Phải nói ngay rằng khi đọc câu truyện này tôi cảm thấy rất phấn khởi và vui mừng. Lý do là vì trong câu truyện này tôi gặp được một Đức Giêsu rất gần gũi với tôi, với những con người đồng thời tôi cũng thấy thật rõ Ngài còn là một Thiên Chúa quyền năng

1. Trước hết, tôi gặp được một Đức Giêsu đầy tình người. Chúa đã cư xử rất “người” đối với những con người.

Tôi xin đan cử vài thí dụ:

a/ Khi Lazarô đau, hai chị em của ông đã dùng những lời như thế này để báo tin cho Chúa: “Lạy Thầy, người Thầy yêu đang đau liệt” (Ga 11,3). “Người Thầy yêu” Chúng ta khó có thể tìm thấy được một kiểu nói nào chân thành và đầy tình người hơn như thế ở trong cả Kinh Thánh chứ không phải là chỉ trong Tin Mừng mà thôi.

b/ Khi được tin Lazarô đau, Chúa nói với các môn đệ của Ngài: “Lazarô, bạn của chúng ta đang ngủ” (Ga 11,11). Lazarô-bạn. Bạn của chúng ta, bạn của Chúa, bạn của cả các tông đồ.

Thật là thân mật! Khó có thể mà tìm được một cách diễn tả thân tình, một cách xưng hô tuyệt vời hơn thế.

c/ Khi biết Lazarô chết, Chúa quyết định đi thăm ông. Các môn đệ can: “Thưa Thầy mới đây người Do thái tìm cách ném đá Thấy mà Thầy lại còn trở lại đó sao ?” (Ga 11,8) nhưng Chúa nhất định cứ đi. Chỉ có những người đã trở thành một lòng một dạ, mới dám sống chết cho nhau, mới có đủ can đảm và dám hy sinh cho nhau như thế.

Bất chấp sự hiểm nguy có thể đe dọa đến cả tính mạng, Chúa nhất định cứ đến, đến để cho mọi người biết cách Ngài đối xử với bạn của mình như thế nào, Ngài yêu thương bạn mình như thế nào.

d/ Lúc đầu khi Chúa tới, chỉ có một mình Matta ra đón Chúa. Chúa chưa vào nhà. Chúa cho gọi Maria ra. Matta vào gọi em. Chị nói: “Thầy đến ở ngoài kia, Thầy cho gọi em” (Ga 11,28)

Tại sao Chúa lại làm như vậy ? Đây là cách đối xử tế nhị: Một chút cách ly trong không gian và thời gian để tránh những xúc động quá đáng có thể phương hại đến sức khỏe. Phải là một người tế nhị lắm mới có thể nghĩ ra được một cách ứng xử đẹp như thế.

e/ Khi gặp Chúa, Maria khóc. Chị khóc rất tự nhiên, rất chân thành, làm cho những người có mặt chung quanh cũng khóc theo. Rồi Chúa cũng xúc động và Chúa cũng khóc theo, khóc rất tự nhiên, rất chân thành. Chúa khóc, khóc với những người đang khóc, khóc với Maria, khóc bằng nước mắt có chất mặn của con người. Những giọt nước mắt trào ra từ một tâm hồn như đang cùng chịu một niềm đau vì có một người thân qua đời. Đó là những gì rất người.

2. Nhưng đàng sau những gì rất người ấy, tôi còn gặp được một Đức Giêsu là một Thiên Chúa.

Vâng đúng như vậy anh chị em. Tôi đã gặp được một Đức Giêsu là một Thiên Chúa.

a/ Khi Chúa có mặt, một số người Do thái đã nói với nhau “Ông ấy đã mở mắt cho người mù…mà không thể làm cho anh ấy khỏi chết hay sao ?” (Ga 11,37) Một cách nào đó, họ đã thấy được quyền năng của Chúa.

b/ Khi đến trước cửa mộ, Chúa chỉ vào phiến đá lấp cửa mồ và ra lệnh: “Hãy đem phiến đá đó đi” (Ga 11,39). Thật là không ai dám nghĩ tới điều đó. Đây là một lệnh truyền kinh khủng bởi vì luật pháp Do Thái phạt rất nặng tất cả những ai dám xâm phạm đến mồ mả của người chết. Bởi vậy khi Chúa truyền lệnh phải gỡ hòn đá lấp cửa mồ Lazarô ra thì tất cả mọi người đều cảm thấy sợ hãi.

Ở đây lại một lần nữa Chúa làm cho mọi người thấy là Chúa có quyền làm tất cả những gì Ngài muốn vì Ngài là Thiên Chúa. Trước đó khi Martha bày tỏ sự thất vọng của mình: “Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con đã không chết” (Ga 11,32). Chúa trả lời ngay, như một lời hứa: “Em con sẽ sống lại” (Ga 11,23) và bây giờ thì Chúa sắp làm những gì Chúa đã nói. Tất cả mọi người đều ngỡ ngàng và khiếp sợ, Martha đánh bạo thưa với Chúa: “Thưa Thầy, nặng mùi rồi, em con đã ở trong mồ bốn ngày rồi” (Ga 11,39)

Bốn ngày cho một cái xác chết, không còn có thể làm gì được nữa. Con người hoàn toàn bất lực. Con người hoảng sợ cũng phải vì con người chẳng có thể làm gì cho một cái xác không hồn đã được chôn 4 ngày rồi.

Nhưng với Chúa thì không như thế vì Chúa có quyền. Ngài có quyền vì Ngài là Thiên Chúa.

c/ Khi phiến đá chắn cửa mộ đã được đem đi, Chúa đưa ra một lệnh tiếp theo còn kinh khủng hơn: “Lazarô! Hãy ra khỏi mồ” (Ga 11,43). Đó là một lệnh truyền cho người đã chết và đã được người ta đem chôn 4 ngày rồi, không còn bất cứ một khả năng tiếp thu nào nữa. Vâng, một lệnh truyền cho một con người đã chết, và Phúc âm ghi thật rõ: “Người đã chết liền đi ra, chân tay còn quấn vải và mặt còn phủ khăn”. (Ga 11,44)Người đã chết đi ra”. Đây không phải là ngôn ngữ của con người nữa, mà là ngôn ngữ của Thiên Chúa. Không ai trong con người dám truyền lệnh cho người đã chết. Chỉ có Thiên Chúa mới làm được những điều kỳ diệu như thế. Thiên Chúa có quyền trên sự chết. Và sự chết phải tuân lệnh của Người.

d/ Rồi bằng một lệnh truyền thứ ba “Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi” (Ga 11,44), Chúa đã hoàn tất công việc trả lại sự sống cho người đã chết. Trả lại sự sống cho người đã chết. Đó là một điều kỳ diệu không thể tin được nhưng lại là một sự thật Chúa đã làm trước mặt rất nhiều người. Nếu không phải là Thiên Chúa thì làm sao làm được những điều kỳ diệu như vậy.

3. Tôi không dám dài dòng. Chỉ còn một tuần nữa là chúng ta bước vào cao điểm của năm Phụng vụ, vào những ngày chúng ta cùng được rất gần gũi với mầu nhiệm tử nạn và Phục sinh của Chúa. Nhưng làm sao để cho những ngày này thực sự là những ngày đem lại một sức sống mới cho chúng ta. Có nhiều cách, nhưng tôi nghĩ chúng ta nên nhắc lại lời tuyên xưng mà Martha đã tuyên xưng cách đây gần 2000 năm. “Con tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa” (Ga 11,27)

Không có được lòng tin vào Đức Kitô như thế, chúng ta sẽ không thể hiểu được những gì Chúa làm…thậm chí chúng ta còn thấy ghê sợ. Nhưng khi đã tin, mọi sự sẽ thay đổi. Chúng ta sẽ không còn khiếp sợ. Chúng ta sẽ trở nên can đảm và chúng ta có thể làm cho đời sống của chúng ta thành một đời sống thật đáng sống.

Cảm nhận được sự gần gũi của Chúa trong cuộc đời là một cảm nhận rất cần thiết. Nó sẽ đem lại cho con người nhiều nghị lực và niềm vui.

Chúng ta thường tìm xem Thiên Chúa ẩn mình ở đâu: một nơi, một đài quan sát, Người nhìn mà không ai thấy… Vì Người vô hình, chúng ta nghĩ là Người ở rất xa, vượt trên các vì sao. Thực sự thì Người ở quá gần, nên mắt ta chẳng thấy. Thiên Chúa ở gần kề tôi hơn cả hơi thở của tôi, mạch máu tôi, ý thức của tôi… Lý tưởng mà tôi nhắm tới, và động lực thúc đẩy tôi, chúng ở bên trong tôi, đó chính là Thần Khí chan hòa trong lòng tôi. (Mahomet)

Một nhà giải phẫu tài ba mời một vị mục sư đến để chứng kiến một ca phẫu thuật khó khăn ông sắp thực hiện. Đang lúc nhà giải phẫu chuẩn bị cho công việc sắp tới như chùi tay, bận áo choàng vô khuẩn, đeo găng tay bằng cao su, thì vị mục sư thấy như có một điều gì đó làm cho nhà giải phẫu hơi bối rối. Thấy thế vị mục sư hỏi:

– Xong chưa bác sĩ ?

– Chưa, nhưng gần xong.

Trả lời xong thì nhà giải phẫu cúi đầu xuống lặng lẽ cầu nguyện một lúc. Đoạn, bình tĩnh và thanh thản đi vào phòng mổ. Ông mổ khéo léo tuyệt vời. Sau đó vị mục sư thắc mắc:

– Tôi lấy làm lạ vì thấy ông cầu nguyện trước khi mổ. Tôi cứ tưởng nhà giải phẫu chỉ tin cậy ở tài năng của mình thôi.

Nhà giải phẫu đáp:

– Thưa mục sư, nhà giải phẫu cũng chỉ là người, không thể tự mình làm ra phép lạ. Tôi tin chắc rằng nếu không nhờ vào một yếu tố nào mạnh hơn loài người, thì khoa học chẳng có tiến bộ như ngày nay.

Rồi ông kết luận:

– Ngài thấy đó, đang khi mổ xẻ, tôi cảm thấy mình rất gần gũi với Đức Chúa Trời, đến nỗi tôi không biết tài năng của tôi ngừng lại ở đâu và tài năng của Chúa bắt đầu từ chỗ nào.

Thiếu nhi chúng con yêu quí.

Chúng ta vừa được nghe một bài Tin Mừng hết sức đặc biệt. Đây là câu chuyện chỉ có Chúa Giêsu mới làm được. Qua câu chuyện này cha thấy có hai điều rất rõ một là tình thương và hai là quyền năng của Chúa Giêsu

 1. Tình thương của Chúa.

Tình thương của Chúa là tình thương hết sức đặc biệt.

Trước hết chúng con thấy: Khi Lazarô đau, hai chị em của ông đã dùng những lời như thế này để báo tin cho Chúa: “Lạy Thầy, người Thầy yêu đang đau liệt” (Ga 11,3). “Người Thầy yêu” Chúng con có thấy ai trên đời này dám thưa với Chúa như vậy không ?

b/ Rồi chúng con thấy khi Chúa Giêsu được tin, Chúa nói với các môn đệ của Chúa thế nào ? Cha thấy chưa bao giờ trong Tin Mừng Chúa làm như thế. Chúa nói: “Lazarô, bạn của chúng ta đang ngủ” (Ga 11,11). Lazarô-bạn. Bạn của chúng ta, bạn của Chúa, bạn của cả các tông đồ. Thật quá là thân mật! Khó có thể mà tìm được một kiểu nói nào diễn tả thân tình, thân mật như thế. Chỉ có những người thực sự yêu thương nhau mới nghĩ ra được cách xưng hô tuyệt vời như thế.

c/ Tiếp theo khi biết Lazarô chết, Chúa quyết định đi thăm ông. Các môn đệ can: “Thưa Thầy mới đây người Do thái tìm cách ném đá Thấy mà Thầy lại còn trở lại đó sao ?” (Ga 11,8) nhưng Chúa nhất định cứ đi. Chết cũng đi. Chúa có liều lắm không chúng con. Cha tưởng là liều chứ nhưng khi đã yêu thì đâu có xá gì. Chúa đã chẳng nói: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người dám chết vì người mình yêu đó sao”

2. Đức Giêsu là một Thiên Chúa.

Vâng đúng như vậy anh chị em. Cha đã gặp được một Đức Giêsu là một Thiên Chúa đầy quyền năng.

a/ Khi Chúa vừa có mặt, một số người Do thái đã nói với nhau “Ông ấy đã mở mắt cho người mù…mà không thể làm cho anh ấy khỏi chết hay sao ?” (Ga 11,37) Chúng con thấy chính những người Do thái cũng đã thấy được quyền năng của Chúa.

b/ Khi đến trước cửa mộ, Chúa chỉ vào phiến đá lấp cửa mồ và ra lệnh: “Hãy đem phiến đá đó đi” (Ga 11,39). Thật là không ai dám nghĩ tới điều đó. Đây là một lệnh truyền kinh khủng bởi vì luật pháp Do Thái phạt rất nặng tất cả những ai dám xâm phạm đến mồ mả của người chết. Bởi vậy khi Chúa truyền lệnh phải gỡ hòn đá lấp cửa mồ Lazarô ra thì tất cả mọi người đều cảm thấy sợ hãi.

Ở đây lại một lần nữa Chúa làm cho mọi người thấy là Chúa có quyền làm tất cả những gì Ngài muốn vì Ngài là Thiên Chúa. Trước đó khi Martha bày tỏ sự thất vọng của mình: “Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con đã không chết” (Ga11,32). Chúa trả lời ngay, như một lời hứa: “Em con sẽ sống lại” (Ga 11,23) và bây giờ thì Chúa sắp làm những gì Chúa đã nói. Tất cả mọi người đều ngỡ ngàng và khiếp sợ, Martha đánh bạo thưa với Chúa: “Thưa Thầy, nặng mùi rồi, em con đã ở trong mồ bốn ngày rồi” (Ga 11,39)

Bốn ngày cho một cái xác chết, không còn có thể làm gì được nữa. Con người hoàn toàn bất lực. Con người hoảng sợ cũng phải vì con người chẳng có thể làm gì cho một cái xác không hồn đã được chôn 4 ngày rồi.

Nhưng với Chúa thì không như thế vì Chúa có quyền. Ngài có quyền vì Ngài là Thiên Chúa.

c/ Khi phiến đá chắn cửa mộ đã được đem đi, Chúa đưa ra một lệnh tiếp theo còn kinh khủng hơn: “Lazarô! Hãy ra khỏi mồ” (Ga 11,43). Đó là một lệnh truyền cho người đã chết và đã được người ta đem chôn 4 ngày rồi, không còn bất cứ một khả năng tiếp thu nào nữa. Vâng, một lệnh truyền cho một con người đã chết, và Phúc âm ghi thật rõ: “Người đã chết liền đi ra, chân tay còn quấn vải và mặt còn phủ khăn”. (Ga 11,44)Người đã chết đi ra”. Chúng con có thấy người đã chết nào nghe được tiếng nói của người còn sống không. Cha đố chúng con khi chúng con gặp một người đã chết, đang nằm bất tỉnh và chúng con đến nói với người đó: “Này người đã chết ơi, tôi truyền cho ông chổi dậy” Cha đố chúng con và tất cả mọi người đấy.

d/ Rồi bằng một lệnh truyền thứ ba “Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi” (Ga 11,44), Chúa đã hoàn tất công việc trả lại sự sống cho người đã chết. Trả lại sự sống cho người đã chết. Đó là một điều kỳ diệu không thể tin được nhưng lại là một sự thật Chúa đã làm trước mặt rất nhiều người. Nếu không phải là Thiên Chúa thì làm sao làm được những điều kỳ diệu như vậy.

3. Chúa Giêsu đã cho Lagiarô chết được sống lại.

Cha kể cho chúng con câu chuyện này. Câu chuyện được đăng trên báo Tuổi Trẻ, ngày 24/8/ 89, tr.2 mỗi người chúng ta hãy suy nghĩ câu chuyện này xem chúng ta có thể bắt chước Chúa Giêsu được không.

Sáng thứ sáu ngày 18/8/1989, tại phòng cấp cứu của bệnh viện nhi đồng II, bác sĩ Trần Hữu Nhơn, trưởng khoa cấp cứu của bệnh viện, đã tiếp nhận một em bé gái bị sốt cao, nguy kịch. Chẩn đoán: Phổi có mủ! Bác sĩ nói ngay với cha mẹ bệnh nhân: “Cần phải mua ngay một chai nước biển” ngoại nhập để truyền lập tức mới mong cứu được bệnh nhân”. Cha mẹ em bé lúng túng.

Bác sĩ hỏi:

– Anh làm nghề gì ? Không mua nổi hay sao ?

– Tôi đạp xích lô – người cha trả lời -. Thú thật chúng tôi không có đủ mấy chục ngàn để mua nên không biết làm sao đây!

Suy nghĩ một lúc, bác sĩ quay sang nói với cô y tá:

– Cô lãnh giùm lương của tôi, trích tiền mua cho em bé này chai nước biển!

Quay lại người cha, Bác sĩ này nói tiếp:

– Mấy chục ngàn cũng là nhiều, nhưng còn quan trọng nhiều hơn là tính mạng của em bé. Tôi phải làm như vậy mới kịp. Tôi giúp anh cơn nguy cấp này, anh nhớ giúp lại người khác khi họ lâm nạn. Anh đạp xích lô, nếu gặp ai đó cần cấp cứu thì nhớ tận tình giúp cho người ta!

Hai vợ chồng người đạp xích lô rơm rớm nước mắt như người chết đi sống lại. . .

Hay như câu chuyện này:

Một bé gái nọ có thói quen đọc kinh trước khi đi ngủ. Ngày kia, em bị bệnh nặng phải vào nhà thương. Các bác sĩ cho biết chỉ có giải phẫu mới có hy vọng cứu sống em. Trước khi cho thuốc gây mê, các bác sĩ và y tá báo cho em biết là em sẽ được ngủ một giấc dài. Nghe nói ngủ, cô bé ngây thơ đã xin được quỳ xuống cầu nguyện. Thế là trước mặt mọi người, cô bé quỳ gối cầu nguyện một cách hết sức chân thành, và em kết thúc bằng lời nguyện như sau: “Xin Chúa cho con được chóng lành bệnh”. Cầu nguyện xong, em bé nằm xuống và xin các bác sĩ và y tá tiến hành cuộc giải phẫu…

Ngày hôm sau, cô bé tỉnh dậy với nỗi đau tột cùng. Câu hỏi đầu tiên của em với bác sĩ là:

– Cháu có được lành bệnh không, thưa bác sĩ ?

Vị bác sĩ nhìn thẳng vào đôi mắt của em và đáp với tất cả sự xúc động:

– Cháu hãy để cho Chúa lo liệu, bác chưa biết được kết quả của cuộc giải phẫu. Nhưng có một điều bác tin chắc, đó là cháu đã cứu được một người, và người đó không ai khác hơn đó chính là bác đây! Từ lâu, bác đã không đến nhà thờ, bác không còn nhớ đến Chúa và cũng không bao giờ cầu nguyện nữa. Thế nhưng, hôm qua khi nhìn thấy cháu cầu nguyện một cách thật sốt sắng, bác không cầm được nước mắt. Chúa đã đánh động bác. Sáng nay, bác đã đến nhà thờ xưng tội và chịu lễ. Bác tin chắc rằng Chúa đã nhận lời cháu. Cháu đừng lo lắng nữa. Hãy phó thác cho Thiên Chúa!.

Chúng con hãy tập Phục sinh cho tất cả những ai đang cần được phục sinh như câu chuyện cha vừa kể cho chúng con. Amen.

A. Đọc câu chuyện hôm nay, tự nhiên tôi liên tưởng đến câu chuyện trong bài Tin Mừng Chúa nhật tuần trước. Người đàn bà trong bài Tin Mừng tuần trước là một người có một cuộc sống thật náo nhiệt và ồn ào. Bà đã ngả từ tay người đàn ông này sang tay người đàn ông khác….tới 5-6 lần. Cuộc sống của bà là một cuộc sống thật sôi động.

Còn người mù trong bài Tin Mừng hôm nay thì khác hẳn. Cuộc sống của anh ta thật bất hạnh và cô đơn. Anh sống một thân một mình, một mình một cõi, chẳng mấy ai muốn làm bè làm bạn với anh. Có lẽ gia đình anh nghèo, không đủ sức đủ lực để lo cho anh, cho nên anh phải đi khất thực để độ thân, để sống cho qua ngày.

Hai câu chuyện với hai con người khác nhau nhưng lại có một điểm chung rất thú vị. Đó là Chúa Giêsu đã tìm đến với họ. Nếu Chúa không đến gặp họ thì cuộc sống của họ chắc chẳng có gì thay đổi. Nhưng rất may là Chúa đã đến.

Từ cái nhìn và từ những lời nhận xét rất tế nhị và khôn khéo Chúa đã kéo người đàn bà ra khỏi vũng lầy của quá khứ chẳng có gì là tốt đẹp để hướng bà về một tương lai tươi sáng hơn.

Rồi cũng bằng một cử chỉ đầy yêu thương, Chúa đã đưa người mù từ cuộc sống tối tăm đến một đời sống đầy ánh sáng: Ánh sáng của đời thường – nhất là Ánh sáng của niềm tin.

B. Nhìn lại quá trình làm thay đổi cuộc sống của người mù, chúng ta thấy thật thú vị.

1- Lúc đầu, anh chẳng có một ý niệm gì về Chúa. Khi được hỏi về người đã chữa cho anh, anh trả lời một cách rất mù mờ: “Người mà người ta gọi là Giêsu”. “Người mà người ta gọi là Giêsu”. Đó là tất cả nhũng gì anh có thể nói về Chúa lúc ban đầu. Ngoài ra Người ở đâu, anh không biết. Ngài là người như thế nào anh cũng chẳng hay.

2- Thế nhưng sau khi anh được sáng mắt, từ trong cõi lòng anh đã dần dần nhận ra Chúa.

Khi anh được người ta tra vấn về nguyên do anh được sáng mắt, trong lúc người ta tìm cách để kết án Chúa thì anh lại dõng dạc tuyên bố: “Ngài là một tiên tri”.

Rất thẳng thắn và cũng rất chân thành. Không có gì là úp mở cả.

Rồi khi người ta dùng áp lực để dọa cha mẹ anh và tiếp sau đe dọa cả anh thì lúc ấy chúng ta thấy anh trở nên can đảm lạ thường. Dường như anh không còn biết sợ là gì nữa. Thái độ của anh khác hẳn với thái độ của cha mẹ anh. Anh thẳng thắn dõng dạc tuyên bố trước mặt mọi người “Chúng ta biết Thiên Chúa không nhậm lờì những kẻ tội lỗi. Còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe có ai đã mở mắt cho người mù từ khi mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến thì ông ta chẳng làm được gì”

Vâng anh đã được mở mắt. Anh đã được thấy sự thật và anh đã dám gắn bó với sự thật đó và cho dù anh có phải trả một giá rất đắt anh cũng sẵn lòng. Chúng ta không thể hiểu hết những gì anh phải hứng chịu khi người ta dùng một biện pháp trục xuất anh ra khỏi hội đường để trừng phạt anh.

Trước kia anh mù, cuộc sống của anh đã khổ. Bây giờ anh được sáng mất, tưởng như cuộc sống sẽ thuận lợi hơn…ai dè bây giờ cha mẹ anh không dám bênh vực, xã hội chẳng giúp anh được gì. Chỉ còn một chút hy vọng vào cộng đoàn tôn giáo thì người ta lại trục anh, đưa anh trở lại với cuộc sống còn cô đơn và bất hạnh hơn trước.

Trước đây anh mù nhưng thỉnh thoảng còn có người thi ân bố thí.

Bây giờ khi anh bị trục xuất ra khỏi hội đường..anh sẽ phải tự cách ly với tất cả mọi người. Không ai dám tiếp xúc với anh, không ai dám giao thiệp với anh, không ai dám gần gũi với anh…thật là kinh khủng. Muốn gần gần anh người ta cũng không phải sợ.

3. Thế nhưng thật may, giữa lúc cả loài người từ bỏ anh thì Chúa lại mở rộng đôi tay đón nhận. Dường như Chúa đã biết trước tất cả, cho nên ngay sau khi anh vừa buồn tủi cô đơn bước chân ra khỏi Hội đường thì Chúa đã chờ sẵn.

Băng một Tình yêu rất đặc biệt và bằng một cái nhìn rất trìu mến Chúa hỏi anh:

  • Anh có tin vào Con Người không ?

Anh thưa lại:

  • Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin ?

Chúa chậm rãi nói cho anh biết:

  • Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây.

Bằng cả một tấm lòng trìu mến, biết ơn và bằng một giọng nói đầy xúc cảm anh thưa lại với Chúa:” Lạy Ngài, tôi tin” và anh sấp mình xuống trước mặt Chúa.

Phúc âm không nói nhưng tôi chắc là Chúa đã cúi xuống thậ sâu để ôm trọn cả con người anh trong vòng tay yêu thương của Ngài.

Chỉ một ít phút trước đó anh tưởng anh mất tất cả bây giờ anh cảm thấy anh đã có lại tất cả. Chỉ một ít ít phút trước đó anh tưởng suốt đời anh sẽ phải cô đơn nhưng bây giờ anh thấy cuộc đời anh có hạnh phúc.

Cả loài người bỏ anh, nhưng Chúa đón nhận anh.

Cả loài người muốn xa cách anh, nhưng Chúa lại muốn gần gũi anh.

Cả loài người muốn từ khước anh, nhưng Chúa lại đón nhận anh .

Cả loài ngươi tưởng rằng anh sẽ bơ vơ lạc lõng khi anh bị trục xuất ra khỏi hội đường thì giờ đây anh lại được bước vào một xã hội mới không phải là của loài người nhưng là của Thiên Chúa trong đó mọi người được liên kết với nhau trong một niềm tin và được sống với nhau bằng chính Tình yêu Thiên Chúa đã yêu thương con người.

Trong Cuốn “Lẽ Sống” có một câu chuyện rất hay. Câu chuyện thế này: Có hai người lái buôn rất giầu có. Hai người lại là bạn thân với nhau. Một hôm hai người nảy ra một ý định là phải đi tìm cho bằng được điều quí giá nhất trên đời. Sau đó thì mỗi người đi một ngả và thề sẽ gặp lại nhau sau khi đã đạt được mục đích.

Người thứ nhất lặn lội khắp mọi nơi để đi tìm một viên ngọc mà người ta gọi là quí nhất trên đời. Ông không ngần ngại lội suối băng rừng, bất chấp mọi hiểm nguy trên con đường để đi tìm và cuối cùng thì ông đã tìm thấy. Ông vui mừng trở về và chờ đợi người bạn của ông.

Nhiều năm trôi qua mà người bạn của ông vẫn vô âm biệt tín. Nhưng sau thì ông khám phá ra rằng sở dĩ người bạn của mình chưa về là vì ông ta không đi tìm vàng bạc mà là đi tìm Thiên Chúa. Sau bao nhiêu năm trời tìm thầy thọ giáo, nghiên cứu thánh hiền, cặm cụi với sách vở vậy mà ông vẫn chưa tìm thấy Thiên Chúa.

Thế rồi một hôm kia ông đến ngồi thẫn thờ ở bên một dòng sông. Nhìn dòng nước trôi lững lờ, ông thấy một con vịt mẹ và một đàn vịt con. Tội nghiệp cho con vị mẹ. Nó cứ phải lận đận vất vả với những con vịt con. Mấy con vịt con cứ thích tách rời khỏi mẹ để đi tìm thức ăn riêng.

Vịt mẹ sợ vịt con lạc đàn nguy nhiễm cho nên cứ phải đi thu con trở về đàn. Nhưng thu được con này thì lại mất con khác. Dầu vậy vịt mẹ vẫn kiên tâm, không hề tỏ ra một dấu gì là mệt mỏi, gắt gỏng hay giận dữ. Nhìn cái cảnh vịt mẹ cứ mải mê đi tìm vịt con như thế, người đó như tìm ra được câu trả lời cho cuộc tìm kiếm của mình. Ông vội vàng đứng dậy và lên đường trở về nhà.

Vừa giáp mặt là người bạn về trước đã hỏi ngay: “Cho tôi xem thử điều quí giá nhất mà anh đã tìm thấy coi. Tôi nghĩ nó phải là một điều tuyệt diệu lắm bởi chưa bao giờ tôi thấy anh có nét mặt mãn nguyện, vui tươi rạng rỡ như hôm nay”.

Con người trở về với hai bàn tay trắng nhưng tâm hồn lại ngập tràn niềm vui rả lời:

“Tôi đã đi tìm Chúa và cuối cùng thì tôi lại khám phá ra rằng chính Ngài là Đấng đi tìm tôi”

Vâng Chúa vẫn đi tìm. Ngài mải mê tìm kiếm chúng ta. Ngài đã đến tìm người phụ nữ ở giếng Gia-cóp và đưa bà trở về. Ngài đã đích thân tìm đến người mù trong bài Tin mừng hôm nay để đưa anh về với cội nguồn ánh áng. Ngài vẫn tiếp tục đi tìm. Chúng ta hãy để cho Ngài dìu dắt hướng dẫn cuộc đời của chúng ta. Hãy can đảm đi theo sự chỉ dẫn của Ngài chúng ta sẽ tìm thấy ánh sáng. Amen.

Thiếu nhi chúng con yêu quí.

Lại một lần nữa chúng con được nghe một câu chuyện đẹp. Cha có thể nói rất là rất đẹp. Câu chuyện hôm nay là câu chuyện của một người mù, lại mù từ khi mới sinh. Qua câu chuyện này, chúng ta được thấy thật rõ tình thương của Chúa. Tình thương ấy được bộc lộ ra như thế nào thì chúng con sẽ hiểu.

1. Sự kiện.

Trước hết, chúng con thấy hôm nay Chúa tự tìm đến với người mù. Anh không xin Chúa. Cũng chẳng có ai thương tình dẫn anh tới Chúa. Chúa tự tìm đến với anh. Và Chúa muốn chữa cho anh nếu anh muốn.

Khi Chúa mới đến, anh chẳng biết Chúa là ai. Lúc Chúa lấy bùn xức vào mắt anh, anh cũng chẳng biết Chúa làm như thế để làm gì. Rồi khi Chúa bảo anh đứng dậy đi tới suối Siloac mà rửa anh cũng chưa biết đi rửa như thế có ăn thua gì không. Vậy mà anh cứ đi và sau khi anh rửa, mắt anh được sáng ra. Anh nhìn thấy được. Anh hạnh phúc quá nhưng anh vẫn chưa biết rõ người đã mở mắt cho mình là ai. Anh chỉ biết lờ mờ “Người mà người ta gọi là Giêsu”. “Người mà người ta gọi là Giêsu”(Ga 9,11). Đó là tất cả những gì anh biết về Chúa. Ngoài ra Người ở đâu, anh không biết. Ngài là người như thế nào anh cũng chẳng hay.

Giả như câu chuyện dừng lại ở đây như bao câu chuyện phép lạ khác Chúa đã làm cha tưởng cũng đã đẹp rồi. Nhưng những sự việc diễn ra sau đó lại làm cho câu chuyện đẹp hơn, đẹp hơn gấp bội phần.

Vậy thì sau đó thì sao ? Cha thấy sau đó là một cuộc chiến. Cuộc chiến này có hai phe. Một phe gồm cả một thế lực hùng mạnh của tôn giáo và trần thế. Phe này bằng mọi cách muốn phủ nhận phép lạ Chúa làm. Phe thứ hai là một mình anh mù mới được Chúa cho sáng mắt. Phe này chỉ có một mình anh. Anh chỉ có một mình nhưng là người hùng trong trận chiến này. Anh quyết tâm bênh vực sự thật cho tới cùng, dù có phải hy sinh, dù phải đối diện với những thử thách vừa nguy hiểm vừa to lớn anh chưa hề gặp trong đời.

Khi anh được người ta tra vấn về nguyên do anh được sáng mắt, trong lúc người ta tìm mọi cách để kết án Chúa thì anh lại dõng dạc tuyên bố: “Ngài là một tiên tri”(Ga 9,17).

Rất thẳng thắn và cũng rất chân thành. Không có gì là úp mở cả.

Rồi khi người ta dùng áp lực để dọa cha mẹ anh và tiếp sau là đe dọa cả anh thì lúc ấy chúng ta thấy anh trở nên can đảm lạ thường. Dường như anh không còn biết sợ là gì nữa. Thái độ của anh khác hẳn với thái độ của cha mẹ anh. Anh thẳng thắn dõng dạc tuyên bố trước mặt mọi người “Chúng ta biết Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi. Còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe có ai đã mở mắt cho người mù từ khi mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến thì ông ta chẳng làm được gì”(Ga 9,31-33)

2. Bài học

Vâng anh đã được mở mắt. Anh đã được thấy sự thật và anh đã dám gắn bó với sự thật đó và cho dù anh có phải trả một giá rất đắt anh cũng sẵn lòng. Chúng ta không thể hiểu hết những gì anh phải hứng chịu khi người ta dùng một biện pháp kể cả việc trục xuất anh ra khỏi hội đường để trừng phạt anh.

Trước kia anh mù, cuộc sống của anh đã khổ. Bây giờ anh được sáng mất, tưởng như cuộc sống sẽ thuận lợi hơn…ai dè bây giờ cha mẹ anh không dám bênh vực, xã hội chẳng giúp anh được gì. Chỉ còn một chút hy vọng vào cộng đoàn tôn giáo thì người ta lại trục xuất anh, đưa anh trở lại với cuộc sống còn cô đơn và bất hạnh hơn trước.

Trước đây anh mù nhưng thỉnh thoảng còn có người thi ân bố thí. Có gần anh người ta cũng không phải sợ.

Bây giờ khi anh bị trục xuất ra khỏi hội đường, anh sẽ phải tự cách ly với tất cả mọi người. Không ai dám tiếp xúc với anh, không ai dám giao thiệp với anh, không ai dám gần gũi với anh…thật là kinh khủng.

Thế nhưng con người mù này vẫn một lòng can đảm. Đây là một bài học cho mọi người chúng ta.

Chúng con hãy nghe câu chuyện này:

Abraham từ ngày được Thiên Chúa chọn, ngày càng sống thân tình với Thiên Chúa hơn và xa cách các thần tượng. Thấy thế, ông thân sinh dẫn Abraham đến trước mặt vua Ramos, nhà vua hỏi Abraham:

– Tại sao ngươi lại không tôn thờ các thần tượng của vương quốc ?

Abraham trả lời với giọng cương quyết không hề sợ hãi:

– Tâu hoàng thượng, bởi vì lửa thiêu rụi các thần tượng ấy.

– Như vậy thì hãy tôn thờ lửa – Vua trả lời. Nhưng Abraham đáp:

– Nếu thế, hạ thần tôn thờ nước tốt hơn, vì nước dập tắt được lửa.

– Thế thì hãy tôn thờ nước.

– Tâu hoàng thượng, không. Hạ thần tôn thờ mây thì tốt hơn, bởi nước từ mây mà ra.

– Thế thì hãy tôn thờ gió.

Nghe thế, Abraham trả lời vua Ramos:

– Nếu gió là Thiên Chúa thì ta hãy tôn thờ con người, vì con người có hơi thở.

Vua Ramos kiên nhẫn:

– Vậy thì hãy tôn thờ con người.

Abraham trả lời:

– Tâu hoàng thượng, không. Vì con người phải chết.

Nhà vua giận dữ quát lên.

– Vậy thì hãy tôn thờ sự chết đi.

Sau cùng Abraham nói:

– Đấng duy nhất phải tôn thờ là chủ tể của cả sự sống và sự chết, đó là Thiên Chúa, Chúa của hạ thần.

Sau cuộc cãi nhau với vua Ramos, Abraham trở thành ngôn sứ của Thiên Chúa bởi vì ông vén mở cho nhà vua thấy sự thật và sứ điệp của Chúa muốn nhắn gởi.

Chúng ta cũng hảy Can Đảm tuyên xưng Chúa trước mặt mọi người như Abraham trong câu chuyện vừa nghe và nhất là người mù trong bài Tin Mừng.

Cách đây 03 thế kỷ có một người thợ dệt tên là Roger Wrenne, sống ở miền Lancaster bên Anh Quốc. Vào thời đó xảy ra một cuộc bách hại khốc liệt nhằm vào các người Công Giáo. Người nào không chịu bỏ đạo sẽ bị tịch thu hết tài sản và có thể mất cả mạng sống.

Roger Wrenne, vì không chịu chối đạo, đã bị kết án treo cổ. Đao phủ cột ông vào cột, nhưng rồi dây bị đứt và Roger Wrenne rơi xuống đất nhưng vẫn sống. Quan tòa lợi dụng ngay cơ hội này bảo anh xin ân huệ nếu anh chấp nhận chối bỏ đức tin Công Giáo. Nhưng Roger Wrenne đáp: “Tôi trước sau như một”. Rồi anh vội vã leo lên chiếc thang dẫn tới đỉnh của cây cột dùng để treo cổ tội nhân. Đao phủ trố mắt nhìn anh với vẻ ngạc nhiên lạ lùng và cười nói với anh: “Ê! mà vội vã thế sao ?”.

Người bị lết án tử trả lời: “Nếu anh thấy được những gì Thiên Chúa vừa chỉ cho tôi thấy, chắc là các anh cũng sẽ vội vàng muốn chết như tôi!”.

Roger Wrenne đã thấy trời mở ra trước mặt!

Một em bé gái Trung Hoa khẩn xin Giám mục ban cho em bí tích Thêm sức. Vị linh mục thừa sai do dự: em còn quá trẻ. Tuy vậy, em vẫn luôn cầu khẩn điều em xin:

– Sau khi con Thêm sức, nếu như quan quyền bỏ tù con và nếu họ hỏi con về đức tin, con sẽ trả lời như thế nào ?

– Thưa đức cha, con sẽ trả lời rằng con là Kitô hữu nhờ ơn của Chúa.

– Và nếu họ yêu cầu con từ chối Tin Mừng, con sẽ làm gì ?

– Con sẽ trả lời: không bao giờ !

– Nếu họ kêu đao phủ tới và nói với con: ngươi hãy bỏ đạo đi, nếu không sẽ bị chặt đầu. Đâu là câu trả lời của con ?

– Con sẽ nói: cứ chặt !

Và em bé này đã được lãnh nhận bí tích Thêm sức

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con lòng can đảm để chúng con biết tuyên xưng Chúa trước mặt mọi người.

Câu chuyện trong bài Tin Mừng hôm nay như thế nào thì chúng ta đã rõ. Giáo hội cố ý cho đọc cả câu chuyện vì tính cách đặc biệt của nó. Qua câu truyện này, chúng ta có thể rút ra được một bài học…rất phù hợp với Mùa Chay: Bài học về sự trở lại. Có thể nói đây là một cuộc trở lại kiểu mẫu. Nội dung của một cuộc trở lại thường diễn tiến như sau:

1. Bắt đầu từ chỗ biết nhìn nhận quá khứ lỗi lầm của mình.

Người đàn bà trong bài trong bài hôm nay là một người tội lỗi với một quá khứ thật đáng ghê tởm. Trong cái quá khứ đó chúng ta có thể tìm thấy một cuộc sống

chỉ có hiện tại mà không có tương lai

chỉ có tình dục mà không có Tình yêu

chỉ có hưởng thụ mà không có phục vụ

chỉ có bay nhảy mà không có trách nhiệm

Một quá khứ như thế tất nhiên sẽ dẫn đến một hiện tại chẳng tốt đẹp gì. Cuộc sống của bà ta lúc này chẳng khác gì cuộc sống của một nô lệ.

Rất may là bà ta được gặp Chúa. Cuộc gặp gỡ không có dự tính từ trước nhưng lại đem đến những kết quả thật lạ lùng. Chúa đã ấn một ngón tay vào đúng chỗ nhức nhối nhất trong cuộc đời của bà, để rồi sau đó Chúa đưa bà vào cuộc sống mới. Lúc bị Chúa phê phán về cuộc sống tội lỗi, bà ta đã không nói gì, bà ta im lặng chấp nhận.

Nhìn nhận mình có tội, nhìn nhận tội lỗi của mình đó là bước đầu tiên và cũng là bước thật quan trọng trên con đường trở lại.

2. Tin vào tình thương của Chúa.

Lúc đầu khi mới gặp Chúa, chúng ta thấy thái độ của bà thật đanh đá:

– Ông là người Do Thái mà lại xin nước uống với tôi là người Samaria sao ? (Ga 4,9)

Người Do Thái không giao tiếp với người Samaria. Có nhiều lý do nhưng lý quan trọng nhất vẫn là vì hai bên không có cùng một cách biểu lộ lòng tin và nhất là không có sự nhất trí với nhau về nơi Thiên Chúa ngự.

Nhờ cuộc gặp gỡ này mà Chúa đã giải tỏa hết những lấn cấn mà bao lâu nay người ta đã vì đó mà bất hòa với nhau:

– Đã đến giờ và chính là lúc này những kẻ tôn thờ đích thực…sẽ thờ Thiên Chúa Cha trong Tinh thần và trong Chân Lý (Ga 4,23).

Nhìn lại quá trình của cuộc gặp gỡ, chúng ta thấy người đàn bà này đã có một chuyển biến rất rõ rệt trong cách nhìn của bà đối với Chúa.

Lúc đầu, đối với bà, Chúa chỉ là một con người: “Ông là người Do Thái” (Ga 4,9)

– Sau khi Chúa bật mí cho bà ta biết là Ngài biết rất rõ về đời tư của bà và nhất là khi Chúa tỏ ra cảm thông với sự vất vả của bà cũng như sẵn sàng giúp bà thoát ra khỏi cuộc sống cơ cực của hiện tại thì bà đã có một cái nhìn khác về Chúa, một cái nhìn cao hơn “Quả thực Ngài là một vị Tiên tri” (Ga 4,19)

– Và kết cuộc thì thật kỳ diệu: Sau khi Chúa chỉ cho bà cách thức để bà có thể tìm gặp được một Thiên Chúa đích thực thì hình ảnh về một đấng Messia mà muôn dân đang mong đợi đã thoáng hiện ra trong tâm trí của bà: “Tôi biết Đấng Messia mà người ta gọi là Ki-tô sẽ đến và khi đến Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự”(Ga 4,25)

3. Sống cuộc sống mới mà mình đã tìm lại được.

Bắt đầu bằng một thái độ dứt khoát với quá khứ. Tin Mừng ghi rõ: “Bấy giờ người đàn bà bỏ vò nước xuống” (Ga 4,28) Một số nhà chủ giải Kinh Thánh cho rằng việc này có một ý nghĩa tượng trưng rất đặc biệt. Nó như một kết thúc cho một giai đoạn đã qua của một cuộc đời và mở đầu cho một giai đoạn mới.

Tiếp theo Tin Mừng ghi: Bà chạy về thành loan báo cho mọi người rằng

– Ra mà xem một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Phải chăng Ông đó là Đức Ki-tô ? (Ga 4,29)

Đó là bước thứ hai trong cuộc sống mới: Bắt đầu sống cho Chúa bằng cách loan báo cho người ta biết Ngài.

cuối cùng là kết hợp với Ngài trong niềm tin để được cùng chia sẻ cuộc sống hạnh phúc của những người tin Chúa:

– Giờ đây không phải vì những lời chị kể mà chúng tôi tin, nhưng chính chúng tôi đã được nghe lời Người và chúng tôi biết Người thật là đấng Cứu Thế. (Ga 4,42)

Để kết thúc tôi xin tặng anh chị em câu chuyện:

Một Linh mục dòng Tên người Ailen, cha Doyle, nổi tiếng vì lòng hay giúp đỡ người khác và sự thánh thiện của cha. Một buổi tối, sau khi giảng một bài về sự truyền giáo, ngài đi ra đường và gặp một thiếu nữ. Ngài nói dịu dàng với họ:

– Con ạ, trời đã khuya. Con chưa về nhà sao ?

Rồi, với tâm hồn nhiệt thành, Ngài nói tiếp:

– Đừng làm Chúa đau khổ. Ngài yêu con.

Năm tháng trôi qua. Vào một đêm nọ, có điện thoại của bề trên sai Ngài đi Dublin ngay lập tức, để gặp một người nữ sắp bị hành hình vào sáng mai. Người phụ nữ này yêu cầu được gặp Ngài. Ngài ra đi đến nơi lúc 5 giờ sáng, và được dẫn ngay tới phòng giam của cô Fanny Cranbush, một cô gái bất lương đã bị kết án vì cộng tác với kẻ khác để đầu độc nhiều người. Vừa thấy Linh mục, cô ấy quỳ gối và nói:

– Thưa cha, cảm ơn Chúa vì Cha đã đến đây.

– Nhưng con ạ, Cha chưa biết con, con cần gì ?

– Cha không nhớ con sao ? Hai năm trước đây Cha đã gặp con trên đường phố Yarmouth vào một đêm tối. Con là cô gái xấu nết, cả đời con là vậy. Cha đã nói với con: “Con ạ, trời đã khuya. Con chưa về nhà sao ? Ngài yêu con không ? Ngài là ai ? Con biết quá ít là Ngài. Con chưa bao giờ cầu nguyện và chưa bao giờ được rửa tội. Nhiều tuần lễ, con muốn lánh xa con đường tội lỗi, nhưng cái đói đã làm con phải phạm tội. Mỗi ngày con càng lún sâu trong tội, đến độ giờ đây con sắp bị treo cổ. Con đã tuyệt vọng, và không muốn gặp vị Linh mục nào. Nhưng rồi con nhớ lại lời cha đã nói. Con khóc lên. Con ước muốn gặp Cha để nghe Cha con nói về Ngài Giêsu”.

Cha dạy giáo lý cho cô ta với thời gian cho phép, trước khi rửa tội cho cô. Ngài lập một bàn thờ trong phòng giam, dâng Thánh lễ, cho cô ta rước lễ lần đầu cũng là lần cuối. Trên đường đi xử, cô thì thầm: “Thưa Cha, con quá đỗi hạnh phúc. Chúa Giêsu biết con ăn năn hối lỗi vì đã xúc phạm đến Ngài. Con biết Chúa Giêsu hằng yêu mến con”. Amen.

Thiếu nhi chúng con yêu quí,

Chúng con vừa được nghe thánh sử Gioan thuật lại cho chúng ta một câu chuyện thật tuyệt vời.

Đọc xong câu chuyện này cha thấy nó rất phù hợp với Mùa Chay.

Cha đố chúng con biết tại sao cha dám nói thế ?

Mùa Chay là mùa kêu gọi người ta đổi mới cuộc đời và trở về với Chúa.

Cha thấy câu chuyện hôm nay là một cuộc đổi đời và trở về với Chúa rất đẹp, đẹp ngoài sự tưởng tượng của Cha. Câu chuyện này gồm ba bước:

1. Bước đầu tiên biết nhận tội:

Lúc đầu chúng con thấy người đàn bà này là một người hầu như chưa biết Chúa là ai. Thái độ của bà lại rất đanh đá. Bà không muốn tiếp chuyện với Chúa. Chỉ khi Chúa cho bà biết Chúa biết rất rõ về cuộc sống của bà, bà mới chịu nói chuyện.

“Xin cho tôi thứ nước đó để tôi khỏi còn phải ra đây kín nước nữa”

Chúa Giêsu đồng ý với một điều kiện:

“Về gọi chồng chị ra đây”

Khi nói thế Chúa biết bà ta sẽ trả lời thế nào rồi: “Tôi không có chồng”

Đúng là bà không có chồng. Chúa Giêsu biết điều đó và Chúa nói thật với bà “Chị đã có 5 đời chồng và người đang sống với chị không phải là chồng chị”.

Chúng con thấy bà ta phản ứng thế nào ? Bà ta im lặng, hoàn toàn im lặng như vậy là bà ta đã nhận lời Chúa nói là đúng.

Đây là việc đầu tiên của con đường trở về. Phải biết là mình có tội. Không biết nhận ra tội lỗi của mình thì không thể có sự trở về.

Mahatma Gandhi, vị lãnh đạo lừng danh của Ấn Độ, đã kể lại mẩu chuyện của đời ông:

Tôi phạm tội ăn cắp khi lên 15 tuổi Vì mắc nợ, tôi đã lấy trộm chiếc vòng bằng vàng của ba tôi để trả nợ. Nhưng tôi không thể nào chịu được sự ray rứt trong tâm hồn. Dù thế, vì quá mắc cỡ, tôi không thể nào mở miệng nói sự thật với ba tôi

Tôi viết lời thú tội vào một tờ giấy. Toàn thân tôi run rẩy khi tôi trao miếng giấy này cho ba tôi ông đã đọc, nhắm mắt lại một lúc và sau đó xé miếng giấy đi ông khẽ nói và choàng tay ôm tôi “Tốt lắm”.

Từ ngày đó, tôi lại càng yêu ba tôi hơn nữa”.

2. Bước thứ hai: Tin vào Thiên Chúa.

Tới đây thì câu chuyện đã chuyển sang một hướng khác. Khi bà ta thấy Chúa biết rõ về bà như thế thì lập tức bà thay đổi thái độ đối với Chúa: “Quả thật ngài là một ngôn sứ”.

Và kết cuộc thì thật kỳ diệu: Sau khi Chúa chỉ cho bà cách thức để bà có thể tìm gặp được một Thiên Chúa đích thực thì hình ảnh về một đấng Messia mà muôn dân đang mong đợi đã thoáng hiện ra trong tâm trí của bà: “Tôi biết Đấng Messia mà người ta gọi là Ki-tô sẽ đến và khi đến Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự”(Ga 4,25)

Chúa Giêsu đã được bà gọi là Đấng Messia. Điều này có nghĩa là gì ? Thưa là bà đã tin vào Chúa Giêsu. Tin vào Chúa đó là bước thứ hai. Bước này cũng rất cần thiết vì có tin thì mới có bước thứ ba, bước cuối cùng.

Có một câu chuyện thật hay, kể về Mc. Leod Campbell, một nhà giảng thuyết người Scotland siêu phàm.

Ngày kia, một người bạn của ông tìm đến với ông, trong tâm trạng bối rối về mặt thiêng liêng:

– Xin anh nói cho tôi nghe làm thế nào mà anh biết rằng anh luôn luôn giữ được Thiên Chúa ?

Nhà giảng thuyết im lặng một lúc lâu, rồi sau đó, ông nói:

– Làm sao mà tôi biết rằng mình luôn luôn giữ được Thiên Chúa! Không phải lúc nào tôi cũng biết được điều đó. Nhưng tôi nhận biết rằng Người luôn luôn gìn giữ tôi!

3. Bước cuối cùng: Làm chứng cho Chúa.

Tới đây thì mọi sự đã thay đổi. Người đàn bà này bỏ vò nước xuống, chạy về thành loan báo cho mọi người rằng: “Ra mà xem một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Phải chăng Ông đó là Đức Ki-tô!(Ga 4,29)

Một kết quả thật đẹp chúng con. Những người trong thành theo bà ra chỗ bà đã gặp Chúa. Họ đã thấy Chúa và sau khi được gặp Chúa họ đã tin Chúa: “Giờ đây không phải vì những lời chị kể mà chúng tôi tin, nhưng chính chúng tôi đã được nghe lời Người và chúng tôi biết Người thật là đấng Cứu Thế (Ga 4,42).

Thật quá đẹp chúng con.

Từ một con người tội lỗi, sau khi được giải thoát đã trở thành một người loan báo về Chúa cho những người khác. Từ một người không quen biết Chúa giờ đây đã trở thành người làm chứng để cho nhiều người cũng được biết Chúa: “Giờ đây không phải vì những lời chị kể mà chúng tôi tin, nhưng chính chúng tôi đã được nghe lời Người và chúng tôi biết Người thật là đấng Cứu Thế. (Ga 4,42)

Chúng ta cũng hãy cầu xin Chúa cho chúng ta cũng biết làm chứng cho tình thương của Chúa khi được biết Chúa, nhất là sau khi được Chúa thứ tha.

Một vua kia có vị thủ tướng rất tài giỏi vì học rộng biết nhiều. Ngày kia vị thủ tướng này trở lại đạo và luôn sống đức tin công giáo của mình trước mặt mọi người. Ngoài ra ông còn hay nói ông tin Đấng cứu thế đã đến thế gian để cứu chuộc loài người. Nhà vua nghe thế nhưng không hiểu. Một hôm kia nhà vua nói ông thủ tướng của mình: “Trẫm là vua, nếu trẫm thi hành điều gì thì chỉ cần truyền lệnh cho thần dân là đủ. Lẽ nào Đức Kitô là vua trên các vua mà lại tự hạ mình xuống thế gian này ? Điều đó rất vô lý!”
Vua muốn cho vị thủ tướng này về vườn, vì thấy ông tin theo Đức Kitô, song vua lại có lòng yêu mến ông nên hứa nếu ông giải nghĩa cho vua hiểu được việc này thì sẽ tha lỗi cho, không cách chức nữa. Vị thủ tướng xin vua cho mình suy nghĩ trong 24 giờ rồi sẽ giải đáp. Ông liền sai một người thợ mộc tài giỏi làm cho ông một tượng gỗ giống y hệt hình hoàng thái tử hai tuổi rồi cũng mặc quần áo giống hoàng thái tử. Ngày hôm sau lúc vua ngự thuyền rồng đi chơi với thủ tướng. Thủ tướng đã bố trí cho người thợ mộc ôm tượng hoàng thái tử đứng sắn ở sông bên kia, hễ xa xa thấy ông ra hiệu thì ném tượng hoàng thái tử xuống sông. Nhà vua đang ngồi trên thuyền chợt thấy tượng gỗ ấy rơi xuống sông, tưởng là con nên không kịp bảo ai, liến nhảy ngay xuống nước, bơi ra để cứu con.

Mọi sự xong xuôi, vị thủ tướng mới hỏi lại vua tại sao không sai một đầy tớ mà phải tự mình nhảy xuống nước làm gì, đến nỗi gần phải chết đuối và ướt hết long bào như thế. Vua trả lời: “Đó là do lòng thương”. Vị thủ tướng liền tâu với nhà vua: “Cũng giống như vậy, Đức Chúa Trời là Đấng Thượng Đế dựng nên thần cũng như muôn người muôn vật, cũng không đành lòng sai ai đem sứ mạng cứu rỗi xuống cho loài người; nhưng vì lòng yêu thương vô hạn, nên Ngài từ bỏ ngôi vinh hiển trên trời giáng xuống trần gian mà cứu chúng ta. Đó cũng là do nơi lòng thương chúng ta vậy!

Thánh lễ Chúa Nhật hôm nay có nhiều tên gọi: Người thì gọi là Chúa Nhật Chúa biến hình. Người thì gọi là Chúa nhật Chúa hiển dung. Gọi là Chúa nhật Chúa biến hình hay Chúa nhật Chúa hiển dung…đàng nào cũng có lý.

Riêng đối với tôi, tôi thích gọi là Chúa nhật Chúa biến hình và hiển dung. Hơi tham lam một chút nhưng gọi như thế mới lột hết được nội dung của biến cố Chúa thực hiện trước mặt các môn đệ rất thân tín của Chúa hôm nay.

A. Sự kiện

1- Việc Chúa biến hình và hiển dung hôm nay là một việc quan trọng. Việc này được cả ba Tin mừng nhất lãm tức là Tin mừng Thánh Matthêu, Thánh Marco và thánh Luca ghi lại. Câu chuyện này xảy ra 6 ngày sau khi Phêrô long trọng tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Điều đáng chú ý là ngay sau đó, lần đầu tiên Chúa báo trước cho các môn đệ của Ngài biết là Ngài sẽ bị bắt, bị tra tấn và cuối cùng sẽ phải chịu chết.

Lời loan báo của Chúa làm các tông đồ choáng váng. Phêrô không chịu nổi trước lời loan báo đó nên ông đã công khai lên tiếng can ngăn. Phêrô tưởng làm như thế là làm vui lòng Thầy. Có ngờ đâu là lại bị Chúa quở mắng cho một trận thậm tệ. Chúa bảo Phêrô là đồ Satan. Chúa đuổi Phêrô cút xa cho khỏi mắt Ngài. Và có lẽ vì muốn cho các môn đệ không phải quá thất vọng về mình nên Chúa đã thực hiện cuộc biến hình và hiển dung hôm nay.

Khi chú giải về đoạn Tin Mừng hôm nay, SGLM số 568 đã viết như sau: “Cuộc Hiển Dung của Chúa Ki-tô nhằm mục đích củng cố đức tin của các tông đồ trước cuộc khổ nạn: việc leo lên “núi cao” chuẩn bị việc leo lên Núi Sọ. Đức Ki-tô, Đầu của Hội Thánh, bày tỏ “niềm hy vọng đạt tới vinh quang” mà Thân Thể Người ấp ủ và chiếu tỏa qua các bí tích (Cl 1,27) (x. T. Lê-ô cả, bài giảng 51,3).

2. Vâng sự việc Chúa biến hình và hiển dung như thế nào thì bài Tin Mừng hôm nay đã cho chúng ta biết.

Sau này khi nhớ lại câu chuyện ông đã từng được chứng kiến, Phêrô đã viết như thế này: “Khi chúng tôi nói cho anh em biết quyền năng và cuộc quang lâm của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, thì không phải chúng tôi dựa theo những chuyện hoang đường được thêu dệt một cách khéo léo, nhưng là vì chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người..”.(2P1,16-17)

Vâng! Cuộc biến hình và hiển dung của Chúa đã làm cho các môn đệ vững tin hơn. Tuy nhiên niềm tin ấy còn phải được củng cố thêm bằng biến cố Phục sinh. Chỉ sau biến cố Phục sinh và được Chúa Thánh Thần biến đổi, các tông đồ mới trở thành những người hoàn toàn thuộc về Chúa.

B. Bài học

Thử hỏi câu chuyện hôm nay sẽ đem lại cho chúng ta bài học gì ? Có nhiều bài học nhưng ở đây tôi chỉ muốn nói đến sự biến hình.

* Có loại biến hình làm cho chúng ta phải sợ.

Các người Thổ Nhĩ Kỳ thường kể lại cho nhau câu chuyện sau:

Một chàng trai trẻ kia, con của một gia đình giàu có, danh giá, sống buông thả với đủ loại tật xấu, đặc biệt là cờ bạc, cha mẹ đã làm đủ mọi cách để giáo dục anh, nhưng không thành. Ngày kia, có một người đến khuyên ông bố rằng:

– Hãy tụ tập 80 người trẻ tốt lại và để cho học sống chung với chàng trai trẻ xấu nết kia. Gương sáng của họ rồi sẽ gây ảnh hưởng mạnh đến anh ta, và chẳng bao lâu đâu anh ta sẽ từ bỏ tật xấu để trở thành người mẫu mực:

Người Cha rất hài lòng với lời khuyên này. Ông cho đi tìm ở khắp nơi đủ 80 người anh em trẻ tốt lành và hứa sẽ trọng thưởng cho họ, nếu họ cộng tác giúp con ông.

Ông để cho 80 người này sống chung với con ông trong một ngôi nhà tách biệt, không ai khác được vào. Các bữa ăn được bên ngoài phụ giúp đưa vô…

Sau 80 ngày, người ta mở cửa ra xem cái gì đã xảy ra, người ta nhìn thấy cậu con trai ông chủ ngồi chơi bài, chung quanh cậu, 80 cậu con trai nhà lành kia cũng đang mê đánh bài không kém gì cậu ta! Sự nghiêm chỉnh của 80 cậu kia không làm ảnh hưởng gì trên chàng trai nọ; mà ngược lại, chính họ đã tiêm nhiễm tật xấu của anh ta!

Dowlan Hin, một nhà giảng thuyết trứ danh, trong một bài giáng đã kể câu chuyện như sau: ngày nọ, tôi xuống phố, thấy một bầy heo chạy theo một người. Tôi thấy lạ nên để ý xem. Lạ hơn nữa là bầy heo theo người đó vào lò sát sinh! Tôi thắc mắc hỏi người đó làm cách nào mà dụ dỗ được bầy heo tài tình như vậy ? Ông đáp:

– Ngài không thấy đó sao ? Tôi mang theo rổ đậu, thỉnh thoảng vãi mấy hạt đậu xuống đường. Thế là bầy heo tham ăn cứ chạy theo. . .Rồi ngài giảng tiếp:

Tôi nghĩ ma quỉ cũng áp dụng chiến thuật đó. Nó mang theo rổ đậu, rải trên đường trần và đám đông xô nhau chạy theo, đến tận lò sát sinh vĩnh hằng.

Có lẽ đây là một câu chuyện của thời đại của chúng ta. Những bậc làm cha làm mẹ, những nhà giáo dục và đạo đức hôm nay đang hết sức lo lắng cho đời sống của con cái mình.

Lý do là vì thời đại hôm nay có nhiều cám dỗ quá. Mà cám dỗ nào cũng nguy hiểm, nguy hiểm là hôm nay giới trẻ không thấy được mối nguy hiểm đó và sẵn sàng bước chân vào!

Chú chim sơn ca, đang thanh thản bay trên bầu trời cao, chợt trông thấy bên dưới một vật nhỏ di chuyển chầm chậm theo lối đi trong vườn. Hơi tò mò một chút, nó bay xuống thấp hơn để nhìn cho rõ. Đó là con mèo đẩy chiếc xe cút-kít và rao liên hồi: “Sâu non bán đây! Sâu non bán đây!”.

Thích thú, nó đáp xuống bên đường, nhưng ở một khoảng cách an toàn, và hỏi giá bao nhiêu một con sâu.

Mèo vồn vã nói:

– Ba con sâu béo đổi một chiếc lông cánh của bạn

Họa mi nghĩ: “Sao mà hồi dữ vậy, chỉ rút một chiếc lông cánh mà được thưởng thức tới ba con sâu ngon lành.

Thế rồi nó cất cánh bay lên lượn một vòng… nhưng tư tưởng về mấy con sâu béo ngậy lại kéo nó xuống gần chiếc xe hơn. Lần này nó đánh bạo đổi hai chiếc lông cánh, rồi cứ thế đổi hai chiếc nữa, hai chiếc nữa… và nhiều lần như vậy.

Nhưng con mèo tinh ranh đang quan sát nhất cử nhất động của họa mi. Bất ngờ, nó vung tay chộp ngay cánh, họa mi không thể thoát khỏi móng vuốt của nó… và mất mạng trong khu vườn… nơi mà cơn cám dỗ không cưỡng lại được.

* Và có những việc biến hình làm cho chúng ta mong ước.

Trong biến cố hôm nay Chúa đã làm biến đi tất cả những gì thuộc về con người trần thế của Ngài để cho sau đó hình ảnh về Thiên Chúa nơi Ngài sau đó được hiển lộ ra.

Cuộc đời của một người Kitô hữu trên con đường tiến về nhà cha trên trời cũng phải tương tự như thế. Mỗi ngày sống trên trần thế này là mỗi một cuộc lột xác biến hình và hiển dung.

Trong lịch sử danh nhân thế giới còn ghi lại câu chuyện này:

Một buổi sáng kia vào năm 300 trước Chúa giáng sinh, nhà hiền triết Bolena đang chơi giải trí với các sinh viên trước hàn lâm viện thành Athenè, thủ đô Hy Lạp, thì có một người đàn ông đến, tự giới thiệu là thầy tướng thời danh. Bấy giờ các sinh viên đề nghị ông xem tướng thầy mình là hiền triết Bolena. Ông thầy tướng nhìn nhà hiền triết Bolena một lát, rồi nói ngay: “Giáo sư của các anh chỉ là một con người “Mũi dòm miệng”, tức là con người chỉ biết nhậu nhẹt, say xỉn.

Nghe thế các sinh viên nóng ruột tức tối, định xông vào ông thày tướng dám nói ẩu cho ông ta một trận. Nhưng nhà hiền triết Bolena đã can ngăn họ bằng những lời như thế này:

– Này các trò, ông thầy tướng này giỏi thật đấy! Ông đã coi tướng thầy rất trúng. Khi còn trẻ, chính thầy là một thanh niên “mũi dòm miệng” nên lần kia, sau khi đã nhậu nhẹt say sỉn, thầy đã đến Hàn Lâm Viện này, để nhạo báng các sinh viên bằng những cử chỉ và lời nói thiếu lễ độ. Bấy giờ giáo sư là hiền triết Socrate rất bình tĩnh, bỏ ngay vấn đề đang nói, mà bàn ngay tới vấn đề đức tính và tiết độ, làm cho con người có giá trị, đáng được trọng kính. Nhưng lời giảng dạy trên đây, đã giáo dục thầy, đã làm cho thầy bỏ được tính mê nết xấu, và luyện tập đức tính nên ngày nay, thầy mới trở nên con người ích lợi cho xã hội và đất nước như thế này.

Chúng ta hãy nhớ. Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta giống hình ảnh của Người. Nhưng rồi thế gian xác thịt đã làm cho hình ảnh tốt đẹp đó phai mờ đi. Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta can đảm xây dựng lại hình ảnh tốt đẹp ban đầu để khi Chu1qa nhìn vào chúng ta, Chúa thấy chúng ta thật là hình ảnh của Người.

Thiếu nhi chúng con yêu quí,

Chúng con vừa nghe bài Tin Mừng của thánh Matthêu.

Tin Mừng hôm nay nói về cái gì chúng con ?

– Nói về việc Chúa biến hình.

– Còn gọi là Chúa hiển dung.

– Thế chúng con thích gọi là lễ gì nào ?

-….

– Riêng cha, cha thích gọi cả hai: Vừa biến hình vừa hiển dung. Tại sao thế ?

Đây cha cắt nghĩa cho chúng con.

Trước hết cha phải nói: Việc Chúa biến hình và hiển dung hôm nay là một việc quan trọng. Việc này được cả ba Tin mừng Nhất Lãm tức là Tin mừng Thánh Matthêu, Thánh Marco và thánh Luca ghi lại.

1. Sự kiện.

Câu chuyện này xảy ra 6 ngày sau khi Phêrô long trọng tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa.

Chúa biến hình để làm gì thì sách SGLM số 568 trả lời cho cho chúng ta “Cuộc Hiển Dung của Chúa Ki-tô nhằm mục đích củng cố đức tin của các tông đồ trước cuộc khổ nạn: việc leo lên “núi cao” chuẩn bị việc leo lên Núi Sọ. Đức Ki-tô, Đầu của Hội Thánh, bày tỏ “niềm hy vọng đạt tới vinh quang” mà Thân Thể Người ấp ủ và chiếu tỏa qua các bí tích (Cl 1,27) (x. T. Lê-ô cả, bài giảng 51,3).

Vâng sự việc Chúa biến hình và hiển dung như thế nào thì bài Tin Mừng hôm nay đã cho chúng ta biết.

Ở đây cha chỉ muốn lưu ý đến một vài điểm mà cha cho là cần phải để ý hơn.

a- Trước hết khi Chúa biến hình tất cả những gì thuộc con người của Ngài hoàn toàn biến mất. Không còn một chút dấu vết gì về con người của Ngài nữa.

b- Sau đó Ngài đã để hiểu lộ ra một Chúa Giêsu hoàn toàn khác. Ba môn đệ của Chúa đã phải ngây ngất trước một Chúa Giêsu hoàn toàn đổi ấy.

c- Thái độ của các môn đệ của Chúa làm cho chúng ta phải vui lây. Phêrô đã không ngần ngại đề nghị với Chúa để ông được làm một điều mà trước đó có lẽ chưa bao giờ ông dám nghĩ tới. Ông cũng như các bạn của ông đều muốn kéo dài đến bất tận cái cảnh tuyệt vời này.

d- Thế nhưng Chúa đã không cho ông được dừng lại ở đó. Chúa lại dẫn các ông xuống núi để tiếp tục cho xong con đường mà Chúa đã lựa chọn.

Sau này khi nhớ lại câu chuyện ông đã từng được chứng kiến Phêrô đã viết như thế này: “Khi chúng tôi nói cho anh em biết quyền năng và cuộc quang lâm của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, thì không phải chúng tôi dựa theo những chuyện hoang đường được thêu dệt một cách khéo léo, nhưng là vì chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người..”. (2P1,16-17)

Vâng! Cuộc biến hình và hiển dung của Chúa đã làm cho các môn đệ vững tin hơn. Tuy nhiên niềm tin ấy còn phải được củng cố thêm bằng biến cố Phục sinh. Chỉ sau biến cố Phục sinh và được Chúa Thánh Thần biến đổi, các tông đồ mới trở thành những người hoàn toàn thuộc về Chúa.

2. BÀI HỌC

Thử hỏi câu chuyện hôm nay sẽ đem lại cho chúng ta bài học gì ? Có nhiều bài học nhưng ở đây cha chỉ muốn nói đến sự biến hình.

Rõ ràng là mọi người đều thấy: Không phải chỉ có một lối biến hình, mà có hai: có loại biến từ tốt ra xấu. Giuđa là một thí dụ. Và có loại từ tầm thường nhưng mỗi ngày mỗi trở nên tốt hơn. Chúng ta có thể kể ra đây trường hợp của Phêrô. Chúng phải cảnh giác với loại thứ nhất và chú tâm vào loại thứ hai.

* Có loại biến hình làm cho chúng ta phải sợ.

Nhiều người đã có đã có dịp chiêm ngắm bức tranh bữa Tiệc Ly của nhà danh hoạ nổi người Ý Leonardo da Vinci. Bức ảnh vẽ Chúa Giêsu và 12 tông đồ trong bữa ăn Tiệc Ly sau hết.

Tục truyền rằng khi vẽ tới Chúa Giêsu, họa sĩ đã muốn tìm một khuôn mặt thật dịu dàng nhân từ, và đẹp đẽ, để làm mẫu cho ông vẽ. Thật là may mắn cho ông. Lần kia lúc vào một nhà thờ nọ, ông thấy trong đám thanh niên hát lễ, có Pietro Bandenelli, một thanh niên có nét mặt khôi ngô phi thường. Sau một hồi nói chuyện, cậu đã bằng lòng theo ông về xưởng vẽ của ông để làm mẫu cho ông vẽ. Cặm cụi vẽ xong, họa sĩ đem treo bức tranh ở xưởng, và ai hỏi mua ông cũng không bán. Mặc dù bức tranh chưa hoàn thành. Bức tranh còn thiếu một nhân vật cũng khá quan trọng. Đó là Giuđa. Ông lại phải đi tìm người mẫu.

Sau chừng hai năm, mặc dầu họa sĩ đã mất nhiều mất nhiều thời gian mà chưa tìm được người nào có nét mặt cứng cỏi và xấu xí tượng trưng cho nét mặt của Giuđa. Tình cờ một hôm ông vào một ngõ hẻm, thì gặp một người thanh niên bẩn thỉu, xấu xa, ghẻ lở, giơ tay xin ông bố thí. Ông nghĩ bụng, dầu có đi hết các phố chợ, có lẽ cũng chẳng gặp được ai xấu hơn chàng này. Ông bảo chàng đứng dậy đi theo về nhà để ông vẽ cho xong bức ảnh kia, bức ảnh còn thiếu một mình Giuda nữa là xong.

Khi bước vào nhà, trông thấy bức tranh, chàng tự nhiên khóc lên. Chủ nhà cũng như mọi người trong phòng đều ngạc nhiên không hiểu lý do. Người ta gặng hỏi mãi, chàng trỏ tay lên bức ảnh và nói:

– Ông quên tôi rồi sao ? Cách đây hai năm, tôi đã được ông mời đến đây để làm mẫu cho ông vẽ. Khi ấy tôi đẹp đẽ, đã được ông ca tụng và lấy làm mẫu để vẽ Chúa Giêsu. Nhưng sau đó tôi đã nhẹ dạ nghe theo chúng bạn, đâm ra hư hỏng chơi bời, sa đọa; ngày nay trong cảnh túng thiếu, bị các bạn và anh em bỏ rơi, tôi chỉ còn trông cậy vào đức ái của ông mà thôi.

Vâng một cuộc biến hình nhưng thật đáng ghê sợ.

Ngày nay cũng không thiếu gì những cảnh biến hình như thế. Nhất là đối với các bạn trẻ đang sống như con thiêu thân trước những cạm bẫy của cuộc sống hôm nay.

* Và có những việc biến hình làm cho chúng ta mong ước.

Trong biến cố hôm nay Chúa đã làm biến đi tất cả những gì thuộc về con người trần thế của Ngài để cho sau đó hình ảnh về Thiên Chúa nơi Ngài sau đó được hiển lộ ra.

Cuộc đời của một người Kitô hữu trên con đường tiến về nhà cha trên trời cũng phải tương tự như thế. Mỗi ngày sống trên trần thế này là mỗi lột xác biến hình và hiển dung.

Cha John Diamond một nhà giảng thuyết nổi tiếng bên Mỹ có kể lại câu chuyện này: “Hôm đó có một linh hồn vì chán ngấy cuộc sống ở thế gian cho nên linh hồn đi lên trước cửa Thiên đàng. Tới nơi linh hồn gõ cửa. Ở trong có tiếng hỏi vọng ra: “Ai đó” –

Linh hồn trả lời: “Con đây ạ” .

Cửa vẫn đóng.

Sau đó linh hồn lại trở về với đời sống ở trần thế tìm thầy học đạo. Sau một thời gian thấy mình đã tiến bộ, linh hồn lại lên gõ cửa thiên đàng một lần nữa. Lại một tiếng hỏi từ bên trong như lần trước và linh hồn trả lời một cách quả quyết hơn:

– Dạ chính con đây.

Cửa vẫn đóng.

Linh hồn lại phải trở về trần thế…mở sách Tin Mừng để xem Chúa muốn gì. Quả thực khi mở Tin Mừng ra linh hồn mới thấy con đường của mình phải đi. Đó là con đường tự hủy. Chúa nói thật rõ về con đường đó. Đó là phải làm chết cái tôi ích kỷ, hay khoe khoang phô trương, hay tự mãn, hay ghen ghét của mình. Phải làm chết đi cái tôi đầy hận thù, nhiều kiêu ngạo và đầy dẫy những ham muốn bất chính để làm cho con người của mình dần dần được giống Thiên Chúa là Cha ở trên trời hơn.

Sau một thời gian thấy mình quả thực đã không còn là mình nữa thì linh hồn lại lên trời…lại gõ cửa…lại có tiếng từ bên trong hỏi vọng ra:

– Ai đó ?

Vừa nghe xong câu hỏi linh hồn đáp lại ngay:

– Dạ thưa chính Chúa đấy ạ.

Vừa trả lời xong thì linh hồn thấy cửa Thiên đàng được mở ra và cả một đạo binh các thiên thần long trọng đón linh hồn vào thiên đàng. Amen.

Điều đáng chú ý là ngay sau đó lần đầu tiên Chúa báo trước cho các môn đệ của Ngài biết là Ngài sẽ bị bắt, bị tra tấn và cuối cùng sẽ phải chịu chết.

Lời loan báo của Chúa làm các tông đồ choáng váng. Phêrô không chịu nổi trước lời loan báo đó nên ông đã công khai lên tiếng can ngăn Chúa. Phêrô tưởng làm như thế là làm vui lòng Thầy. Có ngờ đâu là lại bị Chúa quở mắng cho một trận thậm tệ. Chúa bảo Phêrô là đồ Satan. Chúa đuổi Phêrô cút xa cho khỏi mắt Ngài.

Và có lẽ vì muốn cho các môn đệ không phải quá thất vọng về mình nên Chúa đã thực hiện cuộc biến hình và hiển dung hôm nay.

Tin Mừng hôm nay thuật lại câu chuyện Chúa Giêsu chịu cám dỗ. Chúa chịu cám dỗ tới ba lần, mỗi lần mỗi khác. Ma quỉ đã nhắm vào những chỗ yếu nhất của con người để cám dỗ Chúa.

1. Cám dỗ đầu tiên còn nằm trong lãnh vực vật chất có liên hệ tới những nhu cầu tự nhiên.

a/ Sau những ngày Chay tịnh Chúa cảm thấy đói. Đói là một hiện tượng sinh lý tự nhiên sau khi Chúa đã nhịn ăn 40 ngày. Thời gian 40 ngày theo khoa học là giới hạn con người có thể chịu được.

Đói cần phải ăn. Đó là chuyện bình thường.

b/ Ma quỉ cám dỗ Chúa. Nó không bảo Chúa phải ăn nhưng nó xui Chúa “hãy biến đã thánh bánh mà ăn”.

Dùng cơm bánh mà ăn cho khỏi đói, đó là chuyện bình thường, nhưng biến đá thành bánh mà ăn thì đó là chuyện khác thường.

Dùng uy quyền để phục vụ Thiên Chúa là chuyện bình thường, nhưng dùng quyền mà mưu lợi cho cá nhân của mình chứ không phải lo cho chương trình cứu độ của Thiên Chúa thì đó là chuyện khác thường.

Nếu Chúa làm như ma quỉ đề nghị thì Chúa sẽ không còn phải là Con của Thiên Chúa nữa, mà đã trở thành dụng cụ trong tay ma quỉ rồi. Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã dứt khoát khước từ.

Chúa đã chiến thắng. Ma quỉ đã không thể làm xiêu lòng Chúa.

c/ Phần chúng ta, ma quỉ cũng không tha chúng ta. Chúng ta cũng có rất nhiều nhu cầu chính đáng cần phải được thỏa mãn.

Nhưng vấn đề là chúng ta phải thỏa mãn bằng cách nào. Bằng những phương tiện chính đáng hay bằng mọi giá kể cả những phương tiện bất chính ? Làm việc để có tiền bạc mà tiêu dùng. Đó là việc chính đáng. Làm đồ giả, buôn bán xì ke ma túy, đi ăn cắp dưới mọi hình thức…những việc mà ai cũng biết là bất chính. Thế nhưng nhiều khi biết mà người ta cũng vẫn cứ làm. Làm như vậy là đã mắc mưu ma quỉ rồi.

Hãy xin Chúa cho chúng ta can đảm…biết can đảm để cự tuyệt những gì là bất chính để được nên một với Chúa Giêsu Chúa của chúng ta.

2. Cám dỗ thứ hai ma quỉ đưa lên một bình diện cao hơn...nó không còn dừng lại ở trong lãnh vực có tính cách vật chất nữa mà đã vươn lên tới lãnh vực tinh thần.

Một số nhà chú giải Kinh Thánh gọi đây là cám dỗ của vườn địa đàng… Tại vườn địa đàng ma quỉ dụ dỗ con người để con người trở thành kẻ đối đầu với Thiên Chúa. Ở đây cũng thế, bằng những lời đường mật ma quỉ muốn Chúa Giêsu trở thành người thách thức Thiên Chúa. “Nếu ông là con Thiên Chúa” (Mt 4,6)

Chúa còn phải chịu cám dỗ này nhiều lần trong suốt cuộc đời trần thế của mình.

Lúc Chúa chịu đóng đinh….ở dưới có những tiếng nói vọng lên “Nếu nó là Con Thiên Chúa”…

Bên cạnh Chúa…thật sát cạnh, cũng một giọng điệu tương tự như thế phát xuất ra từ môi miệng của một tên trộm cùng bị đóng đinh với Chúa “Nếu ông là con Thiên Chúa..”.

Không! Chúa đã không rơi vào cạm bẫy của ma quỉ. Chúa đã thẳng thắn trả lời. “Ngươi chớ thử thách Thiên Chúa”.

Chúa lại chiến thắng. Ma quỉ đã không thể làm cho Chúa đầu hàng.

Phần chúng ta nhiều khi chúng ta cũng bị cám dỗ muốn thử thách Thiên Chúa. Có lần Charles Foucauld đã kêu lên “Nếu thực có Chúa thì Chúa hãy cho tôi biết Ngài đi”

Xin Chúa Giêsu giúp cho chúng ta biết mau mắn điều chỉnh lại thái độ của chúng ta để đừng bao giờ làm cho Chúa phải buồn.

Đức Gioan XXIII trên giường bệnh đương chịu Bí Tích Xức Dầu, quanh người, ai cũng sụt sùi khóc. Người liền đập lia lịa vào thành giường, kêu lên hầu như tức giận:

“Nào! Can đảm lên! Can đảm lên! Chưa phải Requiem mà!”

“Giường này là một bàn thờ. Bàn thờ đòi hỏi của lễ. Tôi sẵn sàng. Tôi thấy rõ trước mặt hình ảnh linh hồn tôi, đời linh mục tôi, Công Đồng, Giáo hội phổ quát”.

3. Cám dỗ thứ ba nham hiểm và ác độc hơn. Nó nhắm vào sự thèm muốn thâm sâu nhất của con người: Thèm muốn quyền lực để được hưởng thụ.

Để có được quyền hành và hưởng thụ ma quỉ đề nghị Chúa phải thờ lạy nó. Thật là một đề nghị trớ trêu nhưng không kém phần hấp dẫn. Chỉ bằng một việc làm rất dễ dàng mà lại có được tất cả….

Nhưng Chúa đã chiến thắng.

Kính thưa anh chị em, không cần phải nói nhiều, cũng không cần phải dẫn chứng, anh chị em cũng có thể thấy cơn cám dỗ về quyền lực và hưởng thụ ngày hôm nay nó mạnh như thế nào và đồng thời anh chị em cũng thấy được những hậu quả của nó ra sao…Nếu không can đảm chiến đấu sớm muộn gì rồi chúng ta cũng sẽ trở thành nô lệ cho nó và lúc đó thì chúng ta sẽ không biết nó sẽ lôi kéo ta đi tới đâu và bắt chúng ta làm cho nó những gì.

Đức Chúa Arthur Tone có thuật lại một câu chuyện thật đau lòng như sau. Trong ngôi nhà tù nổi tiếng có tên là Sing Sing ở New York, một tù nhân bị đem ra hành hình vì tội đã giết một cảnh sát viên. Trước khi chết, người ta cho anh ta được nói những lời cuối cùng. Với một giọng đau đớn đến cực độ anh ta thét lớn lên “Tất cả đã bắt đầu từ khi tôi ăn cắp đồng năm xu trong túi của Mẹ tôi…..Rồi tôi ăn cắp hai đồng năm xu…sau đó tôi ăn cắp đồ vật ở trường học, ở tiệm tạp hóa, ở tiệm thuốc. Hai đứa bạn và tôi bắt đầu tập luyện… Chúng tôi kiếm được mỗi ngày mỗi nhiều hơn. Sau đó chúng tôi quyết định cướp ngân hàng và lần đó tôi đã bắn gục viên cảnh sát. Đó, tất cả bắt đầu từ một đồng năm xu” Chúng ta không thể lường trước được.

Ma quỉ rất khôn khéo và xảo quyệt.

Từ đồng năm xu đi đến chỗ giết người. Con đường tưởng như xa nhưng lại rất gần

Từ một ngụm rượu cho đến tật say sưa…con đường cũng tương tự như thế.

Có ai ngờ được rằng chỉ một vi lần hút thử mà rồi rơi vào cơn nghiện ngập lúc nào không hay. Con đường tưởng xa mà hóa ra lại tất gần v.v…

Tác giả Sách ĐHV viết: “Con nên biết: cựu thù con hằng tìm mọi mánh lới để làm kiệt quệ những ước muốn tốt trong con, và làm cho con bỏ những việc đạo đức, như kính các thánh, suy gẫm Cuộc Tử Nạn Cha, nhớ lại tội lỗi con, chuyên lo canh giữ lòng con và quyết chí tiến bộ trong đường nhân đức.

Nó gợi cho con trăm nghìn tư tưởng xấu để làm cho con nản chán và khiếp sợ, cho con bỏ cầu nguyện và đọc sách thiêng liêng.

Thấy con khiêm tốn đi xưng tội nó bực lắm, và – nếu có thể – nó cố làm cho con bỏ rước lễ.

Con đừng tin nó, cũng đừng bận tâm đến nó, dầu nó giương bẫy luôn để bắt con.

Những tư tưởng xấu xa và dâm ô nó gợi cho con, con hãy đổ lên đầu nó và hãy bảo thẳng nó: “Xéo đi, hỡi quỷ dơ bẩn! Đồ khốn nạn, xấu hổ cho ngươi! Ngươi thực dơ bẩn vô cùng mới nói với ta bằng những luận điệu như thế”.

“Hãy xéo đi cho rảnh, quân bịp bợm xấu xa! Ngươi chẳng liên quan gì đến ta, Chúa Giêsu, sẽ ngự trong ta như một nhà thiện chiến thế lực và ngươi sẽ phải thất bại xấu hổ.

“Ta thà chết và chịu mọi thứ khổ hình còn hơn đồng ý cái ngươi xui ta”.

“Im đi, đừng nói nữa”; dầu ngươi khuấy khuất ta cũng không nghe,

“Chúa là ánh sáng và nguồn sống của ta, ta còn sợ gì ai”.

“Dầu hùng binh công kích ta, lòng ta cũng chẳng sợ”.

“Chúa là Quan Thầy và là Đấng Cứu Chuộc ta”.

Con hãy chiến đấu ra dáng một tinh binh. Thản hoặc đôi khi vì yếu đuối mà ngã, con hãy đứng dậy ngay, can đảm hơn trước, tin tưởng ơn Cha sẽ giúp mãnh lực hơn. Điều cốt yếu con hãy giữ là đừng tự phụ và kiêu ngạo.

Chính cái đó đã làm cho bao người lầm lạc và mù tối hầu bất trị đấy.

Ước chi gương thất bại của những người kiêu ngạo tự nâng mình lên một cách điên dại sẽ là bài học phòng thân và tự hạ cho con”.

Hãy can đảm anh chị em. Như Chúa Giêsu chúng ta hãy chiến đấu để giành chiến thắng. Sự thất bại sẽ dẫn chúng ta vào cảnh nhục nhã. Trong vườn địa dùng Adam và Eva đang được sống cảnh vinh quang hạnh phúc với Thiên Chúa. Thế nhưng sau khi thất bại, nghe lời con rắn mà ăn trái cấm thì lập tức hai ông bà thấy mình trần truồng và sau đó bị tống cổ ra khỏi vườn địa đàng, phải sống những ngày cơ cực. Thật là tủi nhục.

Hãy can đảm anh chị em. Như Chúa Giêsu chúng ta hãy chiến đấu để giành chiến thắng. Sự thất bại sẽ dẫn chúng ta vào cảnh nhục nhã.

Chúa Giêsu đã chiến thắng, chiến thắng cả sự chết. Chúa đã chiến thắng và bước vào cõi vinh quang để trở thành Cứu Chúa của mọi người. Hãy can đảm chiến đấu và chiến thắng như Chúa Giêsu để cũng được chia sẻ vinh quang với Người. Amen.