỉ xấu xa đang bay lượn trên mái một ngôi nhà khang trang đẹp đẽ nhất vùng. Ngài lại ghé vào cha sở để hỏi thăm, thì hóa ra đó chính là ngôi nhà của gia đình mà ngài đã từng trợ cấp lâu nay. Ngài biết họ đã cố gắng ăn nên làm ra, nhưng dần dần, vì tham lam, họ đã học đòi những thủ đoạn mánh khóe bất lương để làm giàu nhanh chóng, đời sống họ hoàn toàn vô đạo đức, trở nên ích kỷ và độc ác, khinh bỉ xua đuổi những người nghèo khổ láng giềng ngày xưa. Hiện tại họ lại còn thói ăn chơi trụy lạc.

Thánh nhân đau lòng quyết định cắt đứt nguồn trợ cấp, để mong họ sớm hiểu ra mà sám hối quay về đường ngay nẻo chính. Quả thật, của cải vật chất xa hoa dễ làm cho con người hư đi nếu sống mà xa đường lối của Thiên Chúa.

Trong bài Tin Mừng hôm nay chúng ta còn thấy vì tiền bạc, người ta còn có thể đánh mất cả phẩm giá làm người của mình.

Người quản lý trong bài Tin Mừng hôm nay không phải là người nghèo khó. Anh bị tiền bạc sai khiến và đã trở thành kẻ bất lương.

Người chủ trong bài Tin Mừng hôm nay cũng chẳng kém gì người quản lý bất trung của ông ta. Một người lương thiện làm sao mà dám mở miệng ca ngợi những hành vi bất chính. Quả đúng là cá mè một duộc.

II. Vậy thì chúng ta phải có thái độ thế nào đối với vấn đề tiền bạc?

Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa đưa ra những chỉ dẫn khá rõ rệt. Chúa bảo: “Hãy dùng tiền bạc”(Lc 16,9) – Dùng là sử dụng nó. Dùng chứ không tôn thờ nó. Hãy dùng nó như một phương tiện chứ đừng coi nó như một mục đích. Không biết dùng tiền bạc một cách chính đáng đẹp lòng Chúa, con người dễ trở thành ích kỷ chỉ nghĩ tới mình, mà không biết quan tâm đến những người chung quanh.

Có một chàng thiếu niên nọ học trường Mỹ Thuật vào phòng làm việc của một nhà danh họa người Pháp, đang lúc ông này đi vắng. Chàng thấy một người ăn mày ngồi làm mẫu cho hoạ sĩ vẽ. Động lòng trắc ẩn anh liền cho người này một quan tiền.

Người đó là ai? Té ra là Nam Tước Jacque de Rothschild. Nam Tước rất ưa mỹ thuật, nên bằng lòng ngồi kiểu kẻ ăn mày, vì họa sĩ bảo đầu Nam tước có cái vẻ đặc biệt lắm. Nam tước cầm đồng tiền và cám ơn chàng thiếu niên hào hiệp.

Khi họa sĩ trở về, Nam tước mới biết chàng thiếu niên đó là một sinh viên rất nghèo, nhưng giàu tài năng. Nam tước bèn gởi cho chàng một vạn quan, lại cắt nghĩa là đó là số lãi của món tiền chàng bố thí.

Sách châm ngôn 19,17: “Kẻ bố thí cho người nghèo là cho Giavê vay, Đấng sẽ trả lại việc lành”.

Hãy dùng tiền bạc mà mua lấy bạn hữu. (Lc 16,9). Biết dùng tiền bạc mà mua lấy bạn hữu chúng ta sẽ làm cho cuộc đời của chúng ta có được một điều rất quí giá trong cuộc sống này. Đó là một cuộc đời “có hậu” – Có hậu ngay trong cuộc sống hôm nay và còn có hậu cho cả cuộc sống đời đời mai sau như Chúa đã hứa.

George Horace Lorimer, chủ bút tờ Saturday Evening Post trong nhiều năm, có lần viết: “Có tiền và có những cái mua bằng tiền là tốt. Nhưng nếu biết dùng tiền và đừng để mất những thứ tiền không mua được còn tốt hơn”.

Mạnh Thường Quân nhà giàu có, cho vay mượn nhiều. Một hôm sai Phùng Hoan sang đất Tiết đòi nợ, lúc sắp đi, Phùng Hoan hỏi:

– Tiền nợ thu được có định mua gì về không?

Mạnh Thường Quân nói:

– Ngươi xem trong nhà ta còn thiếu thứ gì thì mua.

Khi đến đất Tiết, Phùng Hoan cho gọi dân làng lại bảo rằng:

– Các ngươi công nợ bao nhiêu, Thường Quân đều cho cả. Rồi đem văn tự ra đốt sạch.

Lúc về, Phùng Hoan thưa với Mạnh Thường Quân:

– Nhà tướng công châu báu đầy kho, chó ngựa đầy chuồng, người đẹp đầy nhà, không còn thiếu thứ gì nữa. Chỉ còn thiếu một cái “nghĩa”, tôi trộm phép vì tướng công đã mua về.

Mạnh Thường Quân nghe thấy nói thế, cũng không hỏi gì đến tiền nữa.

Sau Mạnh Thường Quân phải bãi quan về ở đất Tiết, dân đất Tiết nhớ đến ơn xưa ra đón rước đầy đường. Thường Quân bấy giờ mới ngoảnh lại bảo Phùng Hoan rằng:

– Trước tiên sinh vì tôi mua “nghĩa ” nghĩa ấy ngày nay tôi mới trông thấy.

Lời kết trong bài suy niệm hôm nay cũng là lời của Chúa: “Hãy trung tín trong việc sử dụng của cải” Trung tín trong việc sử đụng chúng ta làm cho cuộc đời của chúng ta “có hậu”, có hậu ngay ở đời này và còn có hậu cho cả đời sau của chúng ta . Amen.

Thiếu nhi chúng con yêu quí

1. Chúng ta vừa nghe một bài Tin Mừng rất hay của Chúa.

Cha đố chúng con, qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa muốn nói với chúng ta về vấn đề gì?

– Về vấn đề tiền bạc của cải trong cuộc sống.

– Về vấn đề phải sống cho khôn ngoan.

– Về vấn đề phải sử dụng những của cải Chúa ban như thế nào.

+ Rất tốt. Chúng con trả lời rất hay.

Bây giờ chúng ta bắt đầu vào câu chuyện.

Cha hỏi chúng con, nếu có thật nhiều tiền chúng con có vui không?

– Dạ vui.

+ Vì sao có tiền lại vui? Có tiền thì vui chứ sao. Vì tiền giúp chúng ta giải quyết được nhiều vấb đề của cuộc sống.

Chúng con có biết bài thơ này không? Đây là một bài thơ cha vô tình nhặt được ở sân nhà thờ Đức Mẹ Vô Nhiễm sau thánh lễ dành cho giới trẻ. Bài thơ như thế này:

Tiền là tiên là Phật

là sức bật của lò xo.

Là thước đo lòng người

Là nụ cười tuổi trẻ

Là sức khỏe của tuổi già

Tiền là hy vọng

Là cái lọng che thân

Là cán cân công lý

Tiền là hết ý.

Chà nghe hay quá! Tiền là hết ý.

Đúng là có tiền thì vui nhưng bên cạnh cái vui đó, cha lại cảm thấy sợ. Chúng con có biết tại sao cha lại sợ không.

Đây cha kể cho chúng con nghe câu chuyện này. Một câu chuyện có thật 100%. Câu chuyện xảy ra ở Mỹ, bang Texas.

Theo báo Weekly Wprld News mới đây thuật lại: tại bang Texas Mỹ, mọi người đã phải bàng hoàng vì một vụ án hết sức nhẫn tâm và vô nhân đạo. Bị cáo là một phụ nữ 32 tuổi có tên là Diana Lunberna. Trong 14 năm qua, bà đã lần lượt giết chết hết 6 đứa con dưới 5 tuổi của mình với một mục đích rất rõ rệt. Đó là để lãnh tiền bảo hiểm. Chuyện những đứa con của bà ta chết lúc đầu tưởng là chuyện thường tình chẳng mầy ai để ý nhưng có ngờ đâu là vừa qua, qua cái chết đứa con thứ sáu của bà, người ta mới phát hiện ra bà chính là thủ phạm đã gây ra những cái chết cho tất cả những đứa con từ 14 năm qua. Luật sư Johny Actkinson cho biết: “Lúc đầu, bà ấy tìm mọi cách để chối tội, nhưng sau khi cảnh sát đưa ra những bằng chứng xác đáng, bà đành thú nhận tất cả”.

Cuộc điều tra còn cho biết: trước khi thực hiện việc làm tán tận lương tâm này, bà Diana đều đã mua phiếu bảo hiểm cho chúng, ví dụ vào năm 1982 trước khi bé Melinda chết 1 ngày, bà đã bỏ ra 15.000 đôla để đóng tiền bảo hiểm với mục đích sẽ kiếm được nhiều tiền hơn.

Đó chúng con thấy. Chỉ vì ham tiền mà một người mẹ đã đang tâm giết các đứa con do chính mình sinh ra. Cha không thể tưởng tượng nổi thế giới hôm nay lại có một con người như thế. Chính vì thế mà cha sợ.

Trong bài Tin Mừng hôm nay chúng con thấy cũng chỉ vì tiền bạc, mà người ta đã  đánh mất cả phẩm giá làm người của mình.

Người quản lý trong bài Tin Mừng đâu phải là người nghèo khó. Nhưng ông bị đã bị tiền bạc sai khiến và đã trở thành kẻ bất lương.

Những người mắc nợ chủ cũng vì tiền bạc chi phối mà đã trở thành những kẻ đồng loã với tên quản gia gian lận

Ông chủ trong bài Tin Mừng hôm nay cũng vì tiền bạc mà làm một việc chẳng tốt đẹp chút nào khi dám mở miệng khen ngợi người quản lý bất trung của ông ta. Thật là cá mè một lứa!

2. Vậy thì Chúa muốn chúng ta phải làm thế nào?

Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa đưa ra những chỉ dẫn khá rõ rệt. Chúa bảo: “Hãy dùng tiền bạc”(Lc 16,9) – Dùng là sử dụng nó. Dùng chứ không tôn thờ nó. Hãy dùng nó như một phương tiện chứ đừng coi nó như một mục đích.

Đây là một người biết sử dụng tiền bạc như ý Chúa muốn:

Tiến sĩ  Marcello Candia đã dùng tất cả tài sản để xây một bệnh viện chăm sóc bệnh nhân nghèo và người phong cùi tại Amazone ở Ba Tây. Ông tâm sự :

– Khi còn ở  bậc trung học, tôi thuộc thành phần của nhóm trẻ được phân công đi thăm các gia đình nghèo. Một hôm thầy Cêciliô nhờ tôi phát thức ăn cho người nghèo. Trên tường nơi phòng ăn dành cho người nghèo có treo tấm hình của cha Daniele Samarate, một vị thừa sai của dòng Phanxicô đã chết vì bệnh cùi sau thời gian phục vụ thổ dân ở Ba Tây. Mỗi lần phát thức ăn cho người nghèo, tôi đều nhận ra hình ảnh đau khổ của Ngài. Dần dà hình ảnh đó quen thuộc đến nỗi trong bất cứ người nghèo nào, tôi cũng nhận ra hình ảnh  ấy. Từ đó tôi muốn phục vụ những người bệnh cùi.  Sau khi tốt nghiệp đại học, với tất cả tài sản gia đình để lại, tôi xây một bệnh viện phục vụ bệnh nhân nghèo và những người phong cùi. Đó là một người đã biết dùng tiền.

Nói đến đây tự nhiên cha nghĩ đến một câu châm ngôn của Pháp. “Tiền bạc là một người đầy tớ tốt nhưng là một ông chủ xấu”. Nếu không biết cảnh giác thì con người rất có thể bị tiền bạc chi phối và sai khiến…biến người có nó thành một tên nô lệ chỉ biết dùng tiền vào những việc ăn chơi. phô trương như nhiều người trong xã hội hôm nay. Hãy dùng tiền bạc mà mua lấy bạn hữu. (Lc 16,9). Biết dùng tiền bạc mà mua lấy bạn hữu chúng ta sẽ làm cho cuộc đời của chúng ta có được một điều rất quí giá trong cuộc sống này. Đó là một cuộc đời “có hậu” – Có hậu ngay trong cuộc sống hôm nay và còn có hậu cho cả cuộc sống đời đời mai sau như Chúa đã hứa.

Mẹ thánh Têrêsa Calcuta thuật lại: Trong công việc từ thiện của chúng tôi, có nhiều người chúng tôi gọi là Cộng sự viên  và chúng tôi thực sự muốn họ tiếp tay với chúng tôi để phục vụ và yêu thương những con người nghèo khổ. Tại Calcutta nầy, chúng tôi có nhiều người ngoài Thiên Chúa giáo và các anh chị em Thiên Chúa giáo cũng làm việc với chúng tôi tại ngôi nhà Hấp hối và những ngôi nhà bác ái khác. Chúng tôi cũng có những nhóm đi thay băng và phát thuốc cho người cùi.

Điển hình nhất là một người Úc, cách đây không lâu ông đã tới đây. Ông đã dâng cho chúng tô một gia tài lớn. Và sau khi đã dâng hiến tài sản lớn rồi. Ông nói:

– Đó là những của cải bên ngoài tôi, nhưng tôi còn muốn hiến những gì của chính bản thân tôi nữa.

Và bây giờ ông thường xuyên tới phục vụ nhà hấp hối. Ông hớt tóc, cạo mặt và trò chuyện với những người bị bỏ rơi nầy. Bây giờ ông không dùng thời giờ và sức lực của ông để phục vụ bản thân hoặc làm giàu nữa, nhưng ông muốn cho đi những gì của chính ông, và thực sự ông đang dâng hiến.

Cha muốn kết thúc bằng câu nói của George Horace Lorimer, chủ bút tờ Saturday Evening Post trong nhiều năm, ông viết: “Có tiền và có những cái mua bằng tiền là tốt. Nhưng nếu biết dùng tiền và đừng để mất những thứ tiền không mua được còn tốt hơn”.

Cha chúc chúng con sống đẹp như ý Chúa muốn để xứng đáng với tình thương Chúa ban cho chúng ta mỗi ngày. Amen.

Chúng ta tiếp tục nói với nhau về con đường hẹp của Chúa. Hôm nay tôi muốn nói về một đặc tính được ngôn ngữ loài người nói đến rất nhiều trong cuộc sống hằng ngày: Đó là tình yêu. Tình yêu của một người muốn theo Chúa.

1. Chúa muốn nói gì với chúng ta qua bài Tin Mừng hôm nay? Ngài muốn nói với chúng ta về những nguyên do, những động lực làm cho con người có thể lìa xa Chúa rồi sau đó Chúa cũng muốn cho chúng ta hiểu được lòng yêu thương của Ngài như thế nào.

Con người có thể lìa xa Chúa vì dại dột.

100 con chiên. 99 con lúc nào cũng đi theo chủ. 99 con lúc nào cũng đi theo đàn. Chỉ có một con. Tỉ lệ thật ít: 1/99. Một con tự tách đàn và không theo chủ.

Khi tách đàn có thể nó nghĩ rằng nó sẽ được tự do hơn, thoải mái hơn, được hưởng trọn vẹn những mảng cỏ xanh hiếm hoi trong mảnh đất khô chồi, khỏi chen nhau bên dòng nước hiếm hoi. Thế nhưng nó có ngờ đâu là bao nhiêu nguy hiểm muông sói, thú dữ đang rình chờ. Chỉ cần một sơ sót là mạng sống của nó có thể bị lâm nguy ngay.

Đó là trường hợp thứ nhất.

2. Có những người lìa xa Chúa vì sự bất cẩn của người khác.

– Khác với con chiên, đồng tiền là vật vô tri vô giác. Người đàn bà chỉ có 10 đồng tiền bị lạc mất một đồng. Tỉ lệ 1/10. Lý ra thì bà phải giữ  gìn cẩn thận. 10 tuy nhỏ không có là bao so với những người giầu có, nhưng với một người nghèo thì nó là một cái gì thật quí giá. Vậy mà vì thiếu cẩn thận mà bà đã để mất 1 đồng. Mất 1/10 những gì mình có quả thực cũng là nhiều lắm.

– Hãy nhìn vào cuộc sống hôm nay. Có biết bao nhiêu người – đặc biệt là các thanh thiếu niên – đã lạc xa Chúa để rồi sau đó bị sa lầy, bị mắc kẹt vào đủ mọi thứ tệ nạn của xã hội. Thật là đau lòng!

3. Có những người cố tình xa lìa Chúa.

Khác với con chiên xa lìa đàn, xa chủ vì dại dột, khác với đồng tiền bị lạc mất vì bất cẩn, việc người con thứ trong dụ ngôn thứ ba trong bài Tin Mừng hôm nay lìa bỏ nhà ra đi, xa nhà, xa người cha đầy lòng yêu thương mình là một chọn lựa có tính toán, có suy nghĩ thật cẩn thận.

– Xã hội hôm nay cũng có rất nhiều người ở vào trường hợp tương tự như thế. Nhiều người tưởng có tiền có bạc là có tất cả. Có tiền mua tiên cũng được. Thế nhưng cuộc sống thực tế lại không như vậy.

II. Thái độ của Chúa.

Chúa không trực tiếp cho biết thái độ của Ngài. Thái độ của Chúa rất đặc biệt, khác hẳn với những thái độ thông thường trong cuộc sống đời thường hằng ngày của con người chúng ta.

1. Trong cuộc sống đời thường, khó mà chúng ta có thể tìm thấy được một người chăn chiên nào lại mà khờ khạo đến nỗi dám để 99 con chiên của mình giữa hoang địa làm mồi ngon cho thú dữ để đi tìm một con chiên lạc như vậy.giả sử như có liều lĩnh mà làm như thế đi nữa thì khi tìm được rồi chắc chắn cũng chẳng có thể lại quá vui mừng mà “vác chiên trên vai, đi về mở tiệc ăn mừng” như trong dụ ngôn nói.

Người phụ nữ có 10 đồng không may bị mất một đồng cũng vậy.

Còn người cha trong một gia đình cũng thế làm gì mà lại có chuyện quá dễ dàng thỏa mãn một cách hầu như mù quáng trước sự đòi hỏi của một một đứa con ngông cuồng như dụ ngôn mô tả. Hơn nữa giả sử như người cha ấy quá tốt lành và đã làm như vậy thì liệu khi đứa con đó sau khi đã phung phí hết tài sản của mình rồi lê tấm thân tàn tạ trở về … liệu việc đó có xứng đáng để phục hồi quyền lợi cho nó một cách quá nhanh chóng cũng như phải tổ chức tiệc tùng ăn mừng như thế hay không? Chắc là trong cuộc sống đời thường chúng ta khó mà có thể chấp nhận được điều đó.

Trong cuốn sách tựa đề “Niềm vui sống đạo thế kỷ 21”, Đức cố Hồng Y  F.X Nguyễn Văn Thuận nói: Chúa Giêsu không biết làm toán vì Chúa bỏ 99 con còn lại đấy, để đi tìm cho kỳ được con chiên đã mất. Coi một hơn 99 thì hẳn là Chúa Giêsu không biết làm toán rồi.

Thứ đến Đức cố Hồng Y F.X Nguyễn Văn Thuận còn bảo: Chúa Giêsu kém trí nhớ. Trong Phúc âm kể nhiều câu chuyện chứng minh điều đó. Ví dụ bà Maria Madalena, ông Giakêu, người trộm lành, v.v… Ở đây chỉ đan cử nguyên ngụ ngôn người cha nhân từ trong Phúc Âm hôm nay thì rõ. Người con thứ đòi chia gia tài, bỏ nhà ra đi sống đời phóng đãng, quên cha quên anh. Đến khi tiêu hết tiền, gặp đói thì mới quay về nhà thú lỗi mong cha già xét tình cha con mà tha thứ. Người cha không kể đến tội cũ, chỉ trông chờ con, khi thấy con đàng xa thì chạy ra đón. Con có thú tội cũng không cố nghe để hạch tội cũ mà ra lệnh lấy áo mới, giày tốt, nhẫn quý đeo cho, rồi làm thịt bê béo ăn mừng. Chúng ta thấy trí nhớ của Chúa Giêsu dường như không làm việc nữa. Ngài quên hết, quên vô điều kiện, quên tức khắc tất cả quá khứ không hay không tốt của ta mỗi khi chúng ta trở về với Ngài. Ngài chỉ nhớ rằng mỗi người chúng ta là con Cha Ngài, là em Ngài thôi.

2. Quả thật là khó mà tìm thấy trong đời thường những hình ảnh như một người cha, như một chủ chiên, như người đàn bà trong những dụ ngôn hôm nay. Thế nhưng chính từ trong cái nghịch thường của những câu chuyện Chúa  đưa ra mà chúng ta lại dễ nắm bắt được ý của Chúa qua bài Tin Mừng hôm nay hơn. Rất nghịch thường nhưng qua đó chúng ta dễ hiểu được tình yêu theo kiểu của Chúa là tình yêu như thế nào!

Đó là một tình yêu so đo tính toán.

Đó là một tỉnh yêu không ngại vất vả hy sinh.

Đó là một tình yêu sẵn sàng khoan dung tha thứ.

Có một câu chuyện mà người Do Thái thường truyền tụng cho nhau như một giai thoại về Môsê như thế này:

Lúc còn lẩn trốn trong sa mạc, có lần Môsê gặp một người mục tử ngoại giáo trẻ. Ông đã trò chuyện với anh ta suốt cả ngày. Khi trời tối, Môsê thấy anh ta làm một điều hơi lạ thường. Anh ta lấy sữa đổ vào một bình da và đặt ngoài trời cách căn lều của mình một khoảng xa. Thấy Môsê thắc mắc về cử chỉ này, người mực tử liền giải thích:

– Tôi luôn luôn lựa thứ sữa hảo hạng để dâng lên Thiên Chúa.

Moise là một người vừa được Giavê Thiên Chúa hiện ra với ông trước đó vài ngày, Môsê cảm thấy không thể chịu đựng được một cử chỉ mà ông cho là dị đoan như thế. Suy nghĩ một chút, ông liền nói với người mục tử:

– Anh không biết rằng Thiên Chúa là thần linh và Ngài không bao giờ uống sữa sao?

Nhưng người mục tử vẫn không thay đổi tư tưởng, mặc cho Môsê có muốn giải thích thế nao thì giải, anh ta vẫn tiếp tục lấy sữa cho vào bình da để dâng lên Thiên Chúa như anh ta suy nghĩ. Thấy Moise có vẻ khó chịu, anh ta giải thích lý do:

– Ngài có lý. Quả thực Thiên Chúa không cần đến sữa của tôi. Tôi vẫn biết rằng đêm đến, có một con thú nào đó đã đến uống hết bình sữa của tôi. Tôi biết điều đó. Nhưng chúng là tạo vật của Chúa. Chúng cũng được Chúa yêu thương. Và sở dĩ tôi làm như thế, thưa ngài, vì đó là điều duy nhất mà tôi có thể dâng lên Thiên Chúa để bày tỏ tình yêu của tôi.

Vâng. yêu những gì Chúa yêu, làm những gì Chúa đã làm, đó là cách tốt nhất để được trở thành môn đệ của Chúa. Amen.

Thiếu nhi chúng con yêu quí,

Chúng ta vừa nghe một bài Tin Mừng thật dài. Cha đọc cha cũng thấy mệt nghỉ luôn. Thế nhưng phải đọc cả ba dụ ngôn chúng ta mới thấy được ý nghĩa đầy đủ của vấn đề Chúa muốn nói.

Vậy Cha đố chúng con với ba dụ ngôn vừa nghe, Chúa muốn dạy mọi người điều gì?

– Chúa muốn nói đến sự yêu thương.

– Chúa muốn nói đến sự tha thứ.

+ Đúng nhưng chưa đủ.

Nào còn ai trả lời thêm nữa không?

……….

Riêng đối với cha hôm nay, cha tưởng Chúa muốn nói đến những điều kiện làm nên tình yêu thương.

Bây giờ chúng ta hãy đi vào chi tiết:

1. Với dụ ngôn con chiên lạc Chúa muốn nói với chúng ta yêu thương thì không có tính toán hơn thiệt.

2. Bằng dụ ngôn đồng bạc bị lạc mất, Chúa bảo yêu thương thì không ngại vất vả cực nhọc.

3. Quan trọng nhất với dụ ngôn người cha nhân hậu, Chúa muốn nhấn mạnh đến điều này: Yêu thương thì phải biết tha thứ.

A. Bây giờ cha mời chúng con nhìn lại cả ba bài dụ ngôn. Nhìn lại chúng con sẽ thấy gì?

Trước hết trong cuộc sống hằng ngày của đời thường, chúng ta khó mà có thể tìm thấy được một người chăn chiên nào lại mà khờ khạo đến nỗi dám để 99 con chiên của mình giữa hoang địa làm mồi ngon cho thú dữ để đi tìm một con chiên lạc như vậy.giả sử như có liều lĩnh mà làm như thế đi nữa thì khi tìm được rồi chắc chắn người ta cũng chẳng có thể lại quá vui mừng mà “vác chiên trên vai, đi về mở tiệc ăn mừng” tốn kém như dụ ngôn nói. Thế nhưng khi yêu thương thì hoàn toàn khác. Khi yêu thương thì chẳng bao giờ tính toán hơn thiệt.

Đây chúng con nghe câu chuyện này:

Một hôm chiếc máy giặt nói với cái áo chùng thâm như thế này:

– Tôi thật không hiểu chủ nhân của anh vất vả với dân làm gì? Ông cứ ngồi toà, giảng đạo, thăm kẻ liệt. Rồi đâu vẫn hoàn đấy. Dân vẫn tội lỗi, dơ bẩn, ngay cả anh cũng bị lem luốc vì họ.
Áo chùng thâm trả lời :

– Nhưng rồi chị sẽ vẫn làm cho tôi sạch chứ? Và chị có vinh dự về công dụng của mình, có hãnh diện với người chế tạo ra chị không?

– Dĩ nhiên rồi, chúng tôi sẽ phục vụ anh dù biết rằng anh sẽ trở lại đây trong dơ bẩn, chúng tôi đủ kiên nhẫn cho tới ngày anh rách nát hay biến tan khỏi cõi đời này, trừ khi anh không cần đến chúng tôi nữa
Áo chùng thâm gật đầu:

– Chị giống như vị linh mục chủ nhân của tôi và người kỹ sư chế tạo ra chị, chúng ta có thể tạm sánh họ với Thiên Chúa.

– Chị nghĩ rằng các Ngài kém kiên nhẫn hơn chị sao?

– Ở đâu còn sự dơ bẩn, ở đấy vẫn cần người tẩy sạch để cho đời đẹp hơn trong tình thương.

– Chị thương tôi và chị chỉ ngồi đợi, còn các Ngài thương những người tội lỗi dơ bẩn và đã đi tìm. Tấm lòng của các Ngài là như thế, chắc chị đã thấy?

Tiếp đến, người phụ nữ có 10 đồng không may bị mất một đồng cũng vậy. Cha tưởng có lẽ bà cũng không đến nỗi phải tìm kiếm vất vả quá như thế. Hơn nữa khi tìm được rồi thì cũng chẳng đến nỗi phải quá vui đến mức độ đi mời bạn bè đến để chia vui vì đã tìm thấy một đồng bạc đã mất.

Lẽ thường thì là như vậy, nhưng khi yêu thương sẽ không phải là như thế. Khi yêu thương thì mọi sự sẽ khác hẳn.

Đây chúng con nghe một đoạn nhật ký của một sinh viên: Vào một buổi sáng mùa đông, tuyết rơi nặng hạt. Tôi đứng ở một góc phố tối và lạnh lẽo chờ chuyến xe buýt đầu tiên trong ngày. Cách chỗ tôi đứng không xa, có hai vợ chồng ông cụ cũng đứng chờ xe buýt, chiếc áo khoác ngoài của họ bị tuyết phủ trắng xóa. Xem ra, họ đứng đợi xe đã khá lâu. Cuối cùng chiếc xe buýt cũng đến. Người lái xe bấm còi, đi lướt qua chỗ hai vợ chồng ông cụ rồi dừng lại chỗ tôi đang đứng. Khi tôi vừa bước lên xe, người tài xế đã cho xe chạy, bỏ lại hai vợ chồng ông cụ đứng trong tuyết. Tôi tức giận hỏi:

– Chẳng lẽ cậu không nhìn thấy hai vợ chồng ông cụ đó sao?

Người lái xe trẻ tuổi ấy nói:

– Hôm nay là ngày đầu tiên tôi đi làm. Hai cụ già đó là bố và mẹ tôi. Họ đến đây để xem tôi làm việc như thế nào.

Tôi bỗng rưng rưng xúc động.

Vâng! Nếu không vì yêu thương thì hai ông bà già đã chẳng phải vất vả như vậy.

Cuối cùng, người cha trong một gia đình! Với bối cảnh của xã hội Do thái lúc đó một thì người cha của gia đình là một người tượng trưng cho uy quyền và lề luật, làm gì mà lại có truyện quá dễ dàng thỏa mãn một cách hầu như mù quáng trước sự đòi hỏi của một một đứa con ngông cuồng như dụ ngôn mô tả. Hơn nữa giả sử như người cha ấy quá tốt lành và đã làm như vậy thì liệu khi đứa con đó sau khi đã phung phí hết tài sản của mình rồi lê tấm thân tàn tạ trở về … liệu việc đó có xứng đáng để phục hồi quyền lợi cho nó một cách quá nhanh chóng cũng như phải tổ chức tiệc tùng ăn mừng như thế hay không? Làm như thế có khác gì khuyến khích, cổ võ thêm tội ác? Chắc là trong cuộc sống đời thường chúng ta khó mà có thể chấp nhận được điều đó.

Có phải đúng như thế không chúng con?

Quả là đúng như thế! Quả thật là khó mà tìm thấy trong đời thường những hình ảnh như một người cha, như một chủ chiên, như người đàn bà trong những dụ ngôn hôm nay. Thế nhưng chính từ trong cái khác thường không giống ai của những câu chuyện Chúa đưa ra mà chúng ta lại dễ nắm bắt được ý của Chúa qua bài Tin Mừng hôm nay hơn. Rất khác thường nhưng qua đó chúng ta dễ hiểu được tình yêu theo kiểu của Chúa là tình yêu như thế nào!

B. Vâng! Lòng yêu thương của Chúa thật lạ lùng, nhiều khi chúng ta không thể hiểu nổi.

Thánh Irênê đã viết một câu thật đáng cho chúng ta suy nghĩ: “Sự sống của con người là vinh quang của Chúa”

Một trong những câu chuyện dân gian hay nhất ở vùng cận Đông còn truyền tụng lại là câu chuyện về ông Abraham:

Abraham là người rất tốt bụng. Ông thường dời bữa ăn sáng lại chờ đến khi có một người đói đến để cùng chia sẻ bữa ăn với ông. Một ngày nọ, có một cụ già đi ngang qua và được ông mời vào và được dùng bữa.

Nhưng trước khi dùng bữa, Abraham nghe thấy cụ già thì thầm đọc lời kinh của người ngoại đạo, ông liền mời cụ già đi nơi khác. Cụ già chưa đi khuất, thì Abraham nghe tiếng Chúa trách:

– “Abraham! Abraham! Ta đã cung cấp lương thục để nuôi sống cụ già trên 80 năm qua, mặc dù cụ không phải là người tin thờ Ta, thế mà con không đủ kiên nhẫn và nhân từ để chia sẻ một bữa ăn với cụ sao?”

Chúng con yêu quí.

Cha vừa nói cho chúng con về Tình yêu theo kiểu của Thiên Chúa.

Khi đã yêu thì sẽ không còn so đo tính toán.

Khi đã yêu thì sẽ không còn ngại vất vả hy sinh.

Khi đã yêu thì sẵn sàng sống khoan dung tha thứ.

Cha chúc chúng con biết yêu thương như Chúa để chúng con được xứng đáng với tình yêu Chúa dành cho chúng con. Amen.

Kính thưa anh chị em

Hôm nay chúng ta lại tiếp tục suy niệm về con đường hẹp của Chúa. Tôi muốn nói đến sự hy sinh quên mình trên con đường theo Chúa.

I. Chúng ta hãy nhớ lại một chút về hoàn cảnh của bài Tin Mừng hôm nay .

            Hôm đó có rất nhiều người cùng đi đường với Ðức Giêsu. Tin Mừng không cho chúng ta biết họ theo Chúa vì động lực nào. Nhưng căn cứ vào những gì Chúa nói sau đó thì chúng ta có quyền bảo rằng chắc là họ theo Chúa vì những động lực không được trong sáng cho lắm cho  nên chúng ta mới thấy Chúa quay lại nói họ.

Những lời Chúa thật quyết liệt.

“Không thể làm môn đệ ta” – Chúa nhắc đi nhắc lại  đến ba lần câu đó

“Không thể làm môn đệ ta nếu không từ bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống của mình”

“Không thể làm môn đệ ta nếu không vác thập giá mình hằng ngày mà theo ta”

“Không thể làm môn đệ ta nếu không từ bỏ hết những gì mình có ”

Tiến sĩ Morgan khi chú giải đoạn Tin Mừng này đã viết rất hay như sau: “Kẻ nào theo Chúa Giêsu mà không đặt tấm lòng trung thành của mình đối với Chúa cao hơn tất cả những tình yêu trần thế dù là những tình yêu cao thượng nhất, đẹp đẽ nhất thì không thể theo Ngài được”

Vâng! Chẳng có ai có thể đi một lúc trên hai con đường.

Cuộc sống luôn đặt con người trước những lựa chọn mà chẳng lựa chọn nào mà lại không đòi hỏi phải từ bỏ.

2. Thế nhưng tại sao mà Chúa lại đòi hỏi như vậy?

Trước hết vì Ngài là Đấng tuyệt đối. Chúa không muốn cho bất cứ một giá trị nào được đặt ở trên Ngài. Ngài là giá trị tuyệt đối mà con người phải đi tìm. Trong nhiều đoạn Tin Mừng khác chúng ta đã thấy Chúa nói với chúng ta điều đó.

Tiền bạc, của cải là một giá trị. Cha mẹ, vợ con, gia đình là giá trị cao hơn. Đó là giá trị tinh thần.

Mạng sống là giá trị còn cao hơn nữa. Vì nó là phần cao quí nhất mà Thiên Chúa ban cho con người

Thế nhưng trước một giá trị tuyệt đối thì mọi giá trị tương đối phải nhường chỗ. Cho nên tuy dù những giá trị trên có cao quí đến thế nào đi nữa thì khi cần con người cũng phải hy sinh.

Đó là lý do thứ nhất.

Lịch sử Giáo hội đã chúng ta thấy được rất nhiều tấm gương về vấn đề này.

Các tông đồ là những bằng chứng trước hết. Các ngài đã bỏ tất cả để đáp lại lời mời gọi của Chúa để rồi chính nhờ các ngài mà sứ mạng cứu chuộc của Chúa được tiếp tục.

Nếu không có những con người dám từ bỏ danh vọng, của cải, mạng sống như Phanxicô khó khăn, như Đaminh, như Ignatio, như Phanxicô Xaviê, hay như các thánh vị thánh khác thì, làm sao Giáo hội có được khuôn mặt như ngày hôm nay.

2. Đàng khác qua hai thí dụ Chúa đùng trong bài Tin Mừng hôm nay:

– Thí dụ thứ nhất Chúa nói về việc xây dựng.

– Thí dụ thứ hai Chúa nói về việc giao chiến.

Chúa đã cũng muốn nói với mọi người về công việc tại thế của Ngài: Chúng ta nhớ lại hôm ấy tại miền Cesar thuộc quyền Philipphe, trong một khung cảnh rất linh thiêng, sau khi Phêrô vừa tuyên xưng Chúa là Đấng Cứu thế Con của Thiên Chúa, thì Chúa đã tiết lộ cho các tông đồ biết kế hoạch sắp tới của Ngài như thế này: Thầy sẽ xây Giáo hội của Thầy….và Chúa quả quyết và cửa hỏa ngục cũng không thắng được.

Mục tiêu Chúa nhắm rất rõ ràng: Chúa đến để xây. Ngài sẽ xây Giáo hội của Ngài, xây trên tảng đá Phêrô. Và trong quá trình đưa công trình xây dựng đến chỗ hoàn thành chắc chắn sẽ có rất nhiều khó khăn cần phải chiến đấu để vượt qua. Đây là công việc đòi hỏi rất nhiều sự hy sinh và lòng trung thành.

Muốn thành công phải biết tính toán trước một cách khôn ngoan. Nếu không thì công trình khó mà thành tựu và thay vì chiến thắng nhất định sẽ là chiến bại.

Vậy thì trong cương vị là chủ của một công trình Chúa cần có những người cộng tác với Ngài.

3. Nhưng ai là những người đáng được Chúa tin cậy?

* Chắc chắn không phải

– Là những người đi theo Chúa để xem xem Chúa là AI. Đó là đám đông những người theo Chúa vì tò mò. Họ theo đó rồi bỏ đó. Những người này chẳng có ích gì cho công trình của Chúa cả.

– Cũng không phải là những người theo Chúa vì những lý do vật chất. Chúa bảo những người đó chỉ theo Ngài vì vái bụng của họ. Những người như thế chẳng có ích gì cho công trình xây dựng của Chúa. Có họ thì công trình của Chúa không những sẽ không tiến bộ mà còn có thể bị chậm trễ thêm. Những người làm việc chỉ với mục đích để thủ lợi không xứng đáng có mặt trong công trình của Chúa.

– Cũng không phải là những người theo Chúa để lợi dụng Chúa hầu thỏa mãn những ý đồ đen tối của mình. Đây là những con người chỉ đến để phá hoại chứ không phải là xây dựng. Trường hợp của Giuda Iscario là một thí dụ điển hình.

* Vậy thì họ là những ai?

– Thưa là những con người biết tuyệt đối tin tưởng vào Chúa. Trường hợp này, Phêrô là khuôn mặt tiêu biểu. Sau câu chuyện về bánh hằng sống, lúc mà những người muốn bỏ Chúa đã ra đi, Chúa quay lại nhóm 12 và hỏi: “Còn chúng con, chúng con có bỏ đi không?” Phêrô đại diện cho các bạn để thưa với Chúa: “Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai. Thầy có lời ban sự sống đời đời”

Trong cuộc nói chuyện với giáo sư S.F.B. Morse (1791-1872, nhà vật lý Hoa Kỳ), người sáng chế máy điện báo, một tu sĩ đã hỏi ông:

– Thưa giáo sư, trong quá trình thí nghiệm khó khăn tại phòng thí nghiệm, có khi nào giáo sư cảm thấy bế tắc, không biết làm gì nữa không?

– Ồ, có chứ. Và rất nhiều lần.

– Những lúc ấy giáo sứ làm thế nào?

– Thưa thầy, thú thật là tôi làm một việc mà công chúng không biết. Đó là tôi cầu xin Chúa soi sáng trí khôn tôi.

– Và ánh sáng có đến chăng?

– Thưa có đến chứ. Tôi nói cho thầy biết là tôi đã nhận được rất nhiều phần thưởng, rất nhiều danh dự đến từ Châu Âu, Châu Mỹ qua các công trình sáng tạo của tôi, nhưng tôi cảm thấy mình chưa xứng đáng. Tôi đã áp dụng nhiều về điện lực, không phải vì tôi giỏi giang hơn người khác, mà chỉ bởi vì Chúa muốn trao ban cho nhân loại, nên Chúa đã soi sáng trí khôn cho nhiều người, trong đó có tôi.

Ông Morse nhớ ơn Chúa đến thế, cho nên chúng ta không lấy làm lạ là bức điện đầu tiên đánh đi trên máy điện báo ông chế tạo là: “Chúa đã làm biết bao điều lạ”. Vâng phải biết tin tưởng vào  Chúa thì mới có thể làm việc cho Chúa được.

– Hứ đến, họ còn là những người dám hy sinh vì Chúa.

Lúc gần đến ngày phải đối diện với cây Thập giá, Chúa hỏi Giacôbê và Gioan: “Chúng con có uống được chén đắng mà Thầy phải uống không?”

Giacôbê thưa lại: “Dạ được”.

Đúng như ông nói. Ông là tông đồ đầu tiên đã dám đổ máu ra vì Chúa.

Tông đồ Phaolô sau này cũng đã qủa quyết: “Tôi sẵn sàng chịu mọi sự vì Danh Đức Giêsu Kinh Kitô.”

– Họ còn là những người luôn gắn bó với Chúadám liều mạng vì Ngài. Madalena xứng đáng tiêu biểu cho những con người thuộc loại này. Sau khi Chúa chết và được an táng trong mồ, hầu như tất cả những người có liên hệ với Chúa còn bị bao trùm trong cơn sợ hãi, vậy mà ngay từ lúc sáng tinh sương của ngày đầu tuần Maria có mặt bên mộ Chúa, Thầy chí thánh của mình, thật là quả cảm và anh hùng.

Ước gì những hy sinh hằng ngày của chúng ta là những viên đá sống động, không phải chỉ để xây dựng nên một ngôi nhà trần thế, mà còn là làm nên một Giêrusalem mới, một Thiên Đàng của Chúa ở ngay trên cõi đời này của chúng ta. Amen

Thiếu nhi chúng con yêu quí,

Chúng ta vừa nghe một đoạn Tin Mừng với những lời lẽ không được êm dịu cho lắm. Đây cha nhắc lại cho chúng con nghe một lần nữa.

Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được.”(Lc 14,26)

“Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được”(Lc 14 27).

“Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được”(Lc 14,32).

Cha đố chúng con qua những lời như thế Chúa muốn nói với chúng ta điều gì?

– Chúa muốn bảo theo Chúa thì phải từ bỏ.

– Chúa muốn nói theo Chúa thì phải vác thánh giá.

+ Rất đúng! Hay nói một cách khác gọn nhẹ hơn, chính xác hơn đó là phải hy sinh. Muốn theo Chúa thì phải hy sinh. Sự hy sinh được cụ thể qua việc từ bỏ và vác thánh giá.

1. Trước hết Chúa đòi chúng ta phải từ bỏ.

Tại sao thế? Chúng con thấy cuộc đời của Chúa đã là như thế.

Chúa từ bỏ cuộc sống trên trời để xuống thế làm người,

Đời sống của Chúa nơi trần thế cũng là đời sống từ bỏ mọi sự. Chúa đã từng nói: “Con cáo có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ tựa đầu”.

Đến mạng sống của Chúa, Chúa cũng hy sinh luôn, hy sinh trong đau thương và đầy nhục nhã. Chúng con đã thấy điều đó.

Chính vì thế mà Chúa muốn những người theo Chúa cũng phải như vậy. Làm môn đệ là phải từ bỏ đến tận cùng.

Từ bỏ đến cùng, là từ bỏ đến cả những gì riêng tư nhất của mình. Từ bỏ chính cái tôi của mình.Có từ bỏ như thế chúng ta mới không còn bị dính bén với mọi thừ trong cuộc đời rối mới cọ tự do để theo Chúa.

Cha mời chúng con nghe câu chuyện sau đây:

Trong sách Sự tích của thánh Antôn tu rừng, người ta đọc được câu chuyện này:

Một hôm có người đến muốn xin làm môn đệ của Ngài, Ngài hỏi:

– Ở ngoài thế gian con làm nghề gì?

– Thưa con làm nghề đan thúng.

– Vậy con cũng hãy đan cho cha một cái thúng.

Đan xong, đem dến cho Ngài. Ngài xem tới xem lui rồi dạy tháo ra.

Hôm sau Ngài cũng dạy như thế – Người đó đem về đan.. rồi đem đến .. rồi cũng lại phải tháo ra.

Bữa thứ 3 Ngài cũng dạy y như thế ……rồi lại cũng cố làm … khi đem lại Ngài cũng lại bảo tháo ra. Anh ta bực mình cho là làm mất thời giờ vô ích. Lúc đó thánh Antôn mới nói:

– Hỡi con, con hãy về nhà con đan thúng và làm tôi Chúa như những người khác – Còn việc con ước ao vào dòng thì không được vì con thiếu một điều cần nhất là bỏ ý riêng của con.

Rồi chẳng bao lâu có người khác cũng xin đi tu – như lần trước: con làm nghề gì ?

Biết là người đó làm nghề nông nên thánh Antôn dạy ra đào cho ngài một chiếc hầm vuông vắn .…mỗi bề một thước, bề mặt cũng như bề sâu.

Người đó vui vẻ đào – Ngài lại dạy lấp đi.

Lần 2 cũng như thế.

Lần 3 cũng vậy… người đó vui vẻ lấp đi không có một lời than trách.

Sau, thánh Antôn kêu người đó lại và nói:

– Hỡi con, từ nay cha nhận con vào dòng và con hãy nhớ điều này là bao lâu con sống trong dòng việc trước hết là con phải lo thắng mình con và vâng lời cho trọn. Được như vậy con sẽ có phúc ở đời này và đời sau.

2. Bây giờ cha nói với chúng con về điều thứ hai: vác Thánh Giá.

Thánh giá đây không phải chỉ là cây Thánh giá bằng gỗ như cây Thánh giá ngày xưa người ta đã dùng để đóng đinh Chúa trên đó. Thánh giá đây còn phải hiểu là những gánh nặng của bổn phận, những khổ đau của cuộc sống, những thử thách vì nhiệm vụ mà một người môn đệ phải chấp nhận trên con đường theo Chúa.

Chẳng hạn như cuộc đời của Đức Mẹ, chúng con thấy khi Đức Mẽ đã chấp nhận nhiệm vụ trở thành mẹ Chúa Cứu Thế, chúng con thấy Đức Mẹ đã phải chịu biết bao nhiêu là khổ đau, biết bao nhiêu là vất vản để chương trinh của Chúa được thực hiện.

Rồi như Thánh Phaolô chúng con thấy, vì người đã chấp nhận làm môn đệ của Chúa, cho nên người đã phải bị tù đày vì Chúa – bị xiềng xích vì Tin Mừng.

Tù đày có ai mà ham? Bị xiềng xích có ai mà muốn – nhưng khi cần phải chấp nhận như là một việc phải làm vì bổn phận thì thánh Phaolô đã rất vui mừng.

Chúng con hãy nghe câu chuyện này:

Đức cha Phaolô Seitz luôn hiện diện giữa lòng giáo dân.

Vào năm 1927, khi những trận đánh giải phóng Kontum bùng nổ ác liệt, ngài vẵn đánh xe đi cứu thương dưới làn bom. Một phóng viên ngoại quốc phỏng vấn ngài trên cảnh đổ nát hoang tàn này:

– Đức cha không sợ sao?

– Tôi không sợ, ngài trả lời.

Nhưng ngẵm nghĩ một lát ngài nói tiếp “Không, tôi chưa nói đúng sự thật. Tôi sợ lắm chứ! Nhưng vì bổn phận, tôi sẵn sàng sống chết với giáo dân của tôi “.

Đức Cha Phaolô Seitz đã vì bồn phận mà dám hy sinh. Thế cha hỏi chúng con bổn phận của chúng con hôm nay là gì?

Chẳng cần phải suy nghĩ dài dòng, cha cũng có thể trả lời thay cho chúng con. Đó là học hành. Học hành để chuẩn bị cho mình một cuộc sống tốt hơn cho bản thân và cho cả xã hội.

Thề giới ngày nay rất cần những con người có khả năng và đạo đức để làm cho thế giới này mỗi ngày mỗi được tốt đẹp hơn. Thế nhưng làm sao có được những con người như thế nếu ngay bây giờ chúng con không cố gắng học hành.

Việc học hành phải là một công việc phải làm suốt đời. Đây là một bổn phận, một Thánh giá mà mỗi người chúng ta phải vác hằng ngày. Chúng con hãy nghe câu chuyện này:

Tại trường Harvard, một đại học rất nổi tiếng của Mỹ và cả thế giới, trước một cầu thang, có một đám sinh viên năm thứ tư khoa cơ giới đang tụ tập trước cửa phòng để chuẩn bị cho môn thi cuối cùng. Họ tụ tập lại, cùng thảo luận vài phút trước khi bắt đầu thi. Trên khuôn mặt rạng rỡ của họ người ta thấy được một sự tự tin đáng nể phục. Đây là môn thi cuối cùng, tiếp theo sẽ là lễ tốt nghiệp và sẽ có việc làm tốt đẹp.

Có vài người nhắc đến công việc của họ sau này. Người khác thì nói tới công việc mà họ muốn tìm. Ôm trong lòng hoài bão của những sinh viên năm thứ tư, họ cảm thấy trong lòng đã chuẩn bị đầy đủ để có thể chinh phục thế giới bên ngoài.

Họ biết rằng trước mắt họ là cuộc thi không dễ dàng gì. Giáo sư nói buổi thi này họ có thể mang tập sách vào tham khảo nhưng không được trao đổi bài.

Họ hân hoan bước vào phòng thi. Giáo sư đi phát đề. Các sinh viên vẻ mặt rất vui vì họ chú ý thấy đề chỉ có năm câu.

Ba tiếng đồng hồ trôi qua, giáo sư bắt đầu thu bài. Các sinh viên không còn chút tự tin nữa. Trên mặt họ để lộ vẻ rất khó coi. Không ai nói với nhau câu gì, giáo sư nhìn mọi người và hỏi: “Có ai đã làm xong cả năm câu này chưa?”.

Không có cánh tay nào giơ lên.

“Bạn nàp đã làm xong bốn câu?”.

Vẫn im lặng.

“Ba câu? Hai câu?”.

Các sinh viên bắt đầu nhốn nháo, bất an.

“Vậy thì ai nào? Nhất định phải có người làm xong một câu chứ?”.

Cả lớp vẫn giữ thái độ im lặng.

Giáo sư đặt xấp bài trên tay xuống: “Đây chính là kết quả mà tôi đã dự tính từ trước. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh thêm với các bạn, cho dù các bạn có học xong bốn năm đại học, nhưng vẫn có rất nhiều vấn đề liên quan đến ngành của mình mà các bạn vẫn chưa biết, đó là vấn đề mang tính phổ biến ngày nay”.

“Sống đến già, học đến già”. Trong đại dương tri thức, trí tuệ của mỗi người chúng ta chỉ là hạt cát, một giọt nước. Chúng ta cần phải lấy sự khát khao có được nguồn nước tri thức của mình, cần phải bồi dưỡng không ngừng. Nếu như bạn dừng bước thì xem như là kẻ vứt đi.

Anh chị em thân mến

Tuần trước Chúa nói với chúng ta: “Hãy cố gắng vào qua cửa hẹp” và ở một nơi khác trong TM Chúa bảo con đường Chúa mời gọi chúng ta bước vào là con đường hẹp. Đây là con đường chính Chúa đã đi và Chúa cũng muốn chúng ta cùng đi với Ngài.

Nhưng làm thế nào để có thể đi trên con đường đó thì từ Chúa nhật hôm nay cho đến Chúa nhật áp chót của mùa thường niên chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu về những những điều kiện giúp chúng ta có thể đi trên con đường đó.

A- Hôm nay chúng ta bắt đầu với điều kiện đầu tiên và cũng là điều kiện quan trọng nhất. Đó là sự khiêm nhường.

1. Các bản văn Phụng vụ hôm nay đều ít nhiều nói về vấn đề này.

+ Bài Sách Đức Huấn Ca nói: càng làm lớn, càng phải hạ mình trong mọi sự.

+ Bài Tin Mừng: Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên.

+ Nâng lên đến đâu thì bài Thánh Thư  trả lời: Đến Thành trì của Thiên Chúa hằng sống.

2. Nói tới khiêm nhường thì cũng phải nói tới kiêu ngạo. Kiêu ngạo đối nghịch với Khiêm nhường.

+ Sách Đức huấn ca nói: tai họa dành cho kẻ kiêu căng thì vô phương cứu chữa.

+ Bài Tin Mừng cũng cảnh cáo: Ai nhắc mình lên sẽ bị hạ xuống.

Hôm ấy trên con đường đẫn quân đi dánh nước Nga, Vua Napoléon của nước Pháp thấy quyền uy của mình cao như núi, ông nhìn lên trời và tự nhiên buột miệng thốt lên: “Trời là của Chúa. Còn trái đất là của ta”

Chính trong trận chiến này Napoléon đã bị thảm bại và sau đó bị đầy ra đảo Saint Hélène và chết tủi nhục tại đó.

Quả đúng là “Ai tự đưa mình lên sẽ bị hạ xuống.”

Thánh Giacobê nói: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu căng nhưng ban ơn  cho kẻ khiêm nhường” (Jac 4,6)

Gabriel Meurier một nhà tư tưởng lớn của Pháp nói: “Kiêu căng đi trước, tủi nhục và tai họa sẽ bén gót theo sau”

II. Thiên Chúa lại yêu thích những ai khiêm nhường. Nhưng khiêm nhường là gì? Sống khiêm nhường là sống như thế nào?

+ Khiêm nhường không phải là khinh rẻ bản thân, cũng không phải là thụ động không dám nhận trách nhiệm – trách nhiệm làm người ở đời và trách nhiệm làm con Thiên Chúa.

Khiêm nhường lại càng không phải là đeo vào cho mình một thứ mặt nạ để lôi kéo sự chú ý của người khác, làm cho người khác phải để ý đến mình.

Trong Tin Mừng đã nhiều lần Chúa đã cảnh cáo mấy ông Biệt phái và luật sĩ về cái tội này: Họ nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo, thích ngồi ở cỗ nhất trong bàn tiệc chỉ với một mục đích là làm cho người ta đễ chú ý đến mình. Đó là một thứ mặt nạ của sự kiêu ngạo.

Khiêm nhường là biết can đảm nhận lãnh những trách nhiệm cũng như biết cậy nhờ vào ơn của Chúa mà cố gắng chu toàn.

Tấm gương của Abraham trong Cựu Ước là một thí dụ. Abraham ý thức rất rõ ông chỉ là tro bụi trước mặt Chúa, (Kn 18,27) nhưng lại rất chân thành, dám cả gan nhận lấy trách nhiệm, mạnh dạn mặc cả với Chúa về số người công chính cần phải có để xin Chúa tha cho thành Sôđôma và Gomôra.

Giêriêmia đã từ chối việc Thiên Chúa chọn ông làm ngôn sứ – lấy lý do là mình còn trẻ người non dạ (Gr 1,6) Nhưng khi đã nhận trách nhiệm Chúa trao thì ông đã trở thành người hết sức khiêm tốn và can đảm.

Một vị đạo sĩ kia tu hành đã được lâu năm. Ông tự cảm thấy rất bằng lòng với các nhân đức của mình. Chính vì thế mà một hôm kia ông mạnh dạn đến trước thần Silva mà cầu nguyện như thế này:

– Lạy Ngài, con đã làm mọi việc tốt lành. Con đã chăm chỉ tu hành không sai sót một ly. Ngài hãy truyền lệnh cho con làm bất cứ điều gì, con sẽ sẵn sàng làm tất cả.

Thần Silva hiện ra và nói:

– Tất cả mọi việc con làm đều tốt. Giờ đây, Ta sẽ thử con một lần nữa: con hãy lấy một cái đĩa đựng đầy dầu và đội ở trên đầu – rồi con cứ như thế mà đi qua các đường phố. Nhớ không được để một giọt dầu nào rơi ra ngoài.

Người tu sĩ sau khi nghe lệnh đã hân hoan lên đường. Sau khi đi một vòng, mà chiếc đĩa đựng dầu vẫn không rơi mất một giọt. Ông liền trở lại trước tượng thần Silva với hy vọng sẽ được Thần trọng thưởng. Nhưng vừa thấy vị tu sĩ đó tới Thần nói ngay:

– Quả thực con đã cố  gắng hết sức nhưng tiếc thay là đầu óc của con lúc nào cũng chỉ nghĩ đến mình, đến phần thưởng của mình mà chẳng bao giờ con nghĩ đến ta, đến lòng tốt cũng như tình thương của ta. Giả như con có đánh đổ một vài giọt dầu nhưng lòng của con vẫn nhớ đến ta thì điều đó có lẽ sẽ làm ta vui hơn. Hoặc như con có sống bớt khắc khổ, bớt hãm mình ép xác mà giữ được lòng yêu mến đối với ta thì điều đó có lẽ sẽ tốt hơn. Đàng này cho đến nay, con làm tất cả những điều đó vì lòng kiêu hãnh, chỉ vì muốn được ta khen và chiếm được phần thưởng mà thôi. Quả thực là con chưa xứng đáng là môn đệ của ta.

Sống sao cho đúng với đạo làm con không phải dễ. Phải có một lòng khiêm nhường chân thực mới có thể sống được như thế.

+ Theo ngài Cha Mark Link thì khiêm nhường là một cái gì sâu xa và đẹp đẽ hơn như chính lời Chúa đã chỉ dẫn: “Hãy học với ta vì ta hiền lành và khiêm nhường” Con người đến không phải để được phục vụ nhưng là để phục vụ.

Vậy thì sống khiêm nhường là sống như Chúa đã sống, không phải cho mình nhưng là cho người khác.

Khiêm nhường là biết dùng những khả năng như Chúa đã dùng khả năng của Ngài để không phải làm vinh danh cho riêng Ngài nhưng là mưu ích cho người khác.

Hà khưu Thượng nhân hỏi Tôn thúc Ngao:

          – Có ba điều chuốc vạ vào thân ông đã biết chưa?

+ Tôi chưa được biết.

– Tước vị cao người ta ganh.

Quyền thế lớn người ta ghét

Lợi lộc nhiều người ta oán.

+ Không phải như thế:

Tước vị tôi càng cao tôi càng xử nhún nhường.

Quyến thế tôi càng lới tôi càng ở khiêm cung

Lợi lộc tôi càng nhiều tôi càng chia bớt cho người chung quanh. Như thế thì làm sao mà thiên hạ có thế oán tôi được!

Đó là một trong những cách sống khiêm nhường như Chúa đã sống.

+ Nhiều người còn định nghĩa khiêm nhường là biết chấp nhận sự thật. Đây là một việc không dễ dàng. Chấp nhận sự thật thường đi đôi với việc phải điều chỉnh lại cách sống của mình.

Triết gia Diogène sống với một con chó trong một cái thùng gỗ bên vệ một con đường. Ông hạn chế đến mức tối đa những nhu cầu cần thiết đến nỗi cái chén múc nước ông cũng ném đi khi thấy hai bàn tay bụm lại cũng hứng được nước.

Nghe danh nhà hiền triết, một hôm Vua Alịchsơn Đại đế ..đứng cạnh cái thùng và lễ độ lên tiếng:

– Tiên sinh cần gỗ, quả nhân xin. . .

Triết gia trả lời: “Ta cần ngươi đứng tránh ra để nắng có thể dọi vô cửa thùng của ta.”

Tên tùy tùng của nhà vua rút gươm ra toan chém, nhưng vua gạt đi và nói: “Nếu ta không là Alịchsơn thì ta muốn làm Diogène.

Sau đó bằng một giọng điệu của bậc làm thầy, Alịchsơn nói với tên lính hầu cận:

– Người sinh ra ta là cha của ta: Đó là Hoàng đế Philiphe. Người dạy ta biết sống cho xứng đáng là Thầy của ta: Đó là Aristode.

Ông ngụ ý muốn nói: Diogène là bậc thầy của mình.

Biết cúi đầu nhìn nhận điều hay lẽ phải cho dù điều đó có đụng chạm đến danh tự, dến uy quyền, đến lợi lộc của mình. Đó cũng là cách sống khiêm nhường.