GXTĐ – Tông huấn Amoris Laetitia Niềm vui của Tình yêu (trích) Đức Giáo Hoàng Phanxicô.

218. Một thách thức lớn lao nữa của hôn nhân là giúp cặp vợ chồng hiểu rõ ràng rằng hôn nhân không phải là một điều đã xẩy một lần là xẩy ra mãi mãi. Đã đành, sự kết hợp của họ có thực chất và không thể phản hồi, được củng cố và thánh hiến bởi bí tích hôn phối. Ấy thế nhưng khi kết hợp hai cuộc đời của họ với nhau, vợ chồng đảm nhiệm một vai trò tích cực và đầy sáng tạo trong một dự án kéo dài suốt đời. Cái nhìn của họ lúc này phải hướng về tương lai, một tương lai mà ngày nào họ cũng được kêu gọi phải xây dựng, với sự trợ giúp của ơn thánh. Chính vì lý do này, không ai trong hai người có thể mong chờ ở người kia phải hoàn hảo. Mỗi người phải để qua một bên mọi ảo tưởng và biết chấp nhận người kia trong con người thực của họ: một sản phẩm chưa hoàn tất, vẫn cần được lớn lên, một công trình còn đang diễn tiến. Thái độ nằng nặc đòi phê phán người bạn đời của mình là dấu hiệu cho thấy họ đã không bước vào cuộc hôn nhân như bước vào một dự án cần cùng nhau thể hiện một cách kiên nhẫn, có hiểu biết, khoan dung và đại lượng. Từ từ nhưng chắc chắn, lòng yêu thương trong những lúc như thế sẽ nhường bước cho những tra vấn và chỉ trích khôn nguôi, nằm lỳ ở những điểm tốt xấu của người kia, ra tối hậu thư và chi hăm hở với hết cạnh tranh này tới tự biện hộ khác. Những lúc như thế, họ tự chứng tỏ không còn khả năng giúp nhau bồi đắp một cuộc kết hợp trưởng thành. Sự kiện này cần được trình bầy một cách thật thực tiễn cho cặp vợ chồng ngay từ đầu đời hôn nhân để họ nắm vững được rằng ngày cưới “mới chỉ là ngày khởi đầu”. Khi nói “thưa có”, họ đã khởi đầu một cuộc hành trình đòi họ phải vượt qua mọi trở ngại ở trên đường để đạt cho được mục tiêu của họ. Sự chúc hôn mà họ nhận lãnh là một ơn thánh và một khích lệ để họ lên đường. Họ chỉ có thể có lợi nếu biết ngồi xuống và thảo luận với nhau cách làm thế nào để đưa ra kế hoạch cụ thể nhằm đạt được mục tiêu của mình.

5 phút Lời Chúa Mỗi Ngày: “Ông Gio-an Tẩy giả đã xuất hiện trong hoang địa, rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội.” (Mc 1,4)

Suy niệm: Tiền hô là người đi trước, hô lớn để dọn đường cho một đấng quyền thế, cao trọng sẽ đến sau, Gio-an Tẩy giả chính là vị tiền hô như thế, ông đến để dọn đường cho Đức Giê-su, Đấng Cứu Thế, sẽ đến. Và ông đã làm tốt nhiệm vụ tiền hô của mình:

  • Ông sống đạm bạc, khiêm tốn, nhận mình “không đáng xách dép” cho Đấng Cứu Thế và phải lu mờ để Ngài nổi bật (x. Mt 3,11; Ga 3,30).
  • Ông dạy cho dân chúng biết về Đấng Cứu Thế; ông kêu gọi dân chịu phép rửa để tỏ lòng sám hối, còn Ngài sẽ làm phép rửa “trong Thánh Thần và lửa” để ban ơn tha tội (x. Mt 3,11).
  • Ông giới thiệu Đức Giê-su là Chiên Thiên Chúa, đấng xoá bỏ tội trần gian, và cho các môn đệ đi theo Ngài.
  • Cuối cùng ông chịu chết vì tay bạo quyền khi lên tiếng bênh vực sự công chính, và như thế ông làm chứng Ngài sẽ chịu chết để ban ơn cứu độ.

Mời Bạn: Khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội bạn cũng trở thành tiền hô của Đức Ki-tô và nhân chứng loan báo Ngài cho muôn dân. Bạn đã làm gì để thực hiện vai trò tiền hô cho Chúa Giê-su trong cuộc sống của bạn?

Sống Lời Chúa: Làm mọi việc với tâm tình và tinh thần của Tin Mừng là cách để thực thi sứ mạng tiền hô và làm chứng nhân cho Đức Ki-tô.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã đến cứu chuộc trần gian. Nhưng Chúa muốn chúng con tiếp tục làm tiền hô cho Chúa đến với muôn dân. Xin giúp chúng con noi gương thánh Gio-an Tẩy giả, hoàn thành tốt sứ mạng tiền hô của chúng con.

THÔNG TIN GIÁO XỨ:

Các linh mục phụ trách: Lm. Phaolô Nguyễn Quốc Hưng – Lm. G.B Đỗ Quốc Vinh – Lm. G.B Nguyễn Trọng Tín.

Thánh lễ:

  • Ngày thường: 5g00; 6g15; 17g30; 19g00
  • Chúa nhật: 5g00; 6g15; 7g30; 9g00; 16g00; 17g30; 19g00

Giải tội: Sau lễ sáng & trước lễ chiều ngày thường; Chúa nhật: 17g00 – 19g00

Chầu Thánh Thể: Mỗi ngày tại nhà chầu; 15g ngày Chúa nhật tại nhà thờ.

Rửa tội trẻ em: 10g15 Chúa Nhật mỗi cuối tháng

Văn phòng giáo xứ:

  • T3-T7: 7g30 – 11g30; 14g30 – 18g30
  • Chúa nhật: 6g30 – 10g30; 16g30 – 20g30
  • Thứ hai nghỉ cả ngày

LỊCH TUẦN 06/12 – 12/12/2020

  • Chúa nhật, 06/12: CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG
  • Thứ hai, 07/12: Thánh Ambrôsiô, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
  • Thứ ba, 08/12: ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI. Lễ trọng. Lễ cầu cho giáo dân ( Lễ họ ).
  • Thứ tư, 09/12: Thánh Gioan Điđacô. KỶ NIỆM CUNG HIẾN VƯƠNG CUNG THÁNH ĐƯỜNG SÀI GÒN. Lễ kính.
  • Thứ năm, 10/12: Đức Mẹ Lorento.
  • Thứ sáu, 11/12: Thánh Đamasô I, giáo hoàng.
  • Thứ bảy, 12/12: Đức Mẹ Guadalupê.

THÔNG BÁO: TUẦN 06/12 – 12/12/2020

  1. Vì tình hình Covid đang diễn biến phức tạp nên KHÔNG CÓ Hiến Máu Nhân Đạo vào lúc 7h00 sáng Chúa Nhật 06/12/2020. Xin anh chị em đeo khẩu trang khi tham dự Thánh Lễ.
  2. Tĩnh Tâm Mùa Vọng:
    + Thiếu Nhi : trong Thánh lễ 7h30 Chúa Nhật 06/12/2020 và Chúa nhật 13/12/2020.
    + Người lớn : lúc 19 giờ 00 các ngày Thứ Hai, Ba, Tư ngày 14,15,16 /12/2020.
  3. Thứ hai tuần này 07/12/2020 vào lúc 17 giờ 30 có Thánh Lễ Ban Bí tích Khai Tâm cho 24 anh chị em dự tòng Xin cộng đoàn hiệp thông cầu nguyện.
  4. Thứ ba tuần này 08/12/2020 Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, lễ trọng. Sau Thánh lễ 17 giờ 30 có cuộc rước kiệu Đức Mẹ trọng thể. Xin anh chị em nhớ đeo khẩu trang khi tham dự Thánh Lễ và đi kiệu. Anh chị em nào có vấn đề về sức khỏe xin ở nhà hiệp thông cầu nguyện.
  5. Số tiền anh chị em giúp cho việc trùng tu Nhà thờ Đức Bà tuần qua được 39 triệu đồng. Xin cám ơn anh chị em. Hôm nay xin cộng đoàn giúp cho việc trùng tu Nhà Thờ Tân Định. Sau mỗi Thánh Lễ Chúa nhật 06/12 nếu anh chị em muốn giữ 1 viên ngói Nhà Thờ Tân Định 144 năm tuổi làm kỷ niệm, giáo xứ xin tặng anh chị em tại các bàn ngoài sân Nhà Thờ.

Lm. Chánh xứ
Phaolô Nguyễn Quốc Hưng

04/12 – Thứ Sáu đầu tháng, tuần 1 mùa vọng.
“Tin vào Chúa Giêsu, hai người mù được chữa lành”.

LỜI CHÚA: Mt 9, 27-31

Khi ấy, Chúa Giêsu đi ngang qua, có hai người mù chạy theo Chúa và kêu lớn tiếng rằng: “Hỡi Con vua Đavít, xin thương chúng tôi”.

Khi Chúa tới nhà, những người mù tiến lại gần Chúa. Chúa Giêsu phán bảo họ: “Các ngươi có tin rằng Ta có thể làm việc ấy không?” Họ thưa: “Lạy Thầy, có”. Bấy giờ Chúa sờ vào mắt họ và phán: “Các ngươi tin thế nào, thì hãy được như vậy”. Mắt họ liền mở ra, nhưng Chúa Giêsu truyền cho họ rằng: “Coi chừng, đừng cho ai biết”. Nhưng vừa ra đi, họ liền đồn tiếng Người trong khắp miền ấy.

TÒA TỔNG GIÁM MỤC
180 Nguyễn Đình Chiểu – Quận 3
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
(84.28) 3930 3828
E.mail: tgmsaigon@gmail.com
Số 242.3_201203_01

Ngày 03 tháng 12 năm 2020

Kính gởi: Quý Cha Sở Tổng Giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh

Kính Cha,

Theo đề nghị của Ban Giám Đốc Đại chủng viện Thánh Giuse, Đức Tổng Giuse đã quyết định truyền chức phó tế cho 21 đại chủng sinh (theo danh sách đính kèm) vào lúc 8 giờ 30 ngày 07/01/2021 tại nhà thờ Chính Tòa, số 1 Công xã Paris, phường Bến Nghé, thành phố Hồ Chí Minh.

Vậy, xin cha vui lòng rao cho anh chị em giáo dân biết để hiệp thông cầu nguyện; và nếu ai biết các thầy có điều gì ngăn trở, cần báo gấp cho Tòa Tổng Giám mục hoặc Ban Giám Đốc Đại chủng viện Thánh Giuse hoặc cho chính cha trước ngày nói trên.

Theo đề nghị của Cha Giám Đốc Đại chủng viện Thánh Giuse, thời gian rao báo cụ thể:

  • Lần 1: 06/12/2020, Chúa nhật II mùa Vọng
  • Lần 2: 13/12/2020, Chúa nhật III mùa Vọng
  • Lần 3: 20/12/2020, Chúa nhật IV mùa Vọng

Xin chân thành cám ơn và kính chào cha.

Lm. Tổng Đại Diện
(đã ký với con dấu)
Inhaxiô HỒ VĂN XUÂN

DANH SÁCH CHỦNG SINH
Lãnh chức phó tế ngày 07/01/2021

Hội đồng các Giáo hội Kitô Thế giới (WCC) gửi sứ điệp Giáng sinh, khích lệ các Kitô hữu: “Trong thời điểm đau đớn và tuyệt vọng này, hãy tìm niềm an ủi và hy vọng trong biến cố giáng sinh của Chúa Giêsu”.

Tổng thư ký Hội đồng các Giáo hội Kitô Thế giới (WCC) Ioan Sauca viết trong sứ điệp: “Ngày nay, cũng như vào thời Chúa Giêsu giáng sinh, có nhiều nguyên nhân làm mọi người sợ hãi và sống trong tuyệt vọng, nhưng trong những giờ phút đen tối nhất của lịch sử, các Kitô hữu thường tìm được niềm ủi an và hy vọng nơi tin vui giáng sinh của Đấng Cứu Thế tại Bê-lem”.

“Năm nay, do đại dịch, trong các nhà thờ và các gia đình, lễ Giáng sinh sẽ được cử hành cách đơn giản. Chúng tôi thương tiếc rất nhiều người chết trên khắp thế giới và chúng tôi bày tỏ lòng biết ơn đối với những người chăm sóc người bệnh bằng sự tận tụy và lòng can đảm tuyệt vời”.

Tổng thư ký nhận xét: “Ở khắp mọi nơi, đại dịch đã xé nát kết cấu xã hội, gây thất nghiệp, nghèo đói, và làm trầm trọng thêm tình trạng bất bình đẳng, gieo rắc bất hòa và hỗn loạn, phá vỡ sự ổn định của các chính phủ. Trong khi bạo lực và chiến tranh tiếp tục làm cho số người tị nạn và di cư gia tăng và giết chết nhiều người”.

Tuy nhiên, theo Tổng thư ký, ngay cả trong những hoàn cảnh này, lời của các thiên sứ vẫn vang lên trên các tầng trời, loan báo tin vui vĩ đại biến cố giáng trần của Đức Kitô. Là Kitô hữu chúng ta thấy trong biến cố giáng sinh của Hài Nhi Giêsu tại một ngôi làng hoang vắng ở vùng ngoại Đế quốc Roma, là khởi đầu mong manh của công trình cứu chuộc chúng ta. Là những người tin, chúng ta nhận ra lời ‘xin vâng’ của Chúa đối với sự sống và bình minh của một cuộc sống mới chiến thắng sự chết và tuyệt vọng. Nhập thể là lời ‘xin vâng’ quyết định của Chúa đối với nhân loại và tạo vật.

Kết thúc sứ điệp, Hội đồng các Giáo hội Kitô Thế giới mời gọi các Kitô hữu hãy “để nỗi sợ hãi nhường chỗ cho niềm vui và hy vọng, lòng can đảm và tình yêu để phục vụ công lý và hòa bình. Trong một thế giới đau thương và chết chóc, lễ Giáng sinh cho phép chúng ta tìm thấy niềm an ủi, tìm lại hy vọng và nhìn mọi sự với đức tin sâu sắc về chiến thắng của tình yêu trong biến cố giáng sinh của Chúa Giêsu”.

Nguồn: vaticannews.va

03/12 – Thứ Năm đầu tháng, tuần 1 mùa vọng – THÁNH PHANXICÔ XAVIÊ, LINH MỤC. Bổn mạng các xứ truyền giáo. Lễ kính.
“Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng”.

LỜI CHÚA: Mc 16, 15-20

Khi ấy, Chúa Giêsu hiện ra với mười một môn đệ và phán: “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép Rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không Tin, sẽ bị luận phạt.

Và đây là những phép lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thày, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, cầm rắn trong tay, và nếu uống phải chất độc, thì không bị hại; họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân sẽ được lành mạnh”.

Vậy sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa.

Phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo.

Chủ đề học hỏi và suy niệm tháng 12 năm 2020

Các bạn trẻ thân mến,

Tháng Mười Một vừa qua, chúng ta đã suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô – Đường Tôi Tớ. Tháng Mười Hai này, chúng ta cùng nhau suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô – Đường Ánh Sáng. Theo Kinh Tin Kính, Đức Giê-su là ‘Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh Sáng bởi Ánh Sáng’. Người đã đi Đường Ánh Sáng đến với thế gian để giải phóng con người khỏi cảnh tối tăm, đau khổ cũng như sự chết đời đời và dẫn đưa con người về với Quê Hương Ánh Sáng Vĩnh Cửu là Nước Thiên Chúa.

Từ ‘ánh sáng’ thường được hiểu theo nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Ánh sáng theo nghĩa đen là ánh sáng tự nhiên hay ánh sáng vật lý (ánh sáng có tính chất sóng và hạt), còn ánh sáng theo nghĩa bóng là ánh sáng siêu nhiên hay ánh sáng hướng con người về thế giới chân, thiện, mỹ. Chúng ta không thể liệt kê đầy đủ tác dụng của ánh sáng tự nhiên đối với con người và muôn vật muôn loài. Ánh sáng tự nhiên cần thiết cho sự sống của thực vật, động vật và con người. Hơn nữa, ánh sáng tự nhiên không chỉ giúp con người nhìn thấy và phân biệt những gì chung quanh mình, mà còn giúp con người thiết lập các mối liên hệ với vạn vật. Trong khi đó, ánh sáng siêu nhiên giúp con người ý thức hơn về phẩm giá của mình giữa muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo, đồng thời, giúp con người biết phân định và sống theo những giá trị cốt lõi của môi trường chân, thiện, mỹ. Là con người, ai cũng ý thức rằng càng gần ánh sáng siêu nhiên càng hay, càng xa bóng tối sự dữ càng tốt. Nhờ ánh sáng siêu nhiên soi dẫn, con người được hiện diện, hoạt động và hy vọng về tương lai tốt đẹp hơn, đồng thời, giúp con người giảm thiểu những nỗi sợ hãi và muôn hình thức ám ảnh của thế giới bóng tối.

Theo nội dung đức tin Ki-tô Giáo, ánh sáng và bóng tối là hai chủ đề đối ngược nhau. Ánh sáng là hình ảnh của sự sống, chân thật, thánh thiện, trật tự, vinh quang, tốt đẹp, tỏ hiện, minh bạch, thanh sạch, thành công, hy vọng, thông suốt, niềm vui. Ánh sáng là hình ảnh của những gì thuộc về Môi Trường Thiên Chúa hoặc giúp con người hướng về Môi Trường Thiên Chúa. Ngược lại, bóng tối là hình ảnh của sự chết, giả dối, tội lỗi, hỗn loạn, đau khổ, xấu xa, ẩn giấu, u ám, nhơ bẩn, thất bại, vô vọng, bế tắc, buồn sầu. Bóng tối là hình ảnh của những gì thuộc về ma quỷ, sự dữ và dẫn xuất của chúng. Tuy nhiên, ánh sáng và bóng tối không phải là hai nguồn lực cùng tồn tại song song. Trong nhãn quan mặc khải Ki-tô Giáo, sở dĩ có bóng tối là vì thiếu ánh sáng, sở dĩ có sự ác là vì thiếu sự thiện từ phía con người. Còn về phía Thiên Chúa, tối tăm không thể loại trừ được ánh sáng của Người (Tv 139,12).

Ánh sáng là yếu tố đầu tiên trong công trình Thiên Chúa sáng tạo: “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước. Thiên Chúa phán: Phải có ánh sáng. Liền có ánh sáng. Thiên Chúa thấy rằng ánh sáng tốt đẹp. Thiên Chúa phân rẽ ánh sáng và bóng tối” (St 1,1-4). Trích đoạn này giúp chúng ta nhận thức rằng khi ánh sáng xuất hiện, hỗn mang, tăm tối nhường chỗ cho trật tự, lớp lang. Ánh sáng tốt đẹp vì là ‘sản phẩm đầu tay của Thiên Chúa’, được Thiên Chúa cho xuất hiện trước vạn vật, đồng thời, ánh sáng tham dự vào sự hình thành và phát triển của muôn vật muôn loài. Đó là lý do giải thích tại sao muôn vật muôn loài có tương quan mật thiết với ánh sáng. Kinh nghiệm cho chúng ta nhận thức rằng nếu thiếu ánh sáng, muôn vật muôn loài sẽ không được nhìn thấy, không được nhận diện, không được định dạng. Nếu không có ánh sáng thì tất cả chỉ là tối tăm, hư vô, trống rỗng, không có hình dạng (St 1,2). Không có ánh sáng cũng đồng nghĩa với không có gì chân thật, hài hòa, tiến triển. Trong Cựu Ước, tác giả Thánh Vịnh đã diễn tả rất sâu sắc chân lý này: “Ngài quả là nguồn sống, nhờ ánh sáng của Ngài, chúng con được nhìn thấy ánh sáng” (Tv 36,10).

Chủ đề ánh sáng được đề cập và khai triển khá nhiều trong các bản văn Kinh Thánh Cựu Ước, chẳng hạn: “Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, Chúa làm cho ngọn đèn của con sáng tỏ, Ngài soi chiếu vào đời con tăm tối mịt mù” (Tv 18,29); “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119,105); “Mệnh lệnh Chúa xiết bao minh bạch, cho đôi mắt rạng ngời” (Tv 19,9); “Huấn lệnh là ngọn đèn, lời dạy dỗ là ánh sáng” (Cn 6,23); “Đức Khôn Ngoan phản chiếu ánh sáng vĩnh cửu, là tấm gương trong phản ánh hoạt động của Thiên Chúa” (Kn 7,26). Đặc biệt, Lời Chúa trong Cựu Ước đã loan báo về Đức Giê-su là Ánh Sáng của thế gian (φώς τοῦ κόσμου), chẳng hạn: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Is 9,1); “Mặt trời công chính sẽ mọc lên, mang theo các tia sáng chữa lành bệnh” (Ml 3,20).

Trong Tân Ước, hơn ai hết, thánh Gio-an Tông Đồ cho chúng ta những ý tưởng chính yếu về chủ đề ánh sáng như sau: (1) Thiên Chúa là Ánh Sáng: “Thiên Chúa là ánh sáng; nơi Người, không có một chút bóng tối nào” (1 Ga 1,5); (2) Ai hiệp thông với Thiên Chúa thì không đi trong bóng tối: “Nếu chúng ta nói là chúng ta hiệp thông với Người mà lại đi trong bóng tối, thì chúng ta nói dối” (1 Ga 1,6); (3) Ai đi trong ánh sáng thì hiệp thông với nhau và được máu Đức Giê-su thanh tẩy tội lỗi: “Nếu chúng ta đi trong ánh sáng cũng như Thiên Chúa hằng ngự trong ánh sáng, thì chúng ta được hiệp thông với nhau, và máu Đức Giê-su, Con của Người, thanh tẩy chúng ta sạch hết mọi tội lỗi” (1 Ga 1,7); (4) Khi chương trình cứu độ đến thời viên mãn, thì “chính vinh quang Thiên Chúa toả rạng, và Con Chiên là ngọn đèn chiếu soi” và “Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ chiếu sáng trên họ” (Kh 21,23; 22,5). Như vậy, Ánh Sáng của Thiên Chúa là Ánh Sáng được Đức Giê-su thực hiện và diễn tả nhằm thiết lập mối hiệp thông trường cửu giữa Thiên Chúa với con người và giữa con người với nhau. Ánh Sáng đó là khởi điểm và cũng là cùng đích cho những ai được cứu độ.

Thánh Gio-an không chỉ cho chúng ta biết Thiên Chúa là Ánh Sáng, mà còn cho chúng ta biết Đức Giê-su là Ánh Sáng: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa. Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại” (Ga 1,1-4). Những câu đầu tiên của Lời Tựa Tin Mừng này gợi lên trong chúng ta những câu đầu tiên của bộ Kinh Thánh (St 1,1-4). Theo thánh Gio-an, Đức Giê-su là Ngôi Lời vĩnh cửu của Thiên Chúa và là Thiên Chúa. Nhờ Người, muôn vật muôn loài được tạo thành. Đặc biệt, Người là Ánh Sáng cho nhân loại, nhờ Người, muôn người được Ánh Sáng Thiên Chúa soi dẫn.

Theo thánh Lu-ca, được đầy tràn ơn Chúa Thánh Thần, Da-ca-ri-a đã nói về Đức Giê-su khi Người đang trong lòng mẹ: “Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta, soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối và trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an” (Lc 1,78-79). Trong biến cố Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se dâng Đức Giê-su vào Đền Thánh, khi bồng ẵm Đức Giê-su, cụ Si-mê-ôn đã cảm nhận được hơi ấm cứu độ và cuộc đời cụ như vậy là mãn nguyện: “Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài” (Lc 2,29-32).

Trong hành trình rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su nói rằng Thiên Chúa là Ánh Sáng (1 Ga 1,5). Người cũng nói rằng Người là Ánh Sáng (Ga 8,12; 9,5; 12,46). Như vậy, cách gián tiếp, Đức Giê-su cho chúng ta biết Người là Thiên Chúa. Dầu là Ánh Sáng, nhưng Người đã được sinh ra trong đêm tối. Điều này có ý nghĩa quan trọng, bởi vì, Người không chỉ được sinh ra trong đêm tối theo nghĩa tự nhiên mà còn theo nghĩa siêu nhiên: Người được sinh trong đêm tối của thế gian nhuốm màu tội lỗi. Hành trình trần thế của Người là hành trình nối kết tất cả mọi người đang lần bước trong đêm tối. Đặc biệt, Người đã trừ quỷ, tha tội, chữa bệnh, hồi sinh kẻ chết và nâng đỡ những người bị loại trừ trong xã hội. Nói cách khác, Người đã xua đuổi các hình thức bóng tối nhằm đem lại ánh sáng hy vọng cho tất cả mọi người.

Đức Giê-su mở ra viễn cảnh tương lai tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa giữa lòng nhân loại. Người không chỉ khẳng định rằng Người là Ánh Sáng, mà còn minh chứng điều đó bằng những hành động cụ thể. Lời nói, việc làm của Người diễn tả quyền năng, danh dự và vinh quang của Thiên Chúa. Đặc biệt, Người có sức lôi cuốn lớn lao đối với những ai lòng ngay thiện chí.

Trong cuộc đối thoại với Ni-cô-đê-mô, Đức Giê-su đề cập đến chủ đề ánh sáng (Ga 3,1-21). Chúng ta biết rằng Ni-cô-đê-mô là người thuộc phái Pha-ri-sêu, người học cao, hiểu rộng. Hình ảnh ông đến với Đức Giê-su ban đêm cho phép chúng ta suy luận rằng ông sáng về tri thức, sáng về địa vị xã hội, sáng về sự giàu có, nhưng lại tối về đời sống nội tâm, tối về thế giới siêu nghiệm, đặc biệt, tối về chương trình của Thiên Chúa đối với nhân loại. Dù sao, việc ông đến với Đức Giê-su cũng diễn tả tâm hồn thiện chí và nỗi khao khát chân lý của ông. Sau khi được Đức Giê-su khai thông, tâm trí ông đã sáng ra và ông đã dõi theo Đức Giê-su trong hành trình trần thế của Người. Các sách Tin Mừng không cung cấp cho chúng ta nhiều thông tin về Ni-cô-đê-mô, tuy nhiên, chúng ta có thể nhận định rằng, sau cuộc gặp gỡ Đức Giê-su, Ni-cô-đê-mô hằng dõi theo Người (Ga 7,50-51; Ga 19,39-42). Ni-cô-đê-mô rất quảng đại, hào phóng, khi an táng Đức Giê-su, ông đã “mang theo chừng một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương” (Ga 19,39). Như vậy, sau khi gặp gỡ Đức Giê-su là Ánh Sáng, ông đã không rời Đức Giê-su ngay cả khi Người đối diện với cái chết, bởi vì ông tin tưởng và hy vọng vào những lời của Đức Giê-su trong cuộc nói chuyện: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời. Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,14-16).

Khi gặp người mù từ thuở mới sinh, các môn đệ hỏi Đức Giê-su: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?” (Ga 9,2). Đức Giê-su trả lời: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh. Chúng ta phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được. Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian” (Ga 9,3-5). Sau đó, Đức Giê-su làm cho người mù được sáng mắt. Chúng ta biết rằng về mặt y khoa, chữa cho người mù từ thuở mới sinh được sáng mắt là chuyện vô cùng khó khăn. Tuy nhiên, trong câu chuyện này, Đức Giê-su không chỉ chữa lành, Người còn giúp anh nhận ra Người là Ánh Sáng cho thế gian. Với cuộc gặp gỡ Đức Giê-su, anh không chỉ được sáng mắt mà còn ‘sáng lòng’, anh đã tin tưởng vào Đức Giê-su và trở nên nhân chứng của Người cho những người xung quanh. Trong khi đó, những người Pha-ri-sêu sáng mắt nhưng lại ‘tối lòng’, bởi vì họ không nhận ra Đức Giê-su là Ánh Sáng thật cho thế gian, Đấng mà họ luôn mong đợi và rao giảng.

Theo thánh Gio-an, Đức Giê-su thực hiện dấu lạ cuối cùng trước khi bước vào cuộc khổ nạn là cho La-da-rô hồi sinh (Ga 11,1-44). Đây là dấu lạ quan trọng vì La-da-rô đã ở trong bóng tối tử thần bốn ngày, đã nặng mùi rồi (Ga 11,39). Tuy nhiên, Đức Giê-su cho La-da-rô hồi sinh trước sự ngỡ ngàng của chị em Mác-ta, Ma-ri-a, các môn đệ Đức Giê-su và nhiều người khác. Ánh Sáng Đức Giê-su đã chiếu tỏa vào bóng tối của La-da-rô, thức tỉnh La-da-rô và cho La-da-rô được sống. Hồi sinh La-da-rô là dấu lạ lớn lao nhằm gia tăng niềm tin cho các môn đệ cũng như những người khác theo Đức Giê-su. Qua biến cố này, Đức Giê-su hướng tất cả mọi người về sự đau khổ, sự chết và phục sinh của Người nhằm hoàn tất chương trình của Thiên Chúa là đem lại sự sống vĩnh cửu cho tất cả mọi người.

Nhiều lần trong Tin Mừng, Đức Giê-su đề cập đến sự liên kết hai chủ đề quan trọng là sự sống và niềm tin với chủ đề ánh sáng. Chẳng hạn, Người nói với những người Do-thái: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8,12); “Ai tin vào tôi, thì không phải là tin vào tôi, nhưng là tin vào Đấng đã sai tôi; ai thấy tôi là thấy Đấng đã sai tôi. Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng tối” (Ga 12,44-46). Những lời của Đức Giê-su cho chúng ta thấy sự liên kết mật thiết giữa Người là Ánh Sáng và niềm tin cũng như sự sống đích thật của các tín hữu. Nói cách khác, Đức Giê-su là Ánh Sáng đem lại sự sống đời đời cho những ai tin tưởng, yêu mến và thực thi thánh ý Người.

Đức Giê-su là Ánh Sáng thật. Thánh Gio-an khẳng định: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1,9). Ánh Sáng Đức Giê-su chiếu soi mọi người, tuy nhiên, không phải tất cả mọi người đều nhận ra điều đó: “Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,10-11). Đức Giê-su giải thích tại sao người ta không chấp nhận ánh sáng: “Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách” (Ga 3,19-20). Như vậy, để có thể nhận ra Đức Giê-su là Ánh Sáng, con người cần phải từ bỏ môi trường bóng tối, môi trường tội lỗi, môi trường sự dữ.

Nội dung đức tin Ki-tô Giáo cho chúng ta nhận thức rằng ai không hoán cải, ai không từ bỏ môi trường bóng tối, môi trường sự dữ thì không thể nhận ra Ánh Sáng Đức Giê-su. Ai tự cho mình là tiêu chuẩn, thì không thể tiếp cận Ánh Sáng Đức Giê-su. Chẳng hạn, khi Đức Giê-su được sinh ra ở Bê-lem, các mục đồng và các đạo sĩ nhận ra Ánh Sáng của Người, trong khi những người am hiểu Kinh Thánh, giảng dạy Kinh Thánh và trung thành với truyền thống Do-thái Giáo cách nghiêm ngặt nhất lại không nhận ra. Như thế, việc nhận ra Đức Giê-su là Ánh Sáng thật không lệ thuộc vào danh hiệu, công việc hay gia sản truyền thống mà lệ thuộc vào tâm trí lành mạnh và cảm thức bén nhạy trước các dấu chỉ xuất hiện hằng ngày trong đời sống mình.

Theo thánh Gio-an, người đi trong bóng tối là người ghét anh chị em mình, còn người đi trong ánh sáng là người yêu thương anh chị em mình: “Ai nói rằng mình ở trong ánh sáng mà lại ghét anh em mình, thì vẫn còn ở trong bóng tối; Ai yêu thương anh em mình thì ở lại trong ánh sáng, và nơi người ấy không có gì nên cớ vấp phạm” (1 Ga 2,9-10). Như vậy, đối với thánh Gio-an ‘đi trong ánh sáng’ hay ‘đi trong bóng tối’ không còn là những ý tưởng trừu tượng nữa, mà là những thực hành cụ thể mà ai cũng có thể làm được. Thánh nhân khẳng định: “Bóng tối đang qua đi và ánh sáng thật đã tỏ rạng” (1 Ga 2,8). Đồng thời, theo thánh nhân: “Thế gian đang qua đi, cùng với dục vọng của nó. Còn ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa thì tồn tại mãi mãi” (1 Ga 2,17).

Trong gia đình nhân loại, không ai ‘tối’ đến mức không thể biến đổi được, cũng không ai ‘sáng’ đến mức không cần được Ánh Sáng Đức Giê-su soi dẫn. Tất cả mọi người được mời gọi hướng về Đức Giê-su, Ánh Sáng đích thật. Tất cả mọi người được mời gọi hướng về Đức Giê-su luôn mãi, bởi vì, vẫn còn đó vô số hình thức bóng tối đang hoành hành giữa lòng thế giới. Nếu chúng ta không hướng về Đức Giê-su như cây cối hướng về ánh mặt trời thì chúng ta không thể có được sự sống xứng với phẩm giá của mình và không thể đi đường chính trực để đến với Thiên Chúa. Nếu chúng ta không nhìn nhận bóng tối của lòng trí chúng ta, nếu chúng ta không nhìn nhận có nhiều hình thức bóng tối trong môi trường sống của chúng ta, thì chắc chắn rằng chúng ta đang rơi vào cạm bẫy của thế giới bóng tối và vẫn đắm mình trong thế giới này.

Chúng ta có thể so sánh tâm hồn mỗi người với căn phòng mình ở. Bình thường, chúng ta thấy căn phòng sạch sẽ. Tuy nhiên, khi có ánh sáng mặt trời chiếu vào, chúng ta thấy căn phòng đầy dẫy những hạt bụi li ti bay lượn khắp nơi. Tâm hồn chúng ta cũng vậy, nhiều khi chúng ta nghĩ rằng mình thanh sạch, bởi vì mình luôn tuân giữ lề luật Thiên Chúa và không làm hại ai, tuy nhiên, điều đó chưa đủ. Chẳng hạn, nếu chúng ta chỉ biết tuân giữ lề luật mà không biết làm điều tốt để giúp đỡ anh chị em mình thì chúng ta cũng đang ở trong bóng tối vậy (Mt 25,31-46). Nhờ Ánh Sáng Đức Giê-su soi dẫn, chúng ta sẽ thấy rõ tâm hồn mình nhiều bụi bặm, nhiều sự xấu xa hơn mình tưởng. Đó là lý do giải thích tại sao chúng ta cần phải mở lòng đón nhận Ánh Sáng Đức Giê-su để chúng ta biết rõ tình trạng tâm hồn mình nhiều hơn, từ đó, chúng ta biết cộng tác với Người trong việc biến đổi tâm hồn mình sao cho ngày càng phù hợp với thánh ý Thiên Chúa hơn nữa.

Với trình độ khoa học kỹ thuật hôm nay, con người hầu như có đủ ánh sáng cho đời sống thể lý. Tuy nhiên, xem ra con người đang thiếu thốn ánh sáng siêu nhiên, ánh sáng cho phép con người hiệp thông với Thiên Chúa, với anh chị em mình và với muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo cách phù hợp nhất. Quả thật, con người cần ánh sáng tự nhiên cho đời sống thể xác thế nào thì cũng cần ánh sáng siêu nhiên cho đời sống tâm hồn như vậy. Khi nào con người có được sự hòa hợp giữa đời sống thể xác và đời sống tâm hồn, khi đó con người mới thực sự sống xứng đáng với phẩm giá của mình là thụ tạo được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và được mời gọi trở thành con cái Thiên Chúa (Ga 1,12).

Vì là con cháu của Nguyên Tổ sa ngã, chúng ta trở thành con cái bóng tối. Từ đó, có lời hứa về ánh sáng của ngày kỳ diệu (Is 30,26). Trong ngày đó, con cái ánh sáng sẽ “Đứng lên, bừng sáng lên. Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi” (Is 60,1); “Đức Chúa sẽ là ánh sáng vĩnh cửu chiếu soi ngươi, ánh quang huy của ngươi là Thiên Chúa ngươi thờ” (Is 60,19). Ngày đó chính là ngày Đức Giê-su xuất hiện. Chúng ta biết rằng, tự thân, chúng ta không thể giải thoát mình khỏi thân phận ‘con cái bóng tối’, nhưng nhờ Đức Giê-su là Ánh Sáng, chúng ta trở thành ‘con cái Ánh Sáng’. Trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su nói: “Ánh sáng còn ở giữa các ông ít lâu nữa thôi. Các ông hãy bước đi, bao lâu các ông còn có ánh sáng, kẻo bóng tối bắt chợt các ông. Ai bước đi trong bóng tối, thì không biết mình đi đâu. Bao lâu các ông còn có ánh sáng, hãy tin vào ánh sáng, để trở nên con cái ánh sáng” (Ga 12,35-36). Còn thánh Phao-lô minh định: “Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng; mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật” (Ep 5,8-9). Cũng theo thánh nhân: “Tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về đêm, cũng không thuộc về bóng tối” (1 Tx 5,5).

Sau khi công bố Tám Mối Phúc, Đức Giê-su nói với các môn đệ và những người đang lắng nghe: “Anh em là ánh sáng cho thế gian” (Mt 5,14). Đồng thời, Người cũng nói: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16). Điều Đức Giê-su muốn diễn tả về những người sống Tám Mối Phúc chính là những người đón nhận Ánh Sáng Đức Giê-su, sống theo Ánh Sáng Đức Giê-su và phản chiếu Ánh Sáng Đức Giê-su cho mọi người. Đây là bài học lớn cho mỗi người chúng ta, bởi vì, là Ki-tô hữu, chúng ta được mời gọi trở thành con cái Ánh Sáng, nhưng lắm lúc chúng ta đắm mình trong thế giới bóng tối. Hơn nữa, chúng ta cần ý thức rằng nếu chúng ta không có khả năng đón nhận, sống và phản chiếu Ánh Sáng Đức Giê-su cho người khác thì ít ra chúng ta đừng trở thành vật cản Ánh Sáng Đức Giê-su đến với họ.

Đức Giê-su là Ánh Sáng thế gian, do đó, Tin Mừng của Đức Giê-su chính là Tin Mừng Ánh Sáng cho mọi người. Thánh Gio-an Tẩy Giả đã khiêm tốn làm chứng cho Đức Giê-su và Tin Mừng Ánh Sáng của Người cách hữu hiệu và triệt để nhất: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gio-an. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng” (Ga 1,6-9). Với kinh nghiệm gặp gỡ và được Ánh Sáng Đức Giê-su soi dẫn, hai thánh Phao-lô và Ba-na-ba đã trở nên khí cụ hữu hiệu của Người. Các ngài khẳng định: “Chúa truyền cho chúng tôi thế này: Ta sẽ đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi đất” (Cv 13,47). Trong diễn từ trước mặt vua Ác-ríp-pa, thánh Phao-lô quả quyết: “Đấng Ki-tô sẽ chịu đau khổ và là người đầu tiên sống lại từ cõi chết, để loan báo ánh sáng cho dân Do-thái cũng như cho các dân ngoại” (Cv 26,23). Tiếp tục gia sản các tông đồ để lại và ý thức về căn tính, đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội giữa lòng thế giới, Công Đồng Vatican II tuyên bố: “Ánh sáng muôn dân chính là Chúa Kitô, nên Thánh Công Ðồng đang nhóm họp trong Chúa Thánh Thần hết lòng mong ước soi dẫn mọi người bằng ánh sáng của Chúa phản chiếu trên dung nhan Giáo Hội, bằng việc rao truyền Phúc Âm cho mọi tạo vật” (LG 1). Như thế, Ánh Sáng Đức Giê-su là Ánh Sáng cần được loan báo, cần được chia sẻ, cần được trao ban cho tất cả mọi người trong gia đình nhân loại.

Hơn nữa, Ánh Sáng Thiên Chúa, Ánh Sáng Đức Giê-su cũng là Ánh Sáng xét xử mọi người. Tư tưởng này đã được diễn tả trong Cựu Ước, chẳng hạn: “Đức Chúa là thẩm phán công minh đã phơi bày ra ánh sáng những điều bí ẩn” (2 Mcb 12,41); “Thiên Chúa vạch trần những tối tăm bí ẩn, phơi bày bóng tối tử thần ra ánh sáng” (G 12,22); “Người [Đức Chúa] mặc khải điều thẳm sâu và bí ẩn: Người biết những gì ở trong cõi tối tăm, và ánh sáng ở với Người” (Đn 2,22). Trong Tân Ước, được Ánh Sáng Phục Sinh của Đức Giê-su biến đổi, thánh Phao-lô viết: “Tất cả những gì bị vạch trần, đều do ánh sáng làm lộ ra; mà bất cứ điều gì lộ ra, thì trở nên ánh sáng” (Ep 5,13-14). Ngài cũng viết: “Xin anh em đừng vội xét xử điều gì trước kỳ hạn, trước ngày Chúa đến. Chính Người sẽ đưa ra ánh sáng những gì ẩn khuất trong bóng tối, và phơi bày những ý định trong thâm tâm con người” (1 Cr 4,5). Chúng ta cần để tâm suy niệm giáo lý này và áp dụng vào đời sống bằng cách luôn ý thức rằng khi chúng ta không có đủ ánh sáng cần thiết, chúng ta đừng phán xét người khác. Thông thường, chúng ta hay phán xét người khác dựa trên cảm tính bất ổn của chúng ta hay dựa trên những thông tin chưa được kiểm chứng. Hậu quả là chúng ta gây tổn thương lớn cho người khác và nhiều khi không thể bù đắp được. Do đó, cách tốt nhất và duy nhất để chúng ta có được sự hiểu biết đúng đắn về con người hay sự vật, hiện tượng nào đó là chúng ta hãy đi Đường Ánh Sáng Đức Giê-su và nhìn nhận mọi sự dưới Lăng Kính Ánh Sáng này.

Như đã được trình bày ở trên, theo mặc khải Kinh Thánh, ánh sáng và bóng tối không phải là hai ‘quyền lực’ cân tài ngang sức, hai quyền lực tương đương hay bằng nhau. Ánh Sáng Đức Giê-su là Ánh Sáng Vĩnh Cửu. Ánh Sáng Đức Giê-su luôn mạnh mẽ hơn các hình thức bóng tối của ma quỷ, thế gian, xác thịt. Tiếng nói cuối cùng của nhân loại, của toàn thể thế giới thụ tạo không phải là tiếng nói của bóng tối, nhưng là tiếng nói của Ánh Sáng. Theo thánh Gio-an: “Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng” (Ga 1,5). Các Ki-tô hữu được mời gọi cộng tác với Đức Giê-su và với nhau để thanh tẩy muôn hình thức bóng tối trong cộng đoàn mình, chẳng hạn, bóng tối của sự chia rẽ lòng người, bóng tối của sự hận thù ghen ghét, bóng tối của sự giấu mặt vu oan, bóng tối của sự phổ biến thông tin nặc danh gây phương hại cho người khác, bóng tối của sự đồng lõa trong việc làm cho sự dữ lan truyền.

Với sự hiện diện và hoạt động của Đức Giê-su giữa lòng nhân thế, thời cánh chung đã bắt đầu: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15). Trong thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô viết: “Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày” (Rm 13,12-13). Quả thật, càng ngày chúng ta càng gần với cánh chung của đời mình hơn, nghĩa là càng ngày chúng ta càng gần hơn với biến cố kết thúc hành trình trần thế của mình. Đức Giê-su là Ánh Sáng, là ‘Ngày’ của chúng ta. Do đó, như lời thánh Phao-lô, chúng ta hãy cởi bỏ con người cũ và mặc lấy Khí Giới Ánh Sáng Đức Giê-su để luôn được biến đổi, được tỏa sáng và cộng tác với Người trong việc chiếu rọi Ánh Sáng vào chốn tối tăm ở bất cứ nơi đâu chúng ta hiện diện và hoạt động (Rm 13,11-14).

Chương trình Thiên Chúa đối với nhân loại được thực hiện nhờ Đức Giê-su có thể tóm lược vào ba điểm chính: (1) Đức Giê-su là Ánh Sáng, Người đã đi Đường Ánh Sáng để đến với nhân loại; (2) Các Ki-tô hữu được mời gọi sống theo Đường Ánh Sáng của Người; (3) Các Ki-tô hữu được mời gọi phản chiếu Ánh Sáng của Người trong môi trường sống của mình. Viễn cảnh cánh chung của những ai đi Đường Ánh Sáng và phản chiếu Ánh Sáng Đức Giê-su được tác giả sách Khải Huyền (cuốn sách cuối cùng và cũng là chương cuối cùng của Bộ Kinh Thánh) diễn tả: “Các tôi tớ Thiên Chúa sẽ được nhìn thấy tôn nhan Người, và thánh danh Người ghi trên trán họ. Sẽ không còn đêm tối nữa, họ sẽ không cần ánh sáng của đèn, cũng chẳng cần ánh sáng mặt trời, vì Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ chiếu sáng trên họ, và họ sẽ hiển trị đến muôn thuở muôn đời” (Kh 22,4-5).

Những điểm được trình bày trên đây giúp chúng ta có được nhận thức tổng quát rằng Thiên Chúa hằng yêu thương nhân loại. Người đã sai Con của Người là Đức Giê-su đi Đường Ánh Sáng để đến với mọi người. Biến Cố Đức Giê-su hiện diện và hoạt động giữa lòng nhân thế, đặc biệt, việc mạc khải Người là Ánh Sáng thế gian làm nổi bật cuộc xung đột giữa ánh sáng và bóng tối trên phương diện luân lý: Ánh sáng xác định phẩm tính các lãnh vực thuộc về Thiên Chúa và Đức Giê-su, trong khi đó bóng tối xác định phẩm tính các lãnh vực thuộc về ma quỷ và sự dữ. Con người bị giằng co giữa hai thái cực phải chọn lựa để trở thành ‘con cái ánh sáng’ hoặc ‘con cái bóng tối’. Nhờ Đức Giê-su chiếu rọi, chúng ta trở thành con cái Ánh Sáng. Do đó, chúng ta hãy sống sao cho xứng đáng với phẩm giá của mình. Trong hành trình dương thế, Đức Giê-su đã tới thung lũng tối tăm nhất của thân phận con người là thung lũng sự chết. Nhờ đó, chúng ta được Thiên Chúa “gọi ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền” (1 Pr 2,9) và được “chung hưởng phần gia nghiệp của dân thánh trong cõi đầy ánh sáng”“vương quốc Thánh Tử chí ái” (Cl 1,12-13).

Gm. Phêrô Nguyễn Văn Viên
Ủy ban Giới Trẻ và Thiếu Nhi / HĐGM VN

Các chủ đề học hỏi và suy niệm năm 2020:

Chủ sự: Lm. Chánh xứ Phaolô Nguyễn Quốc Hưng.

Cầu nguyện Taize trước Thánh Thể: Kết thúc tháng cầu cho các linh hồn và sống tâm tình Mùa Vọng – 30/11/2020.

Kính mời quý vị cùng hiệp thông và đừng quên nhấn vào nút “Đăng ký” để theo dõi những video mới nhất từ Giáo xứ Tân Định.

Kênh Youtube của giáo xứ Tân Định:

02/12 – Thứ Tư tuần 1 mùa vọng.
“Chúa Giêsu chữa nhiều người và hoá bánh ra nhiều”.

LỜI CHÚA: Mt 15, 29-37

Khi ấy, Chúa Giêsu đến gần biển Galilêa, và Người lên ngồi trên núi; dân chúng lũ lượt đến cùng Người, đem theo kẻ câm, mù, què, liệt và nhiều người khác, và đặt họ dưới chân Người. Người đã chữa lành họ. Dân chúng kinh ngạc nhìn thấy kẻ câm nói được, người què bước đi, người đui lại thấy, và họ tôn vinh Thiên Chúa Israel.

Còn Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ mà phán: “Ta thương xót đoàn lũ này, vì đã ba ngày, họ ở lại với Ta, nhưng không có gì ăn. Ta không muốn cho họ về bụng đói, sợ họ té xỉu dọc đàng”. Các môn đệ thưa Người: “Chúng con lấy đâu đủ bánh trong hoang địa này mà cho ngần ấy dân chúng ăn no?” Chúa Giêsu nói với họ: “Các con có bao nhiêu chiếc bánh?” Họ thưa: “Có bảy chiếc, và ít con cá nhỏ”. Người truyền dân chúng ngồi xuống đất. Người cầm lấy bảy chiếc bánh và mấy con cá, tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ, các môn đệ đem cho dân chúng. Tất cả đều ăn no, và mảnh vụn còn lại người ta thu lượm được bảy thúng đầy. Số người đã ăn lên tới bốn ngàn, không kẻ đàn bà con nít. Sau khi giải tán dân chúng, Người bước lên thuyền và đến địa phận Magađan.

01/12 – Thứ Ba tuần 1 mùa vọng.
“Chúa Giêsu đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần”

Lời Chúa: Lc 10, 21-24

Khi ấy, Chúa Giêsu đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần, Người nói: “Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì đã giấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết những điều này, nhưng đã tỏ cho những kẻ đơn sơ. Vâng lạy Cha, đó là ý Cha đã muốn thế. Cha Ta đã trao phó cho Ta mọi sự. Không ai biết Chúa Con là ai, ngoài Chúa Cha; cũng không ai biết Chúa Cha là Ðấng nào, ngoài Chúa Con, và những người được Chúa Con muốn tỏ cho biết!”

Rồi Chúa Giêsu quay lại phía các môn đệ và phán: “Hạnh phúc cho những con mắt được xem những điều chúng con xem thấy; vì chưng Ta bảo các con: có nhiều tiên tri và vua chúa đã muốn xem những điều chúng con thấy, mà chẳng được xem, muốn nghe những điều chúng con nghe, mà đã chẳng được nghe.