15/04 – Thứ Bảy tuần BÁT NHẬT PHỤC SINH.

“Các con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng”.

Lời Chúa: Mc 16, 9-15

Khi Chúa Giêsu sống lại, sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, thì trước hết Người hiện ra với Maria Mađalêna, kẻ đã được Chúa đuổi bảy quỷ. Bà đi báo tin cho những kẻ đã từng ở với Người và nay đang buồn thảm khóc lóc. Họ nghe bà nói Chúa sống lại và bà đã thấy Người, nhưng họ không tin.

Sau đó, Chúa lại hiện ra dưới hình thức khác với hai môn đệ đang trên đường về miền quê. Hai ông trở về báo tin cho anh em, nhưng họ cũng không tin các ông ấy.

Sau hết, Chúa hiện ra với mười một tông đồ lúc đang ngồi ăn. Chúa khiển trách các ông đã cứng lòng, vì các ông không tin những kẻ đã thấy Người sống lại. Rồi Người phán: “Các con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cho muôn loài”.

Suy niệm: Trước khi về trời, Chúa Giê-su đã truyền mệnh lệnh tối hậu cho các môn đệ rằng: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”. Thế nên, loan báo Tin Mừng là căn tính của mọi Ki-tô hữu. Không thực hiện sứ mạng đó, người Ki-tô hữu không còn là Ki-tô hữu nữa. Sứ mạng này có độ lan rộng đến “tứ phương thiên hạ” và có đối tượng mở rộng đến “mọi loài thọ tạo”. Vì thế, để loan báo Tin Mừng, trước hết, người môn đệ phải dám ra khỏi chính mình. Nếu không ra khỏi chính mình, ra khỏi vùng an toàn của mình, người môn đệ sẽ không thể đến với người khác để loan báo Tin Mừng cho họ. Khi đó, người môn đệ sẽ chỉ trú mình trong cái vỏ ốc của mình, vốn sẽ cầm giữ và ngăn cản mình đến với người khác. Ra khỏi mình để đến với người khác. Trong tông huấn “Niềm Vui Tin Mừng” ĐTC Phan-xi-cô mời gọi: “Tôi thà có một Hội Thánh bị bầm dập, mang thương tích và nhơ nhuốc vì đi ra ngoài đường, hơn là một Hội Thánh ốm yếu vì bị giam hãm và bám víu vào sự an toàn của mình”.

Mời Bạn: Không cần phải đi du lịch vòng quanh thế giới mới là đi ra. Loan Tin Mừng trong thời hiện đại này là đến với mọi người mà bạn gặp gỡ ngay hôm nay, là đem Tin Mừng vào mọi lãnh vực văn hoá, xã hội mà bạn tiếp cận, là chăm sóc môi trường đang bị lạm dụng trái với ý muốn của Thiên Chúa, Đấng Tạo Thành.

Sống Lời Chúa: Hôm nay, tôi làm vệ sinh thu dọn rác thải trong khu vực tôi đang sinh sống như một hành vi loan báo Tin Mừng.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã sống lại, xin phục sinh tâm hồn con và cho con biết đi ra để đem niềm vui Phục sinh đến cho mọi người. Amen.

14/04 – Thứ Sáu tuần BÁT NHẬT PHỤC SINH.

“Chúa Giêsu đến, cầm bánh và cá trao cho họ ăn”.

Lời Chúa: Ga 21, 1-14

Khi ấy, lúc các môn đệ đang ở bờ biển Tibêria, Chúa Giêsu lại hiện đến. Công việc đã xảy ra như sau: Simon Phêrô, Tôma cũng gọi là Điđymô, Nathanael quê tại Cana xứ Galilêa, các con ông Giêbêđê, và hai môn đệ nữa đang ở với nhau. Simon Phêrô bảo: “Tôi đi đánh cá đây”. Các ông kia nói rằng: “Chúng tôi cùng đi với ông”. Mọi người ra đi xuống thuyền. Nhưng đêm ấy các ông không bắt được con cá nào.

Lúc rạng đông, Chúa Giêsu hiện đến trên bờ biển, nhưng các môn đệ không biết là Chúa Giêsu. Người liền hỏi: “Này các con, có gì ăn không?” Họ đồng thanh đáp: “Thưa không”. Chúa Giêsu bảo: “Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được”. Các ông liền thả lưới và hầu không kéo nổi lưới lên, vì đầy cá. Người môn đệ Chúa Giêsu yêu, liền nói với Phêrô: “Chính Chúa đó”. Simon Phêrô nghe nói là Chúa, liền khoác áo vào, vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. Các môn đệ khác chèo thuyền vào và kéo lưới đầy cá theo, vì không còn xa đất bao nhiêu, chỉ độ hai trăm thước tay.

Khi các ông lên bờ, thấy có sẵn lửa than, trên để cá và bánh. Chúa Giêsu bảo: “Các con hãy mang cá mới bắt được lại đây”. Simon Phêrô xuống thuyền kéo lưới lên bờ. Lưới đầy toàn cá lớn; tất cả được một trăm năm mươi ba con. Dầu cá nhiều đến thế, nhưng lưới không rách. Chúa Giêsu bảo rằng: “Các con hãy lại ăn”. Không ai trong đám ngồi ăn dám hỏi: “Ông là ai?” Vì mọi người đã biết là Chúa. Chúa Giêsu lại gần, lấy bánh trao cho các môn đệ; Người cũng cho cá như thế.

Đây là lần thứ ba, Chúa Giêsu đã hiện ra với môn đệ khi Người từ cõi chết sống lại.

Suy niệm: Ta thường trân trọng những kỷ niệm: một món quà lưu niệm, tấm hình ngày xưa còn bé, nhất là người xưa cảnh cũ… Trân trọng kỷ niệm là điều tốt, thế nhưng, coi Đức Giê-su như một kỷ niệm thì không được! Đó là trường hợp các môn đệ bên bờ Biển Hồ hôm nay. Các ông quên lời Thầy: trở thành kẻ lưới người, dường như các ông chỉ quen và thích lưới cá hơn! Thầy Giê-su đã quy tụ các ông thành một nhóm, và rồi hôm nay dường như Ngài không còn hiện diện với các ông nữa mà chỉ là một kỷ niệm đẹp của chuyện ngày xưa! Chính lúc ấy, Đức Giê-su phục sinh hiện đến, nhắc các ông nhớ rằng Ngài vẫn hiện diện bên cạnh, chu đáo săn sóc và giúp các ông thành công trong công cuộc lưới người như lưới cá, mà mẻ lưới đầy cá là một biểu tượng.

Mời Bạn: Đừng xem Đức Ki-tô phục sinh như một nhân vật của quá khứ, như một kỷ niệm đẹp của thời xưa. Ngài là Đấng đang sống, đồng hành với bạn trên mọi nẻo đường đời và biến cuộc sống của bạn trở nên một với cuộc sống của Ngài.

Sống Lời Chúa: Mỗi sáng khi thức dậy, tôi nhớ rằng Đức Ki-tô phục sinh đang ở với tôi, ân cần chăm sóc và giúp tôi sống phẩm giá cao trọng của người con Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin thứ lỗi cho chúng con khi chúng con chỉ coi Chúa như một kỷ niệm ngày xưa, mà không như một Thiên Chúa đang sống, đang hoạt động trong cuộc đời mỗi người chúng con. Xin giúp chúng con nhận ra và cố gắng sống với Chúa thật tốt đẹp. Amen.

12/04 – Thứ Tư tuần BÁT NHẬT PHỤC SINH.

“Hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh”.

Lời Chúa: Lc 24, 13-35

Cùng ngày thứ nhất trong tuần, có hai môn đệ đi đến một làng tên là Em-mau, cách Giêrusalem độ sáu mươi dặm. Dọc đường, các ông nói với nhau về những việc vừa xảy ra. Đang khi họ nói truyện và trao đổi ý kiến với nhau, thì chính Chúa Giêsu tiến lại cùng đi với họ, nhưng mắt họ bị che phủ nên không nhận ra Người. Người hỏi: “Các ông có truyện gì vừa đi vừa trao đổi với nhau mà buồn bã vậy?” Một người tên là Clêophas trả lời: “Có lẽ ông là khách hành hương duy nhất ở Giêrusalem mà không hay biết những sự việc vừa xảy ra trong thành mấy ngày nay”. Chúa hỏi: “Việc gì thế?” Các ông thưa: “Sự việc liên can đến ông Giêsu quê thành Nadarét. Người là một vị tiên tri có quyền lực trong hành động và ngôn ngữ, trước mặt Thiên Chúa và toàn thể dân chúng. Thế mà các trưởng tế và thủ lãnh của chúng ta đã bắt nộp Người để xử tử và đóng đinh Người vào thập giá. Phần chúng tôi, chúng tôi vẫn hy vọng Người sẽ cứu Israel. Các việc ấy đã xảy ra nay đã đến ngày thứ ba rồi. Nhưng mấy phụ nữ trong nhóm chúng tôi, quả thật đã làm chúng tôi lo sợ. Họ đến mồ từ tảng sáng. Và không thấy xác Người, họ trở về nói đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng: Người đang sống. Vài người trong chúng tôi cũng ra thăm mồ và thấy mọi sự đều đúng như lời các phụ nữ đã nói; còn Người thì họ không gặp”.

Bấy giờ Người bảo họ: “Ôi kẻ khờ dại, chậm tin các điều tiên tri đã nói! Chớ thì Đấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ như vậy rồi mới được vinh quang sao?” Đoạn Người bắt đầu từ Môsê đến tất cả các tiên tri, giải thích cho hai ông tất cả các lời Kinh Thánh chỉ về Người. Khi gần đến làng hai ông định tới, Người giả vờ muốn đi xa hơn nữa. Nhưng hai môn đệ nài ép Người rằng: “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã về chiều, và ngày sắp tàn”. Người liền vào với các ông.

Đang khi cùng các ông ngồi bàn, Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông. Mắt họ sáng ra và nhận ra Người. Đoạn Người biến mất.

Họ bảo nhau: “Phải chăng lòng chúng ta đã chẳng sốt sắng lên trong ta khi Người đi đường đàm đạo và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó ư?” Ngay lúc ấy họ chỗi dậy trở về Giêrusalem, và gặp mười một tông đồ và các bạn khác đang tụ họp. Các vị đó bảo hai ông: “Thật Chúa đã sống lại, và đã hiện ra với Simon”. Hai ông cũng thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào.

Suy niệm: Nhà văn Ki-tô giáo nổi tiếng N. Kazantzakis nói rằng: “Điều tôi quan tâm không phải là con người, mặt đất, bầu trời, mà là ngọn lửa thiêu đốt con người, mặt đất, bầu trời”. Nếu vậy, ông nghĩ thế nào về hai môn đệ Em-mau hôm nay? Hai môn đệ “hết lửa”! Một đội bóng “hết lửa” chỉ có từ thua đến thua to! Hai môn đệ “hết lửa” với Thầy, với công cuộc của Thầy, chỉ còn nước cờ duy nhất là đào tẩu về nhà! Thế nhưng, khi được gặp Đức Ki-tô phục sinh thì mọi sự đổi khác. Họ được chuyền “lửa”, tiếp thêm “lửa” nhờ Lời và Thánh Thể của Ngài : “Dọc đường, khi Người nói chuyện… lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao ?” Đầy “lửa” đến độ họ đứng dậy, vượt quãng đường 12 km ngay trong đêm, để gặp các bạn làm chứng rằng mình đã gặp Thầy.

Mời Bạn: Nhìn lại mình để xem bạn còn “lửa” không? Lửa yêu mến Chúa, lửa say mê công cuộc cứu độ cao cả của Ngài, lửa yêu thương đồng loại, lửa yêu mến người thân, nhất là người bạn đời?

Sống Lời Chúa: Để thêm “lửa” trong đời sống đạo, tôi sẽ trung thành đọc Lời Chúa và nỗ lực sống Lời ấy mỗi ngày.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin cho chúng con ngọn lửa trong Trái Tim Chúa. Xin làm tim chúng con ấm lại mỗi ngày, nhờ được nghe Chúa nói như hai môn đệ về Em-mau, và được Chúa nuôi bằng bánh ban sự sống. Ước gì chúng con luôn có lửa nhiệt tình để hết lòng phụng sự Nước Chúa, lửa tình yêu để vượt qua những hận thù đố kỵ. Amen.                    

(Rabbouni)

11/04 – Thứ Ba tuần BÁT NHẬT PHỤC SINH.

“Tôi đã trông thấy và Người đã phán với tôi những điều ấy”.

Lời Chúa: Ga 20, 11-18

Khi ấy, bà Maria đang còn đứng gần mồ Chúa mà than khóc. Nhìn vào trong mồ, bà thấy hai thiên thần mặc áo trắng đang ngồi nơi đã đặt xác Chúa Giêsu, một vị ngồi phía đàng đầu, một vị ngồi phía đàng chân. Hai vị hỏi: “Tại sao bà khóc?” Bà trả lời: “Người ta đã lấy mất xác Chúa tôi và tôi không biết người ta đã để Người ở đâu?”

Vừa nói xong, bà quay mặt lại, thì thấy Chúa Giêsu đã đứng đó, nhưng bà chưa biết là Chúa Giêsu. Chúa Giêsu hỏi: “Bà kia, sao mà khóc, bà tìm ai?” Tưởng là người giữ vườn, Maria thưa: “Thưa ông, nếu ông đã mang xác Người đi, thì xin cho tôi biết ông đã đặt Người ở đâu, để tôi đến lấy xác Người”. Chúa Giêsu gọi: “Maria”. Quay mặt lại, bà thưa Người: “Rabboni!” (nghĩa là “Lạy Thầy!”). Chúa Giêsu bảo bà: “Đừng động đến Ta, vì Ta chưa về cùng Cha Ta. Nhưng hãy đi báo tin cho các anh em Ta hay và bảo họ rằng: Ta về cùng Cha Ta, cũng là Cha các con; về cùng Thiên Chúa Ta, cũng là Thiên Chúa các con”.

Maria Mađalêna đi báo tin cho các môn đệ rằng: “Tôi đã trông thấy Chúa và Chúa đã phán với tôi những điều ấy”.

Suy niệm: Lạ một điều là khi Đức Ki-tô phục sinh hiện ra cho những người thân, rất thân nữa là đàng khác, họ lại không nhận ra Ngài! Ngài mà bà Ma-ri-a tưởng là người làm vườn; hai môn đệ Em-mau nghĩ là khách bộ hành; các môn đệ trên Biển Hồ lầm là khách đi dạo trên biển. Ngài quá thay đổi hay mắt họ có vấn đề? Thật ra, từ nay Đức Ki-tô phục sinh mang chiều kích của cả vũ trụ, không còn bị hạn chế nơi một thân xác thể lý. Ngài hiện diện nơi mọi người, mang lấy khuôn mặt của từng người. Ma-ri-a chỉ nhận ra khi được Ngài gọi đích danh; hai môn đệ nhận ra khi Ngài bẻ bánh; trên Biển Hồ, các môn đệ chỉ khám phá ra Ngài sau mẻ cá lạ. Vậy thì để có thể nhận ra Đức Ki-tô, phải có kinh nghiệm gặp gỡ Ngài, có tương quan cá vị với Ngài.

Mời Bạn: Hãy nhận ra Đức Ki-tô phục sinh đang hiện diện nơi những người thân trong gia đình, nơi bạn bè, thậm chí nơi những kẻ bạn không ưa thích. Bạn có cách nào để dễ nhận diện ra Ngài không?

Sống Lời Chúa: Tôi sẽ nói năng, cư xử thân ái, hoà nhã với mọi người tôi gặp gỡ mỗi ngày để tập nhận ra Đức Ki-tô phục sinh hiện diện nơi họ.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su phục sinh, xin cho chúng con sự sống của Chúa, sự sống làm đời chúng con mãi xanh tươi. Xin cho chúng con bình an của Chúa, bình an làm chúng con vững tâm giữa sóng gió cuộc đời. Xin cho chúng con niềm vui của Chúa, niềm vui làm khuôn mặt chúng con tươi tắn. Xin cho chúng con nhận ra Chúa nơi mọi người.

(Rabbouni).

10/04 – Thứ Hai tuần BÁT NHẬT PHỤC SINH.

“Hãy đi nói với anh em đến Galilêa mà gặp Ta ở đó”.

Lời Chúa: Mt 28, 8-15

Khi ấy, các bà vội ra khỏi mồ vừa sợ lại vừa hớn hở vui mừng, chạy báo tin cho các môn đệ Chúa. Và này Chúa Giêsu đón gặp các bà, Người nói: “Chào các bà”. Các bà liền lại gần ôm chân Người và phục lạy. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo: “Các bà đừng sợ. Hãy đi báo tin cho các anh em Ta phải trở về Galilêa, rồi ở đó họ sẽ gặp Ta”.

Đang khi các bà lên đường, thì mấy người lính canh vào thành báo tin cho các thượng tế biết tất cả những gì đã xảy ra. Các thượng tế liền họp với các kỳ lão, và sau khi đã bàn định, họ cho lính một số tiền lớn và bảo rằng: “Các anh hãy nói rằng: Ban đêm khi chúng tôi đang ngủ, thì môn đệ ông đến lấy trộm xác ông. Nếu việc này đến tai tổng trấn, chúng tôi sẽ thương lượng với ông, không để các anh phải phiền hà đâu”.

Bọn lính canh nhận tiền và đã làm y như họ căn dặn chúng. Bởi thế, lời đó được phao truyền nơi người Do-thái cho đến ngày nay.

Suy niệm: Các phụ nữ đã từng gặp gỡ và đi theo Chúa Giê-su, họ biết và yêu mến Ngài. Cái chết của Ngài khiến họ đau buồn dường như tuyệt vọng. Trong nước mắt, họ đã đến mộ Chúa mà than khóc (x. Ga 20,11). Họ chứng kiến “đất rung chuyển dữ dội”, họ thấy thiên thần Chúa báo tin “Ngài đã trỗi dậy và không còn ở đây nữa”. Thế nhưng bấy nhiêu đó không làm cho họ vơi đi nỗi buồn và lo sợ. Chỉ đến khi Đức Giê-su phục sinh thân hành hiện ra với họ và “chào các chị em”, lúc đó bao nhiêu cảm xúc thân thương ùa về, niềm vui gặp Đấng Phục Sinh xua tan mọi nỗi đau buồn, sợ hãi. Họ hớn hở vội vã về báo tin cho anh em, để chia sẻ niềm vui và lời nhắn của Đấng Phục Sinh hẹn gặp họ ở Ga-li-lê để tham gia vào sứ mạng mới: loan truyền tin vui phục sinh.

Mời Bạn: Nhà côn trùng học J. Fabre, người đã gặp Chúa trong việc nghiên cứu của mình, đã từng khẳng định rằng: “Sau hơn 30 năm quan sát và nghiền ngẫm, tôi không còn nói được là tôi tin vào Thiên Chúa, mà là đã gặp thấy Người.” Quả thật, chỉ nơi những người có kinh nghiệm cá vị gặp gỡ Thiên Chúa, niềm vui ấy mới lâu bền, vượt trên mọi thử thách. Bạn đã cảm nghiệm Đức Ki-tô phục sinh hiện diện trong cuộc sống của bạn và trao cho bạn sứ mạng nào?

Sống Lời Chúa: Bạn chia sẻ cảm nghiệm niềm vui Phục Sinh nơi bạn cho một người sống gần bên bạn bằng một cử chỉ thân ái, bằng tinh thần lạc quan vui tươi và một việc làm bác ái.

Cầu nguyện: Alleluia, Alleluia, Alleluia. Xin Chúa Ki-tô Phục Sinh, xin ban niềm vui của Chúa Phục Sinh cho nhân loại và cho từng người chúng con khi chúng con kết hợp với Chúa. Amen.

 

09/04 – CHÚA NHẬT CHÚA PHỤC SINH.

“Người phải sống lại từ cõi chết”.

Lời Chúa: Ga 20, 1-9

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Ngày đầu tuần, Maria Mađalêna đi ra mồ từ sáng sớm khi trời còn tối và bà thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mồ, bà liền chạy về tìm Simon-Phêrô và người môn đệ kia được Chúa Giêsu yêu mến, bà nói với các ông rằng: “Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu”.

Phêrô và môn đệ kia ra đi đến mồ. Cả hai cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô, và đến mồ trước. Ông cúi mình xuống thấy những khăn liệm để đó, nhưng ông không vào trong. Vậy Simon-Phêrô theo sau cũng tới nơi, ông vào trong mồ và thấy những dây băng nhỏ để đó, và khăn liệm che đầu Người trước đây, khăn này không để lẫn với dây băng, nhưng cuộn lại để riêng một chỗ.

Bấy giờ môn đệ kia mới vào, dù ông đã tới mồ trước. Ông thấy và ông tin, vì chưng các ông còn chưa hiểu rằng, theo Kinh Thánh, thì Người phải sống lại từ cõi chết.

Suy niệm: Nhiều người thắc mắc: Tại sao Chúa Ki-tô không thể hiện việc phục sinh một cách tỏ tường, rầm rộ để mọi người dù muốn dù không đều khẩu phục tâm phục, xoá tan mọi thuyết âm mưu? Trái lại, mọi sự diễn ra thật êm ả, hiện trường của sự kiện sống lại chỉ là một ngôi mộ trống: tảng đá lấp cửa mộ đã lăn ra một bên, bên trong mộ tấm khăn liệm với những băng vải được xếp lại gọn gàng. Thế nhưng sự hoang mang ban đầu đã sớm trở thành niềm xác tín. Bà Ma-ri-a Mác-đa-la mới đầu còn hoảng hốt báo tin xác Chúa đã biến mất, nhưng rồi bà đã trở lại, mừng rỡ khẳng định: “Tôi đã thấy Chúa” (Ga 20,18). Còn “người môn đệ được Chúa thương mến” chứng kiến ngôi mộ trống đã điềm đạm cho biết: “Ông đã thấy và đã tin” (Ga 20,8).

Mời Bạn: Niềm tin Đức Ki-tô phục sinh, ngay từ đầu đã dựa trên những chứng từ vững chắc. 1/ Bao lâu chưa chứng minh được ai đã “lấy trộm xác Chúa” và động cơ hành động là gì thì sự kiện “mộ trống” vẫn là chứng cứ đầu tiên rằng Chúa đã sống lại. 2/ Chứng từ quan trọng và mạnh mẽ nhất đến từ những người môn đệ vốn “nhát sợ, cứng lòng tin” (x. Mt 8,26), đã từng trốn chạy, chối Thầy, nay lại mạnh mẽ tuyên bố: “Chúng tôi đã thấy Chúa, chúng tôi làm chứng” (x. Cv 2,32). Bạn có suy gẫm về những chứng từ này để rồi chính bạn cũng sẽ làm chứng không?

Sống Lời Chúa: Bạn nghiền ngẫm về lời chứng của các tông đồ và quyết tâm làm chứng cho Chúa bằng cả đời sống mình.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su phục sinh, con xin thưa với Chúa như Tô-ma đã thưa: Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con. Amen.

08/04 – THỨ BẢY TUẦN THÁNH. ĐÊM THÁNH VỌNG CHÚA PHỤC SINH.

“Ngài đã sống lại và sẽ đến xứ Galilêa”.

Lời Chúa: Mt 28, 1-10

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Qua chiều ngày Sabbat, khi ngày thứ nhất trong tuần vừa tảng sáng, Maria Mađalêna và bà Maria khác đến thăm mồ. Bỗng chốc đất chuyển mạnh vì Thiên Thần Chúa từ trời xuống và đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên đó. Mặt Người sáng như chớp và áo Người trắng như tuyết. Vì thế những lính canh khiếp đảm run sợ và hầu như chết.

Nhưng Thiên Thần lên tiếng và bảo các người nữ rằng: “Các bà đừng sợ. Ta biết các bà tìm Chúa Giêsu, Người đã chịu đóng đinh. Người không có ở đây vì Người đã sống lại như lời Người đã nói. Các bà hãy đến mà coi nơi đã đặt Người và đi ngay bảo các môn đệ Người rằng: Người đã sống lại, và kìa Người đến xứ Galilêa trước các ông: Ở đó các ông sẽ gặp Người. Ðây Ta đã báo trước cho các bà hay”. Hai bà vội ra khỏi mồ, vừa sợ lại vừa hớn hở vui mừng, chạy báo tin cho các môn đệ Người.

Và này Chúa Giêsu đón gặp các bà, Người nói: “Chào các bà”. Các bà liền lại gần ôm chân Người và phục lạy. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo: “Các bà đừng sợ. Hãy đi báo tin cho các anh em Ta phải trở về Galilêa, rồi ở đó, họ sẽ gặp Ta”.

Suy niệm: Ngày thứ bảy sau khi hoàn tất công trình sáng tạo, Thiên Chúa nghỉ ngơi. Và cũng vào một ngày thứ bảy, sau khi hoàn tất công trình cứu chuộc trên thập giá – một cuộc sáng tạo mới – Chúa Giê-su cũng an nghỉ. Đó là sự an nghỉ trong vâng phục và phó thác: Đấng có thể làm được mọi sự lại cam chịu nhắm mắt xuôi tay, để vâng phục tuyệt đối thánh ý Chúa Cha; Ngài “vô vi”, không làm gì cả, để mọi chấm mọi phẩy trong chương trình cứu chuộc được hoàn tất. Chịu an táng trong mồ tối, Ngài trải qua trọn vẹn thân phận nhập thể chìm sâu tới đáy cùng của kiếp người: “Ngài đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,7-8).

Mời Bạn: Phải chăng lắm khi chúng ta khuấy động như những con rối? Lúc đó chúng ta hãy học với Ngài mẫu gương hoàn hảo của lòng vâng phục: án binh bất động những toan tính theo cái tôi ích kỷ để cho Thiên Chúa toàn quyền hành động trên cuộc sống của mình.

Sống Lời Chúa: Tập sống “vô vi” như Chúa: – không nói, không hành động khi đang nóng giận, nhất là không nói những lời thô tục, không hành động vũ phu, cộc cằn.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin dạy con sống hiền lành và khiêm nhường như Chúa. Xin dạy con biết dừng lại những toan tính theo ý riêng, để thánh ý Chúa được thể hiện trong cuộc sống của con.

07/04 – THỨ SÁU TUẦN THÁNH. KỶ NIỆM CUỘC KHỔ NẠN CỦA CHÚA.

“Sự Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”.

Lời Chúa: Ga 18, 1 – 19, 42

C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn. J: Chúa Giêsu

C. Bài Thương Khó Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu đi với môn đệ sang qua suối Xêrông, ở đó có một khu vườn, Người vào đó cùng với các môn đệ. Giuđa, tên phản bội, đã biết rõ nơi đó, vì Chúa Giêsu thường đến đấy với các môn đệ. Nên Giuđa dẫn tới một toán quân cùng với vệ binh do các thượng tế và biệt phái cấp cho, nó đến đây với đèn đuốc và khí giới. Chúa Giêsu đã biết mọi sự sẽ xảy đến cho Mình, nên Người tiến ra và hỏi chúng: J. “Các ngươi tìm ai?” C. Chúng thưa lại: S. “Giêsu Nadarét”. C. Chúa Giêsu bảo: “Ta đây”. C. Giuđa là kẻ định nộp Người cũng đứng đó với bọn chúng. Nhưng khi Người vừa nói “Ta đây”, bọn chúng giật lùi lại và ngã xuống đất. Người lại hỏi chúng: J. “Các ngươi tìm ai?” C. Chúng thưa: S. “Giêsu Nadarét”. C. Chúa Giêsu đáp lại: “Ta đã bảo các ngươi rằng Ta đây! Vậy nếu các ngươi tìm bắt Ta, thì hãy để cho những người này đi”. C. Như thế là trọn lời đã nói: “Con chẳng để mất người nào trong những kẻ Cha đã trao phó cho Con”. Bấy giờ Simon Phêrô có sẵn thanh gươm, liền rút ra đánh tên đầy tớ vị thượng tế, chém đứt tai bên phải. Đầy tớ ấy tên là Mancô. Nhưng Chúa Giêsu bảo Phêrô rằng: J. “Hãy xỏ gươm vào bao. Chén Cha Ta đã trao lẽ nào Ta không uống!” C. Bấy giờ, toán quân, trưởng toán và vệ binh của người Do-thái bắt Chúa Giêsu trói lại, và điệu Người đến nhà ông Anna trước, vì ông là nhạc phụ của Caipha đương làm thượng tế năm ấy. Chính Caipha là người đã giúp ý kiến này cho người Do-thái: để một người chết thay cho cả dân thì lợi hơn. Còn Phêrô và môn đệ kia vẫn theo Chúa Giêsu. Môn đệ sau này quen vị thượng tế nên cùng với Chúa Giêsu vào trong sân vị thượng tế, còn Phêrô đứng lại ngoài cửa. Vì thế, môn đệ kia là người quen với vị thượng tế, nên đi ra nói với người giữ cửa và dẫn Phêrô vào. Cô nữ tì gác cửa liền bảo Phêrô: S. “Có phải ông cũng là môn đệ của người đó không?” C. Ông đáp: S. “Tôi không phải đâu”.

C. Đám thủ hạ và vệ binh có nhóm một đống lửa và đứng đó mà sưởi vì trời lạnh, Phêrô cũng đứng sưởi với họ. Vị thượng tế hỏi Chúa Giêsu về môn đệ và giáo lý của Người. Chúa Giêsu đáp: J. “Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ, Tôi thường giảng dạy tại hội đường và trong đền thờ, nơi mà các người Do-thái thường tụ họp, Tôi không nói chi thầm lén cả. Tại sao ông lại hỏi Tôi? Ông cứ hỏi những người đã nghe Tôi về những điều Tôi đã giảng dạy. Họ đã quá rõ điều Tôi nói”. C. Nghe vậy, một tên vệ binh đứng đó vả mặt Chúa Giêsu mà nói: S. “Anh trả lời vị thượng tế như thế ư”. C. Chúa Giêsu đáp: J. “Nếu Ta nói sai, hãy chứng minh điều sai đó; mà nếu Ta nói phải, thì tại sao anh lại đánh Ta?” C. Rồi Anna cho giải Người vẫn bị trói đến cùng vị thượng tế Caipha. Lúc ấy Phêrô đang đứng sưởi. Họ bảo ông: S. “Có phải ông cũng là môn đệ người đó không?” C. Ông chối và nói: S. “Tôi không phải đâu”. C. Một tên thủ hạ của vị thượng tế, có họ với người bị Phêrô chém đứt tai, cãi lại rằng: S. “Tôi đã chẳng thấy ông ở trong vườn cùng với người đó sao?” C. Phêrô lại chối nữa, và ngay lúc đó gà liền gáy.

Bấy giờ họ điệu Chúa Giêsu từ nhà Caipha đến pháp đình. Lúc đó tảng sáng và họ không vào pháp đình để khỏi bị nhơ bẩn và để có thể ăn Lễ Vượt Qua. Lúc ấy Philatô ra ngoài để gặp họ và nói: S. “Các ngươi tố cáo người này về điều gì”. C. Họ đáp: S. “Nếu hắn không phải là tay gian ác, chúng tôi đã không nộp cho quan”. C. Philatô bảo họ: S. “Các ông cứ bắt và xét xử theo luật của các ông”. C. Nhưng người Do-thái đáp lại: S. “Chúng tôi chẳng có quyền giết ai cả”. C. Thế mới ứng nghiệm lời Chúa Giêsu đã nói trước: Người sẽ phải chết cách nào. Bấy giờ Philatô trở vào pháp đình gọi Chúa Giêsu đến mà hỏi: S. “Ông có phải là Vua dân Do-thái không?” C. Chúa Giêsu đáp: J. “Quan tự ý nói thế, hay là có người khác nói với quan về tôi?” C. Philatô đáp: S. “Ta đâu phải là người Do-thái. Nhân dân ông cùng các thượng tế đã trao nộp ông cho ta. Ông đã làm gì?” C. Chúa Giêsu đáp: J. “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái, nhưng nước tôi không thuộc chốn này”. C. Philatô hỏi lại: S. “Vậy ông là Vua ư?” C. Chúa Giêsu đáp: J. “Quan nói đúng: Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng tôi”. C. Philatô bảo Người: S. “Chân lý là cái gì?” C. Nói lời này xong, ông lại ra gặp người Do-thái và bảo họ: S. “Ta không thấy nơi người này có lý do để khép án. Nhưng theo tục lệ các ngươi, ta sẽ phóng thích cho các ngươi một tù nhân vào dịp Lễ Vượt Qua. Vậy các ngươi có muốn ta phóng thích Vua Do-thái cho các ngươi chăng?” C. Họ liền la lên: S. “Không phải tên đó, nhưng là Baraba”. C. Baraba là một tên cướp. Bấy giờ Philatô truyền đem Chúa Giêsu đi mà đánh đòn Người. Binh sĩ kết một triều thiên bằng gai nhọn đội lên đầu Người và nói: S. “Tâu Vua Do-thái!” C. Và vả mặt Người. Philatô lại ra ngoài và nói: S. “Đây ta cho dẫn người ấy ra ngoài cho các ngươi để các ngươi biết rằng ta không thấy nơi người ấy một lý do để kết án”. C. Bấy giờ Chúa Giêsu đi ra, đội mão gai và khoác áo đỏ. Philatô bảo họ: S. “Này là Người”. C. Vừa thấy Người, các thượng tế và vệ binh liền la to: S. “Đóng đinh nó vào thập giá! Đóng đinh nó vào thập giá!” C. Philatô bảo họ: S. “Đấy các ngươi cứ bắt và đóng đinh ông vào thập giá, phần ta, ta không thấy lý do nào kết tội ông”. C. Người Do-thái đáp lại: S. “Chúng tôi đã có luật, và theo luật đó nó phải chết, vì nó tự xưng là Con Thiên Chúa”. C. Nghe lời đó Philatô càng hoảng sợ hơn. Ông trở vào pháp đình và nói với Chúa Giêsu: S. “Ông ở đâu đến?”

C. Nhưng Chúa Giêsu không đáp lại câu nào. Bấy giờ Philatô bảo Người: S. “Ông không nói với ta ư? Ông không biết rằng ta có quyền đóng đinh ông vào thập giá và cũng có quyền tha ông sao?” C. Chúa Giêsu đáp: J. “Quan chẳng có quyền gì trên tôi, nếu từ trên không ban xuống cho, vì thế nên kẻ nộp tôi cho quan, mắc tội nặng hơn”. C. Từ lúc đó Philatô tìm cách tha Người. Nhưng người Do-thái la lên: S. “Nếu quan tha cho nó, quan không phải là trung thần của Xêsa, vì ai xưng mình là vua, kẻ đó chống lại Xêsa”. C. Philatô vừa nghe lời đó, liền cho điệu Chúa Giêsu ra ngoài rồi ông lên ngồi toà xử, nơi gọi là Nền đá, tiếng Do-thái gọi là Gabbatha. Lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu ngày chuẩn bị Lễ Vượt Qua. Philatô bảo dân: S. “Đây là vua các ngươi”. C. Nhưng họ càng la to: S. “Giết đi! Giết đi! Đóng đinh nó đi!” C. Philatô nói: S. “Ta đóng đinh vua các ngươi ư?” C. Các thượng tế đáp: S. “Chúng tôi không có vua nào khác ngoài Xêsa”. C. Bấy giờ quan giao Người cho họ đem đóng đinh.

Vậy họ điệu Chúa Giêsu đi. Và chính Người vác thập giá đến nơi kia gọi là Núi Sọ, tiếng Do-thái gọi là Golgotha. Ở đó họ đóng đinh Người trên thập giá cùng với hai người khác nữa: mỗi người một bên, còn Chúa Giêsu thì ở giữa. Philatô cũng viết một tấm bảng và sai đóng trên thập giá. Bảng mang những hàng chữ này: “Giêsu, Nadarét, vua dân Do-thái”. Nhiều người Do-thái đọc được bảng đó, vì nơi Chúa Giêsu chịu đóng đinh thì gần thành phố, mà bảng viết thì bằng tiếng Do-thái, Hy-lạp và La-tinh. Vì thế các thượng tế đến thưa với Philatô:

S. Xin đừng viết “Vua dân Do Thái”, nhưng nên viết: “Người này đã nói: ‘Ta là vua dân Do-thái'”. C. Philatô đáp: S. “Điều ta đã viết là đã viết”. C. Khi quân lính đã đóng đinh Chúa Giêsu trên thập giá rồi thì họ lấy áo Người chia làm bốn phần cho mỗi người một phần, còn cái áo dài là áo không có đường khâu, đan liền từ trên xuống dưới. Họ bảo nhau: S. “Chúng ta đừng xé áo này, nhưng hãy rút thăm xem ai được thì lấy”. C. Hầu ứng nghiệm lời Kinh Thánh: “Chúng đã chia nhau các áo Ta và đã rút thăm áo dài của Ta”. Chính quân lính đã làm điều đó.

Đứng gần thập giá Chúa Giêsu, lúc đó có Mẹ Người, cùng với chị Mẹ Người là Maria, vợ ông Clopas và Maria Mađalêna. Khi thấy Mẹ và bên cạnh có môn đệ Người yêu, Chúa Giêsu thưa cùng Mẹ rằng: J. “Hỡi Bà, này là con Bà”. C. Rồi Người lại nói với môn đệ: J. “Này là Mẹ con”. C. Và từ giờ đó môn đệ đã lãnh nhận Bà về nhà mình. Sau đó, vì biết rằng mọi sự đã hoàn tất, để lời Kinh Thánh được ứng nghiệm, Chúa Giêsu nói: J. “Ta khát!” C. Ở đó có một bình đầy dấm. Họ liền lấy miếng bông biển thấm đầy dấm cắm vào đầu ngành cây hương thảo đưa lên miệng Người. Khi đã nếm dấm rồi, Chúa Giêsu nói: J. “Mọi sự đã hoàn tất”. C. Và Người gục đầu xuống trút hơi thở cuối cùng.

 

(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)

 

Hôm đó là ngày chuẩn bị lễ: để tội nhân khỏi treo trên thập giá trong ngày Sabbat, vì ngày Sabbat là ngày đại lễ, nên người Do-thái xin Philatô cho đánh dập ống chân tội nhân và cho cất xác xuống. Quân lính đến đánh dập ống chân của người thứ nhất và người thứ hai cùng chịu treo trên thập giá với Người. Nhưng lúc họ đến gần Chúa Giêsu, họ thấy Người đã chết, nên không đánh dập ống chân Người nữa, tuy nhiên một tên lính lấy giáo đâm cạnh sườn Người; tức thì máu cùng nước chảy ra. Kẻ đã xem thấy thì đã minh chứng, mà lời chứng của người đó chân thật, và người đó biết rằng mình nói thật để cho các người cũng tin nữa. Những sự việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh: “Người ta sẽ không đánh dập một cái xương nào của Người”. Lời Kinh Thánh khác rằng: “Họ sẽ nhìn xem Đấng họ đã đâm thâu qua”.

Sau đó, Giuse người xứ Arimathia, môn đệ Chúa Giêsu, nhưng thầm kín vì sợ người Do-thái, xin Philatô cho phép cất xác Chúa Giêsu. Philatô cho phép. Và ông đến cất xác Chúa Giêsu. Nicôđêmô cũng đến, ông là người trước kia đã đến gặp Chúa Giêsu ban đêm. Ông đem theo chừng một trăm cân mộc dược trộn lẫn với trầm hương. Họ lấy xác Chúa Giêsu và lấy khăn bọc lại cùng với thuốc thơm theo tục khâm liệm người Do-thái. Ở nơi Chúa chịu đóng đinh có cái vườn và trong vườn có một ngôi mộ mới, chưa chôn cất ai. Vì là ngày chuẩn bị lễ của người Do-thái và ngôi mộ lại rất gần, nên họ đã mai táng Chúa Giêsu trong mộ đó.

Suy niệm: Giống như trong gia đình khi có người thân qua đời, chúng ta thường ngồi lại nhớ lại, kể lại với nhau những việc người ấy làm, những lời người ấy nói và cách cư xử, cách sống của người ấy. Bao nhiêu kỷ niệm trở về mang cả bầu ký ức tuổi thơ và thời gian sống bên nhau. Hôm nay cả Giáo Hội lặng mình bên mộ Chúa với biết bao nỗi niềm đau đớn thương tâm không chỉ vì tiếc thương một con người đã chết cách tức tưởi đau thương vì những lời dối trá, vu oan, vì những ý đồ ghen tỵ, ham hố quyền lực, mà nhất là càng xót xa não lòng hơn bởi vì chính tội lỗi của mình, của cả nhân loại mới đích thực là nguyên nhân khiến Ngài phải chết như thế để cứu sống chúng ta.

Mời Bạn quỳ xuống bên mộ Chúa, phủ phục trước cây thập giá của Ngài và nhớ lại những lời dạy yêu thương, lòng thương xót và những cử chỉ nhân từ của Ngài đối với những ai bé mọn, khổ đau, tội lỗi. Bạn hãy nhớ lại những lần bạn sống bất công và gây ra đau khổ cho người khác, những việc làm như thế chẳng khác nào những mũi đinh, những nhát búa chát chúa đóng vào thân thể Chúa Ki-tô. Điểm nào trong cuộc sống của Thầy Giê-su đánh động tâm hồn bạn nhất? Bạn quyết tâm bắt chước sống như Chúa ở điểm nào?

Sống Lời Chúa: Quyết tâm làm một hy sinh, một việc phục vụ tha nhân cách vô vị lợi để vác thập giá theo Chúa Ki-tô.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin cho con biết đừng chỉ khóc thương vì những cực hình bất công Chúa gánh chịu mà khóc thương vì chính tội lỗi con, và xin giúp con cùng vác thập giá với Chúa bằng cách sẵn sàng hiến thân mình để góp phần xoá bỏ những bất công, đau khổ anh chị em đang phải chịu. Amen.

06/04 – THỨ NĂM TUẦN THÁNH. THÁNH LỄ TIỆC LY

“Ngài yêu thương họ đến cùng”.

Lời Chúa: Ga 13, 1-15

Trước ngày Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết đã đến giờ Mình phải bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha, Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến cùng. Sau bữa ăn tối, ma quỷ gieo vào lòng Giuđa Iscariô, con Simon, ý định nộp Người. Người biết rằng Chúa Cha đã trao phó mọi sự trong tay mình, và vì Người bởi Thiên Chúa mà đến và sẽ trở về cùng Thiên Chúa.

Người chỗi dậy, cởi áo, lấy khăn thắt lưng, rồi đổ nước vào chậu; Người liền rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. Vậy Người đến chỗ Simon Phêrô, ông này thưa Người rằng: “Lạy Thầy, Thầy định rửa chân cho con ư?” Chúa Giêsu đáp: “Việc Thầy làm bây giờ con chưa hiểu, nhưng sau sẽ hiểu”. Phêrô thưa lại: “Không đời nào Thầy sẽ rửa chân cho con”. Chúa Giêsu bảo: “Nếu Thầy không rửa chân cho con, con sẽ không được dự phần với Thầy”. Phêrô liền thưa: “Vậy xin Thầy hãy rửa không những chân con, mà cả tay và đầu nữa”. Chúa Giêsu nói: “Kẻ mới tắm rồi chỉ cần rửa chân, vì cả mình đã sạch. Tuy các con đã sạch, nhưng không phải hết thảy đâu”. Vì Người biết ai sẽ nộp Người nên mới nói: “Không phải tất cả các con đều sạch đâu”.

Sau khi đã rửa chân cho các ông, Người mặc áo lại, và khi đã trở về chỗ cũ, Người nói: “Các con có hiểu biết việc Thầy vừa làm cho các con chăng? Các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm, vì đúng thật Thầy như vậy. Vậy nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau. Vì Thầy đã làm gương cho các con để các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con”.

Suy niệm: Thánh Gio-an mô tả từng nét việc Chúa Giê-su rửa chân cho các môn đệ trong bữa Tiệc Ly, giống hệt như một khúc phim quay cận cảnh. Nhưng lạ một điều, không một chi tiết nào nhắc đến việc thiết lập bí tích Thánh Thể như trong ba Phúc Âm nhất lãm. Không phải thánh Gio-an quên sót một sự kiện quan trọng như thế, nhưng hẳn là ngài có một chủ ý. Để cho bí tích Thánh Thể không trở thành một kỷ niệm chìm sâu trong quá khứ hay một nghi thức trống rỗng không có nội dung, nó cần được cụ thể hoá thành hành động phục vụ trong khiêm tốn như Chúa Giê-su nêu mẫu gương khi rửa chân cho các môn đệ: “Nếu Thầy là Chúa, là Thầy mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau.”

Mời Bạn: Thầy Giê-su đã ra lệnh truyền như thế thì chúng ta không thể vẫn rước lễ “mỗi năm ít là một lần” hoặc nhiều hơn, hằng tuần, thậm chí hằng ngày, mà không “rửa chân cho nhau”, đó là sẵn sàng làm những việc nhỏ bé hèn mọn nhất để phục vụ người thân của mình.

Chia sẻ: Bạn sẽ thực hiện thế nào để “Bí tích Thánh Thể và công việc bác ái luôn đi đôi với nhau”?

Sống Lời Chúa: Bạn hướng tới việc tham dự thánh lễ để có thể rước Chúa mỗi ngày; và mỗi khi rước Chúa, bạn đừng quên dâng tặng Ngài món quà là một hành vi bác ái cho người anh em.

Cầu nguyện: Đêm nay, bạn hãy dành ít là một giờ chầu Thánh Thể để chiêm ngắm Chúa và tâm sự với Ngài.