07/10 – Thứ Tư tuần 27 thường niên. – Đức Mẹ Mân Côi. Lễ nhớ.
“Này Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một Con trai”.

LỜI CHÚA: Lc 1, 26-38

Khi ấy, Thiên Thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: “Kính chào Trinh Nữ đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Trinh Nữ”.

Nghe lời đó, Trinh Nữ bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì.

Thiên thần liền thưa: “Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa. Này Trinh Nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận.

Nhưng Maria thưa với thiên thần: “Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?”

Thiên thần thưa: “Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ. Vì thế, Ðấng trinh nữ sinh ra sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ trinh nữ cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được”.

Maria liền thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền”. Và thiên thần cáo biệt trinh nữ.

06/10 – Thứ Ba tuần 27 thường niên.
“Martha rước Người vào nhà mình. Maria đã chọn phần tốt nhất”.

Lời Chúa: Lc 10, 38-42

Khi ấy Chúa Giêsu vào một làng kia, và có một phụ nữ tên là Martha rước Người vào nhà mình. Bà có người em gái tên là Maria ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người. Martha bận rộn với việc thết đãi khách. Bà đứng lại thưa Người rằng: “Lạy Thầy, em con để con hầu hạ một mình mà Thầy không quan tâm sao? Xin Thầy bảo em con giúp con với”.

Nhưng Chúa đáp: “Martha, Martha, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện (quá). Chỉ có một sự cần mà thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất”.

05/10 – Thứ Hai tuần 27 thường niên.
“Ai là anh em của tôi?”

Lời Chúa: Lc 10, 25-37

Khi ấy, có một người thông luật đúng dậy hỏi thử Chúa Giêsu rằng: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?” Người nói với ông: “Trong Lề luật đã chép như thế nào? Ông đọc thấy gì trong đó?” Ông trả lời: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi, và hãy thương mến anh em như chính mình”. Chúa Giêsu nói: “Ông trả lời đúng, hãy làm như vậy và ông sẽ được sống”. Nhưng người đó muốn bào chữa mình, nên thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Nhưng ai là anh em của tôi?”

Chúa Giêsu nói tiếp: “Một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, và rơi vào tay bọn cướp; chúng bóc lột người ấy, đánh nhừ tử rồi bỏ đi, để người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ một tư tế cũng đi qua đường đó, trông thấy nạn nhân, ông liền đi qua. Cũng vậy, một trợ tế khi đi đến đó, trông thấy nạn nhân, cũng đi qua. Nhưng một người xứ Samaria đi đường đến gần người ấy, trông thấy và động lòng thương. Người đó lại gần, băng bó những vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa của mình, đưa về quán trọ săn sóc. Hôm sau, lấy ra hai quan tiền, ông trao cho ông chủ quán mà bảo rằng: “Ông hãy săn sóc người ấy, và ngoài ra còn tốn phí hơn bao nhiêu, khi trở về tôi sẽ trả lại ông”.

“Theo ông nghĩ, ai trong ba người đó là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?”

Người thông luật trả lời: “Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy”.

Và Chúa Giêsu bảo ông: “Ông cũng hãy đi và làm như vậy”.

04/10 – Chúa Nhật 27 Thường Niên năm A. – Kính trọng thể LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI.
“Ông sẽ cho người khác thuê vườn nho”.

Lời Chúa: Mt 21, 33-43

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các thượng tế và các kỳ lão trong dân rằng: “Các ông hãy nghe dụ ngôn này: Có ông chủ nhà kia trồng được một vườn nho. Ông rào dậu chung quanh, đào hầm ép rượu và xây tháp canh, đoạn ông cho tá điền thuê, rồi đi phương xa. Đến mùa nho, ông sai đầy tớ đến nhà tá điền để thu phần hoa lợi. Nhưng những người làm vườn nho bắt các đầy tớ ông: đánh đứa này, giết đứa kia và ném đá đứa khác. Chủ lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước, nhưng họ cũng xử với chúng như vậy. Sau cùng chủ sai chính con trai mình đến với họ, vì nghĩ rằng: Họ sẽ kính nể con trai mình. Nhưng bọn làm vườn vừa thấy con trai ông chủ liền bảo nhau: “Đứa con thừa tự kia rồi, nào anh em! Chúng ta hãy giết nó đi và chiếm lấy gia tài của nó”. Rồi họ bắt cậu, lôi ra khỏi vườn nho mà giết. Vậy khi chủ về, ông sẽ xử trí với bọn họ thế nào?”

Các ông trả lời, “Ông sẽ tru diệt bọn hung ác đó, và sẽ cho người khác thuê vườn nho để cứ mùa nộp phần hoa lợi”.

Chúa Giêsu phán: “Các ông chưa bao giờ đọc thấy trong Kinh Thánh: “Chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc. Đó là việc Chúa làm và là việc lạ lùng trước mắt chúng ta!” Bởi vậy, Tôi bảo các ông: Nước Thiên Chúa sẽ cất khỏi các ông để trao cho dân tộc khác biết làm cho trổ sinh hoa trái”.

GXTĐ – Tông huấn Amoris Laetitia Niềm vui của Tình yêu (trích) Đức Giáo Hoàng Phanxicô.

209. Việc cộng đồng giáo xứ chuẩn bị đúng lúc cho các cặp đính hôn cũng nên giúp họ nhận ra các vấn đề và nguy cơ có thể CÓ. Nhờ cách này, họ có thể tiến tới chỗ hiểu ra sự khôn ngoan của việc hủy bỏ một mối liên hệ mà họ thấy trước sẽ thất bại và gây đau khổ về sau. Trong sự say mê nhau lúc ban đầu, cặp đính hôn dám có mưu toan che dấu hay tương đối hóa một số sự việc nào đó hay tránh bất đồng với nhau; chỉ để sau đó xấy ra không biết bao nhiêu vấn đề. Vì lý do này, họ nên được khuyến khích một cách mạnh mẽ trong việc thảo luận xem mỗi người mong ước gì ở cuộc hôn nhân, hiểu những gì về lòng yêu thương và sự cam kết, muốn gì ở người kia và cùng nhau xây dựng loại cuộc sống nào. Những cuộc thảo luận như thế sẽ giúp họ thấy rõ có phải thực ra họ có rất ít điểm chung với nhau và hiểu ra rằng chỉ sự lôi cuốn lẫn nhau mà thôi sẽ không đủ để giữ họ lại với nhau. Không điều gì dễ thay đổi, nhất thời và ít đoán trước được bằng sự thèm muốn. Không bao giờ nên khích lệ một quyết định kết hôn trừ khi cặp đính hôn biện phân được các lý do sâu sắc hơn giúp đảm bảo một cam kết chân chính và bền vững.

5 phút Lời Chúa Mỗi Ngày: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường.” (Mt 21,42)

Suy niệm: Nói về những người có đầu óc thiển cận, hẹp hòi, ông cha ta thường sánh vi họ là “ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng vung. Các tá điền vườn nho trong câu chuyện dụ ngôn không chỉ thiển cận, tham lợi trước mắt để trở mặt với ông chủ; họ còn to gan cóc tía, dám đánh đập, giết chết những người ông chủ sai đến, thậm chí còn thủ tiêu luôn người con duy nhất của ông, với tham vọng “đoạt lấy cả gia tài” của cậu nữa. Dù vậy, lòng tham lam độc ác đến độ điên cuồng của họ cũng không thắng được sự khôn ngoan và lòng quảng đại của Thiên Chúa. Từ “tảng đá bị loại bỏ” – kết quả của sự phản loạn của họ – Chúa đã biến đổi cách kỳ diệu thành “đá tảng góc tường.” “Người con thừa tự” mà họ tưởng đã tiêu diệt thành công lại trở nên nguồn cứu độ cho muôn người.

Mời Bạn: Dù con người phạm tội chống lại Thiên Chúa, Ngài vẫn yêu thương và phục hồi mối tương quan thân thiết với Ngài, và giữa con người với nhau nhờ Người Con yêu dấu là Đức Giê-su. Như tảng đá bị loại bỏ, Chúa Giê-su đã chịu chết trên thập giá và hiến mình trong bí tích Thánh Thể để trở thành đá tảng góc tường xây dựng toà nhà Hội Thánh, là Nước Trời, vương quốc của Tình Thương. Chúa Giê-su cảnh bảo Ngài sẽ cất Nước Thiên Chúa khỏi những con người phản loạn. Bạn có còn cứng lòng thù nghịch với Thiên Chúa hay săn lòng cùng với Đức Giê-su sống tinh thần phục vụ để sinh lợi cho Nước Trời?

Sống Lời Chúa: Dành ít phút chiêm ngắm người con trai của ông chủ vườn nho, hình ảnh của Chúa Giê-su chịu khổ nạn và quyết tâm phục vụ tha nhân qua việc bốn phận hằng ngày của mình.

Cầu nguyện: Đọc kinh Lạy Cha.

THÔNG TIN GIÁO XỨ:

Các linh mục phụ trách: Lm. Phaolô Nguyễn Quốc Hưng – Lm. G.B Đỗ Quốc Vinh – Lm. G.B Nguyễn Trọng Tín.

Thánh lễ:

  • Ngày thường: 5g00; 6g15; 17g30; 19g00
  • Chúa nhật: 5g00; 6g15; 7g30; 9g00; 16g00; 17g30; 19g00

Giải tội: Sau lễ sáng & trước lễ chiều ngày thường; Chúa nhật: 17g00 – 19g00

Chầu Thánh Thể: Mỗi ngày tại nhà chầu; 15g ngày Chúa nhật tại nhà thờ.

Rửa tội trẻ em: 10g15 Chúa Nhật mỗi cuối tháng

Văn phòng giáo xứ:

  • T3-T7: 7g30 – 11g30; 14g30 – 18g30
  • Chúa nhật: 6g30 – 10g30; 16g30 – 20g30
  • Thứ hai nghỉ cả ngày

LỊCH TUẦN 04/10 – 10/10/2020

  • Chúa nhật, 04/10: CHÚA NHẬT XXVII THƯỜNG NIÊN.
  • Thứ hai, 05/10:
  • Thứ ba, 06/10: Thánh Brunô, linh mục.
  • Thứ tư, 07/10: Đức Mẹ Mân Côi. Lễ nhớ.
  • Thứ năm, 08/10:
  • Thứ sáu, 09/10: Thánh Điônysiê giám mục, và các bạn, tử đạo. Thánh Gioan Leonardô, linh mục.
  • Thứ bảy, 10/10:

THÔNG BÁO: TUẦN 04/10 – 10/10/2020

  1. Chúng ta bước vào tháng Mân Côi, xin anh chị em tại gia đình, trong các sinh hoạt đoàn thể, tại các lớp giáo lý,… chúng ta cùng đọc Kinh Mân Côi liên kết với nhau và với giáo xứ cùng cầu nguyện đặc biệt cho việc tu sửa nhà thờ được bình an. Đặc biệt vào lúc 17 giờ 00 hàng ngày có lần chuỗi Mân Côi, mời anh chị em cùng tham dự thật đông đảo.
  2. Thứ tư tuần này 07/10 Lễ Đức Mẹ Mân Côi. Sau Thánh Lễ có cuộc Rước kiệu Đức Mẹ trọng thể. Mời cộng đoàn cùng tham dự cuộc Rước kiệu nhằm thể hiện lòng yêu mến Mẹ kính yêu của chúng ta.
  3. Xin cộng đoàn cùng cầu nguyện cho cha Anrê người Ý vừa mới qua đời sau 3 năm bị ung thư, ngài đã từng phục vụ tại Việt Nam và là ân nhân của giáo xứ Tân Định khi giáo xứ xây dựng Phòng khám đa khoa, ngài đã xin Hội Đồng Giám Mục Ý tài trợ 1 phần kinh phí.
  4. Số tiền anh chị em giúp cho Đại Chủng Viện tuần qua được 100 triệu đồng. Xin cám ơn anh chị em. Hôm nay xin cộng đoàn giúp cho việc trùng tu Nhà Thờ Đức Bà.
  5. Hiện nay nhà thờ đang sửa chữa phần mái ngói bị hư hỏng nặng nên xin anh chị em có con nhỏ di tham dự Thánh Lễ không để cho các cháu chạy nhảy, leo trèo khu vực hàng rào bao quanh công trình.

THÁNG 10 THÁNG MÂN CÔI

Các tín hữu nên cầu nguyện bằng kinh Mân Côi và hiểu rõ bản chất cũng như tầm quan trọng của kinh này. Những ai lần chuỗi Mân Côi trong Nhà thờ, nhà nguyện, hoặc trong gia đình, trong cộng đoàn tu trì, hoặc khi nhiều người họp nhau nhằm mục đích tốt, thì được hưởng một ơn đại xá, còn đọc trong những hoàn cảnh khác , thì được hưởng một ơn tiểu xá.

Lm. Chánh xứ
Phaolô Nguyễn Quốc Hưng

 

03/10 – Thứ Bảy đầu tháng, tuần 26 thường niên.
“Các con hãy vui mừng vì tên các con đã được ghi trên trời”.

Lời Chúa: Lc 10, 17-24

Khi ấy, bảy mươi hai ông trở về vui mừng và nói rằng: “Thưa Thầy, nhân danh Thầy thì cả ma quỷ cũng vâng phục chúng con”. Người bảo: “Ta đã thấy Satan từ trời sa xuống như luồng chớp. Này Ta đã ban cho các con quyền giày đạp rắn rết, bọ cạp, mọi quyền phép của kẻ thù, và không có gì có thể làm hại được các con. Dù vậy, các con chớ vui mừng vì các thần phải vâng phục các con; nhưng hãy vui mừng vì tên các con đã được ghi trên trời”.

Lúc đó, Chúa Giêsu đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần, Người nói: “Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết những điều này, nhưng đã tỏ cho những kẻ đơn sơ. Vâng, lạy Cha, đó là ý Cha đã muốn thế. – Cha Ta đã trao cho Ta mọi sự. Không ai biết Chúa Con là ai, ngoài Chúa Cha; cũng không ai biết Chúa Cha là Đấng nào, ngoài Chúa Con, và những người được Chúa Con muốn tỏ cho biết”. Rồi Chúa Giêsu quay lại phía các môn đệ và phán: “Hạnh phúc cho những con mắt được xem những điều các con xem thấy, vì chưng, Thầy bảo các con: Có nhiều tiên tri và vua chúa đã muốn xem những điều các con thấy, mà chẳng được xem, muốn nghe những điều các con nghe, mà đã chẳng được nghe”.

 

02/10 – Thứ Sáu đầu tháng, tuần 26 thường niên. – Các thiên thần hộ thủ. Lễ nhớ.
“Các thiên thần của họ trên trời hằng chiêm ngưỡng thánh nhan Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời”.

LỜI CHÚA: Mt 18, 1-5. 10

Khi ấy, các môn đệ đến bên Chúa Giêsu mà hỏi rằng: “Thưa Thầy, ai là kẻ lớn nhất trong Nước Trời?” Chúa Giêsu gọi một trẻ nhỏ lại, đặt nó giữa các ông mà phán rằng: “Thật, Thầy bảo thật các con: nếu các con không hoá nên như trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời.

Vậy ai hạ mình xuống như trẻ nhỏ này, người ấy là kẻ lớn nhất trong Nước Trời. Và kẻ nào đón nhận một trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón nhận Thầy. Các con hãy coi chừng, đừng khinh rẻ một ai trong những kẻ bé mọn này, vì Thầy bảo các con, thiên thần của chúng trên trời hằng chiêm ngưỡng thánh nhan Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời”.

Chủ sự: Lm. Gioan Baotixita Đỗ Quốc Vinh

Kính mời quý vị cùng hiệp thông và đừng quên nhấn vào nút “Đăng ký” để theo dõi những video mới nhất từ Giáo xứ Tân Định.

Hình ảnh Thánh lễ:

 
Failed to get data. Error:
Request had insufficient authentication scopes.

Kênh Youtube của giáo xứ Tân Định:

Chủ đề học hỏi và suy niệm tháng 10 năm 2020

Các bạn trẻ thân mến,

Tháng Chín vừa qua, chúng ta đã suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô – Đường Thinh Lặng. Tháng Mười này, chúng ta cùng nhau suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô – Đường Khiêm Hạ. Theo nội dung đức tin Ki-tô giáo, với quyền năng của Người, Đức Giê-su có thể đến với gia đình nhân loại theo nhiều cách thức khác nhau. Tuy nhiên, Người đã đến bằng Đường Khiêm Hạ để phục hồi phẩm giá con người và cho con người được tham dự vào sự sống viên mãn của Thiên Chúa.

Từ ‘khiêm hạ’ trong tiếng Việt tương đương với ‘humility’ trong tiếng Anh, phát xuất từ tiếng La Tinh ‘humilis’ (thấp, gần mặt đất; humus: đất). Khiêm hạ là đặc tính căn bản diễn tả thân phận con người trước mặt Thiên Chúa. Trong Kinh Thánh, khiêm hạ ngược lại với khoe khoang, kiêu ngạo. Người khiêm hạ không tự cao tự đại, nhưng cậy dựa vào Thiên Chúa (Cn 3,7; Tv 131,1; Rm 12,3.16). Khiêm hạ là thái độ của con người, thụ tạo tội lỗi trước Đấng toàn năng, chí thánh, và nhìn nhận rằng mọi sự mình có đều do Người ban tặng (1 Cr 4,7). Người khiêm hạ biết mình là tội nhân, là đầy tớ vô dụng (Lc 5,8; Lc 17,10; Gl 6,3). Họ mở lòng đón nhận ơn Thiên Chúa, vì Thiên Chúa hằng đoái thương họ (Gc 4,6; 1 Sm 2,7; Cn 15,33). Nói chung, khiêm hạ diễn tả thái độ con người ‘biết mình’, ‘biết tha nhân’, ‘biết Thiên Chúa’ và ‘biết luôn qui hướng về Người’.

Trong Cựu Ước, đặc tính khiêm hạ gắn liền với những người mọn hèn trong xã hội. Họ là ‘những người nghèo của Gia-vê (Đức Chúa)’ và phó thác hoàn toàn cuộc sống mình cho Người. Họ luôn là ‘những đối tượng đặc biệt’ của tình yêu Thiên Chúa, Đấng luôn lắng nghe và ra tay giải thoát họ khỏi cảnh áp bức, bất công như Lời Thiên Chúa phán trong sách ngôn sứ I-sai-a: “Kẻ được Ta đoái nhìn: Đó là người nghèo khổ, người có tâm hồn tan nát, người nghe lời Ta mà run sợ” (Is 66,2). Hơn nữa, Thiên Chúa còn đưa ra những huấn lệnh cho dân Do-thái là phải tôn trọng, quan tâm và chăm sóc họ. Lịch sử Cựu Ước cũng là lịch sử của việc Thiên Chúa đề cao người khiêm hạ, chống lại phường kiêu căng. Đặc biệt, những người khiêm hạ được Thiên Chúa mời gọi cộng tác vào chương trình cứu độ của Người.

Áp-ra-ham, Mô-sê và Đa-vít là những người khiêm hạ điển hình trong Cựu Ước, chẳng hạn, Áp-ra-ham nói với Thiên Chúa: “Con chỉ là thân tro bụi” (St 18,27); Mô-sê được mô tả là “người hiền lành nhất đời” (Ds 12,3); Đa-vít thân thưa cùng Thiên Chúa: “Lòng con chẳng dám tự cao, mắt con chẳng dám tự hào, Chúa ơi! Đường cao vọng, chẳng đời nào bước, việc diệu kỳ vượt sức, chẳng cầu; hồn con, con vẫn trước sau giữ cho thinh lặng, giữ sao thanh bình. Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ, trong con, hồn lặng lẽ an vui” (Tv 131,1-2). Các ngôn sứ của Thiên Chúa là những người khiêm hạ, chẳng hạn, ngôn sứ I-sai-a thốt lên: “Tôi là một người môi miệng ô uế, tôi ở giữa một dân môi miệng ô uế, thế mà mắt tôi đã thấy Đức Vua là Đức Chúa các đạo binh!” (Is 6,5), còn Giê-rê-mi-a thì thành khẩn: “Ôi! Lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, con đây còn quá trẻ, con không biết ăn nói!” (Gr 1,6). Tiếp tục với truyền thống Cựu Ước, trong thời Tân Ước, Đức Ma-ri-a, thánh Giu-se, thánh Gio-an Tẩy Giả là những người khiêm hạ. Thiên Chúa mời gọi các ngài cách đặc biệt để tham dự vào chương trình cứu độ của Người được thực hiện nhờ Đức Giê-su, Đường Khiêm Hạ.

Kinh Thánh Tân Ước cho chúng ta biết rằng Đức Giê-su được sinh ra và lớn lên trong ‘môi trường khiêm hạ’. Trước khi bắt đầu cuộc đời công khai rao giảng Tin Mừng, Người đã diễn tả sự khiêm hạ của mình bằng cách xuống sông Gio-đan để chịu Phép Rửa bởi Gio-an Tẩy Giả. Sau đó, Người vào hoang địa ăn chay cầu nguyện bốn mươi đêm ngày và chịu ba cơn cám dỗ: Cám dỗ về sự thỏa mãn (biến đá thành bánh để ăn), cám dỗ thể hiện quyền năng (nhảy từ trên cao xuống đất) và cám dỗ về vật chất (các vương quốc và sự giàu sang trần thế). Đức Giê-su đã từ chối thực thi những điều ngoại thường do ma quỷ đặt ra. Người đã không thể hiện quyền năng của mình theo mưu mô thâm độc của ma quỷ, nhưng thể hiện sự khiêm hạ, tùng phục Thiên Chúa để chiến thắng ma quỷ (Mt 4,1-11).

Trong hành trình rao giảng, Đức Giê-su từng loan báo rằng Tin Mừng của Người dành cho tất cả mọi người, đặc biệt là những người khiêm hạ. Để minh chứng điều đó, Người đã diễn tả sự khiêm hạ của mình bằng cách cúi xuống với tất cả mọi người: Người cúi xuống với những người bị quỷ ám, cúi xuống với những người bệnh tật, cúi xuống với những người bị bỏ rơi, cúi xuống với những người bị loại trừ trong đời sống tôn giáo hay xã hội. Tâm tình, lời nói và hành động của Đức Giê-su đều mang âm hưởng của sự khiêm hạ. Là Thiên Chúa, Đức Giê-su không bao giờ diễn tả mình như một vị vua, một tướng quân, một anh hùng hào kiệt, một nhà lãnh đạo tài ba. Căn tính, đời sống và sứ mệnh của Người không giống với bất cứ vĩ nhân nào trong dòng lịch sử nhân loại.

Những lời nói và việc làm của Đức Giê-su trong hành trình trần thế cho chúng ta nhận thức rằng Đức Giê-su vừa là Con Thiên Chúa vừa là con loài người. Tuy nhiên, Đức Giê-su thường diễn tả mình như là con loài người hơn là Con Thiên Chúa, bởi vì, trong mọi hoàn cảnh, Người thể hiện mình là người khiêm hạ, luôn đứng về phía những nạn nhân của muôn hình thức bất công, đau khổ. Những gì Đức Giê-su thực hiện giúp họ hướng tới sự giải thoát và vinh thắng chung cuộc của Thiên Chúa trên tội lỗi, đau khổ và sự chết. Đức Giê-su không diễn tả chính mình như ‘Thiên Chúa là’ (vinh quang, danh dự, uy quyền), nhưng diễn tả chính mình như ‘con người là’ (đau khổ, cùng cực bởi sức nặng của tội lỗi và hậu quả khôn lường của tội lỗi là sự chết).

Đức Giê-su khiêm hạ khi tiếp cận người tốt hay kẻ xấu, Do-thái hay dân ngoại, nô lệ hay tự do. Người khiêm hạ khi cho phép người tội lỗi, người thánh thiện, người giàu, người nghèo, người nữ, người nam trở thành những người loan báo và phục vụ Tin Mừng (Mt 8,5-13; Lc 8,1-3; Ga 4,1-42). Người khiêm hạ khi nhìn nhận con người với cả những điểm tích cực và tiêu cực. Dụ ngôn cỏ lùng cho chúng ta biết điều đó (Mt 13,24-30.36-43). Người khiêm hạ khi để cho Giu-đa Ít-ca-ri-ốt tự do bán Người cho quân dữ. Người khiêm hạ khi để cho các môn đệ tự do lìa bỏ Người. Người khiêm hạ khi để cho tên trộm cướp sát nhân nhục mạ Người trên thập giá (Lc 23,39).

Đức Giê-su đề cao những người sống đời khiêm hạ. Chẳng hạn, quan sát những người bỏ tiền dâng cúng cho Đền Thờ, có lắm người bỏ nhiều tiền và cũng có một bà góa chỉ bỏ vào hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng xu Rô-ma, Người nói với các môn đệ: “Bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết” (Mc 12,43). Đức Giê-su biết rằng bà không bỏ bằng đồng tiền dư thừa nhưng bằng ‘chính sự sống của mình’. Số tiền này quá ít ỏi nhưng đây là gia sản bà có được. Bà đã bỏ tiền vào Đền Thờ với tất cả tâm tư, tình cảm và lòng đạo đức của mình. Với Đức Giê-su, điều chính yếu không phải là số tiền bà dâng cúng mà là trái tim của bà đối với việc đóng góp cho Đền Thờ. Với Đức Giê-su, chất lượng thì hơn số lượng, ‘nồng độ khiêm hạ’ hay ‘nồng độ tình yêu’ trong công việc thì quan trọng hơn ‘trương độ’ hay ‘số lượng’ công việc. Với Đức Giê-su, con người có trái tim nhân hậu, trái tim biết rung cảm trước những đau thương hay thiếu thốn của người khác thì quan trọng hơn những gì mang tính hình thức bên ngoài.

Một trong những điều Đức Giê-su thường khuyên dạy các môn đệ là tránh thói giả hình. Dụ ngôn người Pha-ri-sêu và người thu thuế lên Đền Thờ cầu nguyện diễn tả điều đó. Trong Đền Thờ, người Pha-ri-sêu đứng thẳng (dấu chỉ của kiêu ngạo) kể lể những gì ông ta làm được, còn người thu thuế thì “đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18,13). Đức Giê-su kết luận: “Tôi nói cho các ông biết: Người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 18,14). Đức Giê-su cho mọi người biết rằng người đạo đức đích thực là người khiêm hạ, chứ không phải là người khoe khoang những thành tích mình đạt được.

Thánh Mát-thêu trình thuật rằng khi các môn đệ hỏi Đức Giê-su “ai là người lớn nhất trong Nước Trời?“, Người đã gọi một em nhỏ lại và bảo “nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 18,1-2)). Ngay trong sự kiện này, chúng ta thấy được sự khiêm hạ của Đức Giê-su. Người không chỉ vào mình và nói rằng ‘Thầy khiêm hạ từ nhỏ đến lớn, anh em hãy học từ Thầy’, nhưng Người chỉ vào em nhỏ. Chúng ta biết rằng trẻ nhỏ luôn có tâm hồn nhạy cảm. Trẻ nhỏ biết ngạc nhiên trước một bông hoa đẹp, trước một hòn đá nhỏ, trước một món quà đơn sơ. Trẻ nhỏ biết ngạc nhiên trước cảnh hùng vĩ của hừng đông hay chiều tà. Trẻ nhỏ dễ lắng nghe, dễ tiếp nhận, dễ vâng phục. Trẻ nhỏ biết ‘phó thác bản thân’ cho người khác chăm sóc hướng dẫn. Trẻ nhỏ thích tìm tòi, khám phá. Trẻ nhỏ luôn sẵn sàng mở lòng trí cho những kiến thức hay thực tại mới mẻ. Trẻ nhỏ có thể không giải thích các sự kiện hay biến cố xảy đến, nhưng lại đón nhận các sự kiện hay biến cố với tinh thần ngạc nhiên, quảng đại, bao dung. Trẻ nhỏ có thể không hiểu từ ‘khiêm hạ’ là gì, nhưng khiêm hạ lại là ‘bản tính tự nhiên’ của chúng. Do đó, để đến với Đức Giê-su, để lĩnh hội và thực thi giáo huấn của Người, tất cả mọi người phải có ‘tâm hồn trẻ nhỏ’.

Đức Giê-su thể hiện sự khiêm hạ của mình cách đặc biệt trong Biến Cố Vượt Qua. Người vào Giê-ru-sa-lem với tư cách là Con Vua Đa-vít, là Đấng Mê-si-a. Tuy nhiên, Người không thể hiện mình là Con Vua Đa-vít hay Đấng Mê-si-a theo nhãn quan trần tục, nhãn quan đậm màu chính trị, xã hội của dân Do-thái (Mt 21,1-11). Đức Giê-su đã không ‘đánh Đông dẹp Bắc’ để đem lại sự hưng thịnh và vinh quang trần thế cho dân Do-thái, nhưng Người đã tẩy trừ tội lỗi và sự chết để đem lại ơn cứu độ cho tất cả mọi người trong gia đình nhân loại bằng Đường Khiêm Hạ. Đức Giê-su là vua, nhưng Người không cưỡi trên lưng ngựa như các vị vua đương thời. Người cũng không cưỡi trên lưng con lừa trưởng thành, mà lại cưỡi trên lưng lừa con. Sự kiện này ứng nghiệm lời ngôn sứ trong Cựu Ước: “Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” (Dcr 9,9; Mt 21,5).

Sự khiêm hạ của Đức Giê-su được diễn tả qua việc Người hạ mình xuống với con người, sống thân phận con người, chết vì con người. Chính Đức Giê-su đã ‘tự làm cho mình’ trở nên phàm nhân và nạn nhân của các hình thức đau khổ trong gia đình nhân loại. Người đã làm cho mình trở nên ‘trống rỗng’ (κένωσις, kénōsis), vì Người đã trút bỏ tất cả những gì thuộc về Người và nhận vào mình tất cả tội lỗi và sự chết của mọi người trong gia đình nhân loại từ tạo thiên lập địa cho đến tận thế mà đưa lên cây thập giá (1 Pr 2,18-24). Chúng ta biết rằng quyền năng, danh dự và vinh quang của Đức Giê-su là quyền năng, danh dự và vinh quang của Thiên Chúa. Do đó, khi Đức Giê-su trút bỏ tất cả cũng là khi Người mang lấy tất cả những hậu quả do tội lỗi gây nên và trả lại cho con người phẩm giá là được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và được trở thành con cái Thiên Chúa nhờ danh Người.

Hình ảnh Đức Giê-su gục đầu xuống trên thập giá đáng chúng ta quan tâm nhất (Ga 19,30). Hình ảnh này gợi lên trong chúng ta hình ảnh đối lập nơi A-đam kiêu ngạo, sa chước cám dỗ, ngước đầu lên trong buổi đầu sáng tạo. Hình ảnh Đức Giê-su gục đầu xuống nhắc nhở chúng ta về sức nặng của tội lỗi nhân loại mà Người phải gánh chịu. Hình ảnh này cũng nhắc nhở chúng ta về việc cần thiết phải gục đầu sám hối ăn năn vì những tội lỗi và bất xứng của bản thân trong hành trình dương thế. Hơn nữa, hình ảnh này cũng nhắc nhở chúng ta sự cần thiết phải vâng phục thánh ý Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh. Tắt một lời, hình ảnh Đức Giê-su gục đầu xuống nhắc nhở chúng ta phải sống khiêm hạ theo khuôn mẫu Người.

Dưới nhãn quan của một số người, Biến Cố Đức Giê-su trong hành trình trần thế là Biến Cố thất bại. Thiên Chúa không thể đến với nhân loại và hành xử theo cách đó. Sự khiêm hạ của Đức Giê-su là quá mức và không cần thiết. Tuy nhiên, trong chương trình của Thiên Chúa, sự khiêm hạ của Đức Giê-su đem lại ơn cứu độ và giải phóng tận căn cho tất cả mọi người. Sự khiêm hạ của Người không hợp lý theo ý con người, đó là lý do giải thích tại sao “người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận và dân ngoại cho là điên rồ” (1 Cr 1,23). Tuy nhiên, sự khiêm hạ của Người lại hợp lý theo ý Thiên Chúa, bởi vì đường lối và tư tưởng của Thiên Chúa không phải là đường lối và tư tưởng của con người. Lời Chúa trong sách ngôn sứ I-sai-a minh chứng điều đó: “Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55,9).

Nhờ Đường Khiêm Hạ của Đức Giê-su, tình yêu và lòng nhân từ của Thiên Chúa được diễn tả trong gia đình nhân loại. Nhờ Đường Khiêm Hạ của Đức Giê-su, sự sống đã chiến thắng sự chết. Nhờ Đường Khiêm Hạ của Đức Giê-su, trật tự các giá trị theo nhãn quan của con người bị đảo lộn. Theo ngôn ngữ của thánh Phao-lô, nhờ Đường Khiêm Hạ của Đức Giê-su, “những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh; những gì thế gian cho là hèn mạt không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa đã chọn để hủy diệt những gì hiện có” (1 Cr 1,27-28). Nhờ Đường Khiêm Hạ của Đức Giê-su, sự kiêu ngạo của Nguyên Tổ và những dẫn xuất của sự kiêu ngạo này bị tiêu diệt.

Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng A-đam là con người nhưng lại muốn trở thành ‘vị thần biết điều thiện điều ác’ (St 3,5), Đức Giê-su là Thiên Chúa nhưng đã trở thành con người, giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi. A-đam đi lên, còn Đức Giê-su đi xuống. A-đam khẳng định chính mình, còn Đức Giê-su trút bỏ chính mình. A-đam đi đường thênh thang, còn Đức Giê-su đi đường nhỏ hẹp. A-đam đi đường bất tuân Thiên Chúa, còn Đức Giê-su đi đường tuân phục Thiên Chúa. A-đam đi đường giàu sang, còn Đức Giê-su đi đường nghèo khó. Vì đường A-đam, sự chết đến trần gian, nhờ Đường Đức Giê-su, Sự Sống đến với trần gian để khôi phục sự sống cho tất cả mọi người. Thánh Phao-lô viết: “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5,20). Suy niệm về sự khiêm hạ theo mặc khải Ki-tô giáo, thánh Au-gút-ti-nô viết: “Kiêu ngạo làm cho các thiên thần trở thành ác quỷ, khiêm hạ làm cho con người trở thành những thiên thần.”

Kinh nghiệm cuộc sống cho chúng ta nhận thức rằng bóng tối không thể đẩy lui bóng tối, chỉ có ánh sáng mới đẩy lui được bóng tối mà thôi. Đức Giê-su đã minh chứng điều đó trong hành trình rao giảng Tin Mừng. Chẳng hạn, khi Người trừ quỷ thì một số người bảo: “Ông ấy dựa thế quỷ vương Bê-en-dê-bun mà trừ quỷ” (Lc 11,15). Đức Giê-su nói: “Nếu Xa-tan cũng tự chia rẽ chống lại chính mình, thì nước nó tồn tại sao được?” (Lc 11,18). Người nói tiếp: “Nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là Triều Đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (Lc 11,20). Do đó, cây trái cấm trong Vườn Địa Đàng chỉ có thể thay thế bằng cây thập giá Đức Giê-su. ‘Vi-rút kiêu ngạo’ của A-đam chỉ có thể bị đánh bại bằng ‘Vắc-xin Khiêm Hạ’ của Đức Giê-su. Bệnh kiêu ngạo của A-đam chỉ có thể cứu chữa bằng Thuốc Khiêm Hạ của Đức Giê-su. Trái tim kiêu ngạo của A-đam chỉ có thể biến đổi bằng Trái Tim Khiêm Hạ của Đức Giê-su. Sự chết của A-đam chỉ có thể chữa trị bằng sự sống của Đức Giê-su. Đường kiêu ngạo của A-đam chỉ có thể triệt tiêu bằng Đường Khiêm Hạ của Đức Giê-su.

Suy niệm về tình yêu Thiên Chúa, chúng ta nhận thức rằng tình yêu của Người đạt đỉnh điểm không phải qua những kỳ công vĩ đại Người thực hiện trên trần gian, nhưng qua sự khiêm hạ của Con Yêu Dấu Người là Đức Giê-su. Chính sự khiêm hạ của Đức Giê-su làm cho tình yêu của Thiên Chúa khác biệt so với tất cả các dạng thức tình yêu mà con người có thể cảm nhận trong lịch sử nhân loại. Sự khiêm hạ của Đức Giê-su cũng chính là tình yêu của Người đối với tất cả mọi người. Nói cách khác, tình yêu của Đức Giê-su là tình yêu trong khiêm hạ hay khiêm hạ của Đức Giê-su là khiêm hạ trong tình yêu. Hơn ai hết, thánh Phao-lô là người am hiểu và diễn tả rất mạch lạc về điều này (Rm 8,31-39).

Đối với thánh Phao-lô, tình yêu hay đức mến và sự khiêm hạ định nghĩa lẫn nhau và giải thích cho nhau. Người sống đời khiêm hạ cũng là người sống đời yêu thương và ngược lại: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1 Cr 13,4-7). Như thế, những gì thánh nhân diễn tả về đức mến chính là những gì phát xuất từ sự khiêm hạ. Thánh Gio-an tông đồ khẳng định: “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8.16). Theo nhãn quan của thánh Phao-lô, chúng ta cũng có thể khẳng định: Thiên Chúa là khiêm hạ. Người diễn tả sự khiêm hạ tột cùng trong Biến Cố Đức Giê-su giữa lòng nhân thế.

Sự khiêm hạ của Đức Giê-su có tính lan tỏa, thẩm thấu và biến đổi tâm hồn những ai tiếp cận Người. Chẳng hạn, ngay trong buổi đầu, khi diện kiến Đức Giê-su cũng như sứ mệnh của Người và trước mẻ cá lạ, thánh Phê-rô đã thốt lên: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” (Lc 5,8). Khi Phê-rô khiêm hạ nhận ra thân phận của mình, Đức Giê-su đã chọn ngài trở thành môn đệ Người (Lc 5,10-11). Thấm nhuần giáo lý Thầy mình, trong hành trình loan báo Tin Mừng, thánh Phê-rô viết: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1 Pr 5,5). Tương tự như vậy, khi gặp gỡ Đức Giê-su Phục Sinh trên đường Đa-mát và được Người biến đổi, thánh Phao-lô khiêm hạ nhìn nhận: “Đây là lời đáng tin cậy và đáng mọi người đón nhận: Đức Ki-tô Giê-su đã đến thế gian, để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi” (1 Tm 1,15). Kinh nghiệm về Đường Khiêm Hạ của Đức Giê-su, ngài không chỉ trung tín với Đường Khiêm Hạ mà còn hướng dẫn người khác sống Đường Khiêm Hạ. Ngài viết: “Đừng đi quá mức khi đánh giá mình, nhưng hãy đánh giá mình cho đúng mức” (Rm 12,3) hay “Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau” (Ep 4,2).

Mặc khải Ki-tô giáo cho chúng ta nhận thức rằng kiêu ngạo là ‘tội đầu của các tội’ và khiêm hạ là ‘nhân đức đầu của các nhân đức’. Hơn nữa, người sống và thực thi nhân đức khiêm hạ cũng là người sống và thực thi các nhân đức khác trong nội dung đức tin Ki-tô giáo. Tuy nhiên, nhân đức khiêm hạ không phải là nhân đức mà con người có thể đạt được, sống và diễn tả luôn mãi. Tội Nguyên Tổ và hậu quả của Tội Nguyên Tổ vẫn còn ‘lay động trái tim mọi người’. Nếu không có sự kết hợp liên lỉ với Đức Giê-su, người khiêm hạ có thể trở thành người kiêu ngạo trong giây lát. Nói cách khác, biên giới giữa khiêm hạ và kiêu ngạo thật mong manh và dễ đổ vỡ. Nhân đức khiêm hạ là lộ trình dang dở cho tất cả mọi người trong hành trình trần thế. Do đó, nhân đức này cần được quan tâm, gìn giữ và vun đắp mỗi ngày.

Sự kiêu ngạo và sự khiêm hạ tỷ lệ nghịch với nhau: Sự kiêu ngạo càng lớn thì sự khiêm hạ càng nhỏ và ngược lại. Để sự khiêm hạ ngày càng được lớn lên, con người không có chọn lựa nào khác là đi Đường Khiêm Hạ của Đức Giê-su, Đường Duy Nhất cho tất cả mọi người. Đây là Đường đòi hỏi tất cả mọi người phải biết cúi đầu, biết trút bỏ, biết nhận ra thân phận yếu đuối của mình trước mặt Thiên Chúa, đồng thời, biết nhìn nhận người khác như là anh chị em của mình, đồng thời, quan tâm đến muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo. Người đi Đường Khiêm Hạ biết luôn trở về với chính mình để nhận ra những thiếu sót, bất xứng của bản thân và biết qui hướng về giáo huấn của Đức Giê-su nhằm biến đổi tâm hồn mình luôn mãi.

Bài Giảng Trên Núi của Đức Giê-su mà chúng ta thường quen gọi là Tám Mối Phúc hay Hiến Chương Nước Trời là bài giảng về sự khiêm hạ. Chẳng hạn, “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3); “Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp” (Mt 5,4); “Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8); “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,10). Hơn ai hết, chính Đức Giê-su đã sống và thực thi Tám Mối Phúc này. Do đó, ai theo Đường Khiêm Hạ của Đức Giê-su, người đó cần phải noi gương, bắt chước Người.

Ai trong chúng ta cũng muốn làm điều tốt nhưng trong thực tế nhiều khi chúng ta lại làm điều xấu. Thánh Phao-lô đã có kinh nghiệm như thế và đã chia sẻ cho mọi người (Rm 7,19). Chúng ta lắng nghe, hiểu biết, thậm chí giảng dạy cho người khác về Tám Mối Phúc, tuy nhiên, điều đó chưa đủ, thực hành Tám Mối Phúc mới là quan trọng. Để thực hành Tám Mối Phúc, mỗi người chúng ta phải thực sự thấm nhuần Tám Mối Phúc, yêu mến Tám Mối Phúc và ‘cho phép’ Tám Mối Phúc trở thành trung tâm của đời sống mình. Hơn nữa, để thực hành Tám Mối Phúc, nhiều lúc chúng ta phải bơi ngược dòng, phải biết ‘nói không’ với những gì phản lại giáo huấn Đức Giê-su trong đời sống cũng như trong các tương quan của bản thân mình giữa những gian trá và vàng thau lẫn lộn của thế sự.

Suy niệm về Tám Mối Phúc, chúng ta nhận ra rằng người khiêm hạ là người nhận ra sự bất toàn, bất xứng, bất hòa hợp của bản thân và sự lệ thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa. Người khiêm hạ biết thinh lặng, biết lắng nghe và biết quan tâm đến người khác. Người khiêm hạ luôn biết vâng phục Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh, đặc biệt, trong những lúc phải đương đầu với muôn hình thức đau khổ về thể xác và tâm hồn. Người khiêm hạ biết kiên tâm chịu đựng trước những nghịch cảnh của cuộc sống hằng ngày, chẳng hạn như kiên nhẫn trước sự vu oan hay hiểu lầm từ người khác; kiên nhẫn khi sự tốt, sự lành, sự thiện chưa được biểu lộ; kiên nhẫn theo lời giảng dạy của Đức Giê-su khi để lúa và cỏ lùng cùng tồn tại cho đến mùa gặt (Mt 13,30). Đặc biệt, người khiêm hạ biết kiên nhẫn làm chứng cho Đức Giê-su theo gương các thánh tử đạo trong dòng lịch sử Giáo Hội.

Trên thế giới, con cháu A-đam có thể phân biệt về sắc tộc, màu da, tôn giáo, văn hóa cũng như nhiều đặc điểm khác, tuy nhiên, não trạng ‘tôn mình lên và hạ người khác xuống’ là não trạng chung của nhiều người. Não trạng này đã gây biết bao tang tóc đối với gia đình nhân loại. Ghen tương, giận hờn, thù ghét, chiến tranh, nghèo đói và tất cả các hình thức đau khổ do con người gây nên, xét cho cùng, đều xuất phát từ não trạng ‘tôn mình lên và hạ người khác xuống’. Châm ngôn của Đức Giê-su rất ngắn gọn: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 14,11). Châm ngôn này dễ học, dễ nhớ, dễ dạy bảo nhưng không dễ thực hiện, bởi vì Tội Nguyên Tổ và ‘dư chấn của Tội này’ vẫn rền vang trong môi trường thế giới thụ tạo, đặc biệt, trong tâm hồn của tất cả mọi người.

Đức Giê-su khiêm hạ ngay cả khi Người không bắt buộc chúng ta phải theo Đường Khiêm Hạ mà Người đã thực thi trong hành trình trần thế. Người mời gọi chúng ta và kiên nhẫn chờ đợi sự tự do đáp trả của chúng ta đối với Đường Khiêm Hạ cũng là Đường Cứu Độ của Người. Trong bài giảng 169, thánh Au-gút-ti-nô viết: “Thiên Chúa đã tạo dựng chúng ta mà không cần chúng ta [cộng tác]; nhưng Người sẽ không cứu độ chúng ta mà không cần chúng ta [cộng tác]”. Quả thực, Thiên Chúa đã thực thi chương trình cứu độ của Người bằng Đường Khiêm Hạ của Con Yêu Dấu Người là Đức Giê-su. Do đó, ai tự do theo Đường Khiêm Hạ của Đức Giê-su và thực hành Đường Khiêm Hạ ấy trong đời sống mình thì sẽ được chung hưởng hoa trái tốt lành mà Đường Khiêm Hạ của Đức Giê-su mang lại, đó là sự sống đời đời trong Nước Thiên Chúa.

Những quan sát, đánh giá và khai triển trên đây cho phép chúng ta có được nhận định khái quát rằng Đức Giê-su đã đi Đường Khiêm Hạ đến với gia đình nhân loại, hầu trả lại phẩm giá và đem ơn cứu độ cho con người. Như thế, Đường Khiêm Hạ không chỉ là Đường các Ki-tô hữu, mà còn là Đường của tất cả mọi người. Đức Giê-su cho chúng ta bài học thâm thúy rằng ai không biết cúi xuống thì cũng không được nâng lên. Ai không đi Đường Khiêm Hạ của Người thì cũng không thể chung phần vinh phúc với Người. Chúng ta được mời gọi suy niệm, học hỏi và thực thi Đường Khiêm Hạ của Đức Giê-su trong hành trình trần thế này. Đường Khiêm Hạ của Người chính là Đường Cứu Độ của Thiên Chúa, Đường cho phép con người không ngừng được biến đổi, tái tạo và ngày càng kết hợp mật thiết hơn với Thiên Chúa, Đấng là Nguyên Thủy và Cùng Đích của con người và muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo này.

Gm. Phêrô Nguyễn Văn Viên
Ủy ban Giới Trẻ và Thiếu Nhi / HĐGM VN

Các chủ đề học hỏi và suy niệm năm 2020: