Để diễn tả hạnh phúc Nước Trời, tác giả Kinh thánh thường dùng hình ảnh một bữa tiệc, nhất là tiệc cưới. Vào khoảng thế kỷ 8 trước Chúa Giáng sinh, ngôn sứ Isaia đã loan báo: Chúa các đạo binh sẽ thiết đãi tất cả các dân trên núi này một bữa tiệc đầy thịt và rượu, thịt thì béo, rượu thì ngon như trong bài đọc 1 chúng ta vừa nghe.

Bài Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu cũng dùng dụ ngôn bữa tiệc cưới của con vua để diễn tả về Nước Trời. Chúa Giêsu muốn dùng dụ ngôn này trước hết để ám chỉ về dân Do Thái. Thiên Chúa đã kêu gọi họ, tuyển chọn họ làm dân riêng, lập giao ước với họ để họ tin thờ một mình Ngài và giữ thánh luật Ngài truyền, nhưng họ lại đi thờ thần dân ngoại. Đã bao lần Thiên Chúa sai các ngôn sứ đến kêu gọi họ trở về với Ngài, nhưng họ vẫn chứng nào tật nấy. Cuối cùng, chính Con Thiên Chúa đến kêu mời họ sám hối ăn năn thì họ đã thẳng thừng từ chối, rồi bắt Ngài mà giết đi. Thiên Chúa đã trừng phạt họ bằng cách để quân Rôma đến san bằng Giêrusalem vào năm 70 sau Công nguyên và bắt họ phải tản mát, lưu đày khắp nơi.

Sau đó, Chúa Giêsu sai các tông đồ đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng và mời gọi muôn dân gia nhập Hội thánh Ngài.

Có một điều làm chúng ta thắc mắc khi nghe dụ ngôn này là tại sao lại có một khách dự tiệc không mặc lễ phục cưới, nên bị vua xử phạt nặng nề. Chúng ta tự hỏi những người đang đi đường, được mời vào tiệc cưới thì họ lấy đâu ra lễ phục cưới ? Vậy tại sao vua lại bắt tội như thế ?

– Trước hết chúng ta phải nhớ đây là một dụ ngôn, mà đã là dụ ngôn thì có thể có những điều không giống với thực tế của cuộc sống.

– Hơn nữa nếu đọc kỹ chúng ta sẽ thấy hai điều:

* Một là biết bao người đi đường cũng được mời vào dự tiệc cưới mà hỏi có ai bị phạt đâu ? Như vậy chắc chắn là người này bị phạt vì một điều lỗi gì đó!

* Hai là khi vua hỏi tại sao không mặc áo cưới thì anh ta im lặng. Thái độ đó nói lên rằng anh ta đã chịu lỗi, mà không thể chữa mình được.

Như vậy Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta một điều rất cụ thể. Thiên Chúa đã mời gọi chúng ta vào Hội thánh Ngài và chúng ta đã chấp nhận bằng cách lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Nhưng nếu chỉ lãnh nhận Bí tích Rửa tội mà thôi thì chưa đủ mà chúng ta còn phải sống ơn Bí tích Rửa tội nữa. Nghĩa là chúng ta phải thay đổi nếp sống cũ, thói quen xấu, tội lỗi trước đó, để sống đời sống mới theo gương của Chúa Giêsu như thánh Phaolô nói: “Anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thỏa mãn các dục vọng (Rm 13,14). Theo gương Chúa Giêsu là phải sống trong sạch, hiền lành, khiêm nhường, thánh thiện. Nói khác đi, không phải cứ ghi tên vào sổ Rửa tội và Thêm sức là đương nhiên được vào Nước Trời đâu. Cũng như khách được mời dự tiệc, tuy đã được vào phòng tiệc, nhưng không được ăn mà còn bị đuổi ra ngoài như người không mang lễ phục của tiệc cưới trong bài dụ ngôn hôm nay. Vậy điều quan trọng là một khi vào phòng tiệc mà muốn được ăn tiệc thì phải mặc lễ phục tiệc cưới,

Nhưng lễ phục tiệc cưới là gì ?

Thưa đó là những đòi hỏi của Bí tích Rửa tội! Người lãnh Bí tích Rửa tội phải quyết từ bỏ tội lỗi và tin theo Chúa Kitô.

Xét như thế thì chúng ta thấy nhiều khi chúng ta cũng giống như Người Do Thái xưa, tuy đã được Chúa chọn làm dân riêng Ngài, nhưng khi Ngài mời dự tiệc cưới Con Ngài thì lại kiếm cớ từ chối. Chúng ta cũng có nhiều lý do để từ chối tham dự thánh lễ Chúa nhật: nào là mắc buôn bán, học hành… Có khi chỉ là vì đam mê xem một cuốn phim, một trận đá bóng hấp dẫn, hay đang dở một cuộc nhậu nhẹt với bạn bè… Có khi đến tham dự thánh lễ mà tâm hồn còn mang tội trọng thì là sao mà xứng đáng dự tiệc Thánh Thể Chúa được.

Và đòi hỏi thứ hai của Bí tích Rửa tội là sống theo gương Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta phải sống yêu thương mọi người nhất là những người bất hạnh. Chúa nói: Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy: Là anh em có lòng yêu thương nhau (Ga 14, 35). Rồi chính Ngài đã mạc khải cho chúng ta: ngày phán xét, Ngài sẽ chỉ xét xử chúng ta về lòng bác ái yêu thương mà thôi (x. Mt 25).

Đây là câu chuyện nhỏ được kéo xuống từ Internet:

Từ nhỏ nó đã chơi với những đứa trẻ hư hỏng. Khi học trung học, nó thường xuyên bị giữ ở đồn công an vì tội đánh nhau. Sau đó nó bị đưa vào trường giáo dưỡng một thời gian. Chưa tốt nghiệp trung học nó đã bỏ học, suốt ngày chơi bời lêu lổng với đám thanh niên du côn. Cha mẹ tức giận đuổi nó ra khỏi nhà. Sau này với tội danh giết người, nó bị kết án tù 20 năm. Trong tù nó không chỉ ăn hiếp những tù nhân khác mà còn mấy lần định trốn trại. Vì thế hình phạt lại càng gia tăng. Mỗi khi trại giam cho người nhà vào thăm phạm nhân, nó là người nhàn rỗi nhất, bởi lẽ người thân chưa bao giờ đến thăm nó, hơn nữa nó cũng không hy vọng.

Nhưng vào một ngày kia, người quản giáo thông báo, có người đến thăm nó. Nó cứ tưởng mình nghe nhầm. Khi người quản giáo gọi tên nó một lần nữa, nó mới đi ra phòng tiếp thân nhân. Khi quay trở về phòng, nó đã khóc nức nở. Sau đó, nó dường như biến thành một người khác hắn, nghiêm chỉnh chấp hành nội quy, kỷ luật của trại giam, tích cực cải tạo

Người phụ nữ với mái đầu điểm bạc đến thăm nó hôm đó chính là cô giáo chủ nhiệm lớp hai của nó.

Tình yêu thương có thể thay đổi cuộc đời một con người. Vì thế hãy thương yêu những người xung quanh chúng ta. Chúa cũng chỉ muốn chúng ta như thế.

Thiếu nhi chúng con yêu quí,

Chúng ta vừa được nghe một dụ ngôn khác nữa của Chúa Giêsu. Dụ ngôn này có nhiều ý nghĩa. Cha chọn ý nghĩa dễ hiểu và thông thường nhất để nói chuyện với chúng con hôm nay.

Cha đố chúng con qua dụ ngôn này Chúa muốn nói với mọi người chúng ta điều gì ? Có nhiều điều Chúa muốn nói, nhưng theo cha thì có hai điều này con người hay vấp phạm và qua dụ ngôn này, Chúa muốn nói với chúng ta. Hai điều đó là:

– Thứ nhất là từ chối tình yêu của Thiên Chúa.

– Thứ hai là thiếu kính trọng đối với Thiên Chúa là Đấng luôn yêu thương con người.

1. Từ chối tình yêu của Thiên Chúa.

Thiên Chúa yêu thương con người. Đó là một hạnh phúc lớn lao không có gì sánh nổi. Tình yêu của Thiên Chúa thì vô biên nên Người khao khát chia sẻ. Thiên Chúa vô cùng tốt lành nên Người muốn thông ban hạnh phúc cho loài người. Tình yêu thì mãnh liệt khiến Người nảy sinh những sáng kiến kỳ diệu. Cho Con Một cưới lấy bản tính loài người để nâng loài người lên. Thiên Chúa mời gọi loài người vào hưởng hạnh phúc với Người. Thiên Chúa nâng loài người hèn hạ lên bậc thượng khách trong tiệc cưới. Thiên Chúa nâng loài người tôi tớ lên hàng con cái trong Nước Trời. Đưa nhân loại bơ vơ đầu đường xó chợ vào ngồi đồng bàn với các vị thần thánh trên trời.

Chẳng có gì có thể giải nghĩa được thái độ đó của Thiên Chúa. Chỉ có tình yêu. Đó là một tình yêu vô cùng mãnh liệt và hoàn toàn vô vị lợi. Tình yêu muốn chia sẻ hết những gì mình có. Tình yêu hoàn toàn vì người mình yêu. Mong muốn mọi sự tốt đẹp cho người mình yêu.

Thế nhưng thử hỏi con người đã đáp lại Tình Yêu của Thiên Chúa thế nào ?

Kinh Thánh đã cho chúng ta thấy dường như con người chỉ đáp lại bằng sự lãnh đạm, chối từ và nhiều lần đã phản bội. Lịch sử con người là lịch sử tình yêu bị chối từ như thế. Rõ rệt nhất là con người đã chối từ chính Con Một Thiên Chúa là Ngôi Lời mà Chúa đã gửi xuống trần gian để cứu rỗi loài người là Chúa Giêsu. Còn gì đau xót hơn như lời thánh Gioan Tông đồ đã nói: Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận”. (Ga 1,10-11)

Vâng, con người là như thế. Bài dụ ngôn hôm nay đã cho chúng ta thấy rõ điều đó. Những người được mời đã từ chối. “Quan khách không thèm đếm xỉa tới, lại bỏ đi: kẻ thì đi thăm trại, người thì đi buôn”(Mt 22,5) Tệ hơn họ: “còn bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và giết chết.(Mt 22,7).

Chúa đã đối xử lại thế nào thì dụ ngôn cũng đã cho chúng ta thấy: “Nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu hủy thành phố của chúng.”(Mt 22,11). Tội từ chối Thiên Chúa là tội rất lớn. Chúng ta hãy coi chừng để đừng mình vấp vào tội ấy. Hãy coi chừng: Thiên Chúa yêu thương nhưng không khoan nhượng đối với những kẻ dám thách thức Thiên Chúa.

Đây là câu chuyện xảy ra ngay trên đất nước của chúng ta. Câu chuyện cho mọi người thấy Chúa đã trừng phạt kẻ phạm thượng và bất kính đối với phép Thánh Thể. Chuyện xảy ra vào tháng 3 năm 1955 ở Bùi chu. Vị bề trên tu viện kể rằng một người lính đã ngang ngược đòi vào trong tu viện, nhưng các nữ tu đã chận lại và nói cho anh ta biết đây là nhà của Chúa, anh phải có lòng tôn kính.

Anh hỏi: “Chúa các chị ở đâu ?”

Các chị đáp: “Ở đây!”và đưa tay chỉ tay về phía nhà tạm.

Người lính lấy súng bắn, phá tan cửa nhà tạm và bắn vào bình thánh giữ Mình Thánh Chúa làm cho Mình Thánh Chúa vung vãi rơi xuống sàn nhà.

Tiếng dội của súng bắn vừa ngưng, người lính cũng ngã lăn ra chết, chết vì nhồi máu cơ tim.

2. Thứ hai là thiếu kính trọng đối với Thiên Chúa là Đấng luôn yêu thương con người.

Dụ ngôn kể: “Bấy giờ nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc, thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới, mới hỏi người ấy: “Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới ?” Người ấy câm miệng không nói được gì. “(Mt 22,11)

Cha hỏi chúng con đã có bao giờ chúng con đi ăn cưới chưa ?

– Dạ có.

– Chúng con thấy những người đi ăn cưới ăn mặc làm sao chưa ?

– Rất đẹp.

– Ăn mặc như thế để làm gì ?

– Theo cha thì là để tỏ lòng quí mến cô dâu chú rể và cũng để tỏ lòng tôn trọng đối với người khác.

Việc tôn trọng đối với người khác là một điều rất cần trong cuộc sống của loài người. Thiếu sự tôn trọng sẽ nảy sinh ra nhiều điều bất hạnh trong cuộc sống. Một gia đình mà mọi người biết tôn trọng nhau, gia đình ấy sẽ luôn được sống trong bình an và hạnh phúc. Trái lại một gia đình nào mà những người trong gia đình không có lòng tôn trọng nhau, cha bảo đảm gia đình ấy sẽ gặp nhiều cảnh đau khổ bất hạnh

Trong bài dụ ngôn hôm nay, chúng con thấy tất cả mọi người đều ăn mặc lễ phục cưới hỏi. Duy chỉ có một người là không làm như thế. Rõ ràng là người này coi mọi người chung quanh mình chẳng ra gì. Đúng là con người này thiếu lòng tôn trọng đối với người chủ tiệc và những người khác trong phòng tiệc và chính vì thế mà anh ta đã bị trừng phạt. “Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng!” (Mt 22,13)

Trong một thành phố ở xứ Bavieres trước đây, có một cuộc kiệu Mình Thánh Chúa rất lớn. Trên một đoạn đường kiệu đi ngang qua, có một người đàn bà có đạo nhưng hư thân mất nết. Sách báo xấu và việc thường xuyên đi xem phim ảnh xấu cũng như tham dự các buổi vũ hội trắc nết đã làm bà không còn giữ được đức tin của thời thơ ấu của mình. Lúc đoàn kiệu – lúc ấy đang diễn lại cảnh truyền tin với hai nhân vật: Đức Maria và sứ thần Gabriel – đi ngang qua, bà cười to và nói:

– Kìa hãy xem những kẻ đang làm trò múa rối kìa!

Chưa hết, khi Mình Máu Chúa với cái lọng che rộng lớn đi ngang qua, trong khi những người khác quỳ gối xuống cung kính thờ lạy, thì bà đã không ngăn cản được bản tính ngỗ nghịch, phỉ báng của mình, bà đã dám thốt ra câu nói ghê gớm sau:

– Ước chi những kẻ nào nuốt những miếng bánh nhỏ này sẽ bị nghẹn họng!.

Người đàn bà này sau đó trở về nhà. Và bởi vì cảm thấy đói bụng, bà đã nuốt một cách vội vã những miếng bánh mì. Một miếng bánh lớn đã dừng lại trong cổ họng làm bà ta nghẹt thở.

Hai giờ sau cuộc phỉ báng của bà, bà chỉ còn là một thây ma! Thế mới biết Thiên Chúa đã không để những kẻ chế giễu các sự thánh tránh khỏi một sự trừng phạt!

Phần chúng ta, chúng ta hãy đến với Thiên Chúa với hết lòng kính trọng của mình. Chắc chắn Chúa sẽ thương ban nhiều ơn lành cho chúng ta. Amen.

Anh chị em thân mến.

Chúng ta vừa nghe một dụ ngôn Chúa Giêsu dùng để nói về những gì mà người Do Thái đã và đang dự tính làm đối với Chúa.

Có thể nói đọc ngôn này, ai cũng hiểu ý Chúa muốn nói gì. Ai cũng hiểu những nhân vật Chúa dùng trong dụ ngôn ám chỉ về những người nào.

Ngày xưa, vườn nho là nước Do thái. Chủ vườn nho là chính Thiên Chúa. Những kẻ trồng nho mướn là những giới chức tôn giáo Do thái, là những kẻ chịu trách nhiệm với Thiên Chúa về sự hưng thịnh của quốc gia. Những đầy tớ lần lượt được sai đến là các tiên tri. Họ được Chúa sai đến nhưng đã bị chối bỏ và giết đi. Người con trai đến sau cùng không ai khác hơn là Chúa Giêsu. Chúa Giêsu cũng bị bọn thuê mướn vườn nho giết chết. Việc này chưa xảy ra nhưng chắc sẽ xảy ra. Và quả như lời Chúa tiên báo Chúa Giêsu cũng đã cùng chung một số phận như các tiên tri thuở trước. Đây là câu chuyện Chúa dùng để tiên báo về chính cái chết của Ngài.

Chúng ta thử hỏi qua dụ ngôn này Chúa muốn nói với chúng ta về những điều gì ?

A. Việc đầu tiên Chúa muốn cho mọi người thấy.

1. Trước hết về Thiên Chúa. Chúng ta có thể thấy ngay:

a) Thiên Chúa tin cậy con người. Như ông vườn nho trao cho kẻ trồng nho mướn. Ông không đứng canh họ như cảnh sát, ông đi xa, để họ tự giác làm việc. Thiên Chúa cũng tôn trọng con người như thế. Người trao phó cho họ công việc của Ngài. Mỗi một công tác chúng ta nhận đều bởi Chúa trao cho chúng ta làm.

b) Thiên Chúa là Đấng nhẫn nhục. Như người chủ sai hết người đại diện này đến người đại diện khác đến với họ. Ông không báo thù ngay khi người đại diện ban đầu bị ngược đãi. Ông cho những người làm mướn trong vườn nho hết cơ hội này đến cơ hội khác để đáp ứng đòi hỏi của ông. Thiên Chúa cũng nín chịu hết mọi tội lỗi của con người và cho con người có cơ hội để ăn năn.

c) Sau cùng Thiên Chúa mới là Đấng phán xét. Cuối cùng, người chủ vườn nho đã lấy lại vườn nho và trao lại cho người khác. Cũng tương tự như thế, Thiên Chúa phán xét thật nghiêm khắc. Điều nghiêm nhất là khi Chúa lấy khỏi tay chúng ta những công tác Ngài muốn chúng ta làm. Khi đó những người bị Chúa phán xét sẽ trở nên vô dụng đối với Chúa.

2. Tiếp đến, dụ ngôn cho chúng ta thấy nhiều điều về con người:

a) Đặc quyền của con người: Vườn nho được sắp sẵn mọi thứ, có hàng rào, có hầm ép rượu và tháp canh, để giúp cho việc canh tác được dễ dàng. Thiên Chúa không những giao công tác để làm mà còn giao phương tiện để làm nữa.

b) Sự tự do của con người: người chủ vườn để những người thuê mướn được hoàn toàn làm việc theo ý thích. Thiên Chúa không phải là người độc đoán, Ngài như một vị chỉ huy khôn ngoan trao phó công tác rồi để cho họ làm.

c) Con người phải trả lời về hành vi của mình. Tất cả mọi người đều sẽ có một ngày phải tính sổ. Chúng ta phải trả lời Thiên Chúa về cách chúng ta thi hành công tác mà Ngài trao cho.

d) Con người cố tình phạm tội: trong dụ ngôn những người làm mướn trong vườn nho đã cố tình thực hiện kế hoạch chống lại và không vâng phục ông chủ. Tương tự như, thế tội lỗi là cố ý chống lại Thiên Chúa, là cố tình theo đường lối riêng dù đã biết rõ đường lối Chúa như thế nào.

3. Cuối cùng dụ ngôn nói cho chúng ta về Chúa Giêsu.

a) Chúa Giêsu là ai ? Dụ ngôn cho chúng ta thấy rõ Chúa Giêsu là ai. Ngài là Đấng hơn các tiên tri đi trước. Những người đã đến trước Ngài chỉ là những sứ giả của Thiên Chúa, không ai có thể phủ nhận vinh dự đó của họ, nhưng họ chỉ là tôi tớ, còn Ngài mới là Con. Ví dụ này là một lời tuyên xưng rõ rệt nhất về Chúa Giêsu, về địa vị độc đáo của Ngài và xác định rõ ràng Ngài hơn các vĩ nhân đã đến từ trước.

b) Sự hy sinh của Chúa Giêsu: dụ ngôn rõ ràng cho thấy những gì đang ở phía trước. Những kẻ làm vườn gian ác đã giết con trai của chủ. Chúa Giêsu không nghi ngờ gì về những việc đang chờ đợi Ngài. Ngài không chết vì bị bắt buộc phải chết nhưng Ngài sẵn lòng đi tới và đối diện với cái chết.

B. BÀI HỌC.

Bài học cụ thể nhất mà mọi người có thể thấy: Đó là Thiên Chúa có chương trình của Ngài.

Đây là chương trình do chính Thiên Chúa Cha hoạch định và Chúa phải thi hành.

Không ai có thể cản trở được chương trình của Thiên Chúa.

Con người đừng có ảo tưởng có thể làm cho công trình của Thiên Chúa phải thất bại.

Mọi âm mưu của con người sẽ thất bại khi Thiên Chúa ra tay uy quyền.

Họ chớ có tưởng khi giết được Chúa Giêsu là họ đã có thể ăn mừng chiến thắng.

Thiên Chúa sẽ cho họ thấy quyền năng của Chúa. “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta.(Mt 21,42)

Malebon là tên của một tảng đá rất nổi tiếng tại tiểu bang California. Tên của tảng đá này được người ta nhắc đến do một sự tình cờ: Ngày nọ, có một người dân làm đơn khiếu nại Sở Kiều lộ. Người này báo động rằng vì nạn đất chùi, tảng đá này có thể đổ xuống làm hư nhà; và thế là hai chiếc trực thăng yểm trợ cho hai xe cẩu loại lớn, người ta đã đưa tảng đá ra xa lộ.

Theo dõi câu truyện trên đài truyền hình, một người Úc nọ đến mua tảng đá đó với giá 100 Mỹ kim. Sở Kiều lộ của thành phố mừng thầm vì ít ra cũng có người giúp họ di chuyển cái của nợ ấy ra khỏi xa lộ. Sau đó, người Úc bỏ ra 20.000 Mỹ kim để thuê xe chuyên chở tảng đá ấy về nhà, và sau bốn tháng miệt mài, anh đã tạc được chân dung của một tài tử nổi tiếng chuyên đóng phim cao bồi. Đó là món quà quý nhất mà người Úc đã dành cho tài tử này trước khi nhắm mắt lìa đời. Không bao lâu sau đó, tác phẩm đã được bán cho một người chuyên sưu tầm với giá một triệu Mỹ kim.

Tảng đá Melebon trên đây đã bị nhiều người xem như là một của nợ cần vứt đi, nhưng một người Úc đã nhìn ra nó như một thách đố để thực hiện một công trình vĩ đại. Sự thành công trong cuộc sống thường được nhiều người gán cho là một sự ngẫu nhiên hay một vận may nào đó. Nhưng người có niềm tin thì xem đó là sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa. Trước Công nghị Do thái, thánh Phêrô đã giải thích về cái chết của Chúa Giêsu, với câu nói thời danh: “Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ đã trở thành viên đá góc tường”. Cái chết của Chúa Giêsu quả thực là một hành động đê hèn dã man của người Do thái, nhưng Thiên Chúa đã biến cái chết ấy trở thành biểu tượng của tình yêu, và nguyên nhân cứu rỗi của con người. Đó là điều quan trọng mà mọi người có thể học được qua bài dụ ngôn hôm nay. Amen.

Chúng con yêu quí,

Lại một lần nữa chúng con được nghe Chúa nói về một vườn nho. Vườn nho là một hình ảnh rất quen thuộc đối với người Do Thái. Chúa đã dùng hình ảnh quen thuộc này để nói cho chúng ta về Nước Trời.

1. Đây là dụ ngôn tương đối dễ hiểu. Ý nghĩa dụ ngôn này như sau: Thiên Chúa là chủ vườn nho. Vườn nho lúc đầu được dùng để chỉ dân Do Thái.

Dân Do Thái được Chúa chọn làm dân riêng. Đây ta hãy nghe tiên tri Isaia mô tả: “Vườn nho của Đức Chúa các đạo binh, chính là nhà Ít-ra-en đó; cây nho Chúa mến yêu quý chuộng, ấy chính là người xứ Giu-đa. Người những mong họ sống công bình, mà chỉ thấy toàn là đổ máu; đợi chờ họ làm điều chính trực, mà chỉ nghe vẳng tiếng khóc than.” (1Is 5,7)

Lịch sử dân Do Thái là lịch sử tình yêu thương của Chúa. Vì yêu thương Chúa đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai Cập. Vì yêu thương Chúa đã dành sẵn cho họ một đất nước. Vì yêu thương Chúa bảo vệ họ khỏi sự quấy phá của các nước lân bang. Vì yêu thương Chúa đã sai các tiên tri đến dạy dỗ họ. Quả thật dân Do Thái là một vườn nho được Chúa trồng, chăm sóc từng li từng tí. Từ rào dậu chung quanh đến xây tháp canh giữ. Từ xây bồn ép nho đến tưới bón cắt tỉa. Nhưng sự thương yêu của Chúa được đáp lại bằng sự phản bội. Người Do Thái không công nhận quyền làm chủ của Chúa. Họ giết các tiên tri được sai đến dạy dỗ họ. Họ còn giết cả Chúa Giêsu là Con Một Thiên Chúa để chiếm lấy vườn nho làm của riêng họ.

Họ tưởng họ giết được Chúa Giêsu là họ sẽ được toại nguyện.

Quả thực dụ ngôn cho thấy họ đã lầm, một sự lầm lẩn không thể sửa sai. Thiên Chúa đâu có để cho họ muốn làm gì thì làm. Tới một lúc nào đó theo đúng chương trình Chúa đã ấn định thì Ngài sẽ hành động. Khi Ngài đã ra tay uy quyền thì mọi sự sẽ phải vâng phục và lúc đó mọi người sẽ thấy chính Ngài mới là Đấng chiến thắng cuối cùng.

Ý nghĩa câu chuyện dụ ngôn hôm nay là như thế.

2. Bài Học.

Câu chuyện vườn nho không phải chỉ liên quan đến những người Do Thái mà còn lên quan đến tất cả chúng ta. Vườn nho ngày xưa là nước Do thái. Ngày nay vườn nho là Giáo Hội, là gia đình, là trường học. Chúa trao vườn nho cho con người canh tác. Tiếc rằng có nhiều người không hiểu được điều đó, nên đã chối bỏ quyền Chúa làm chủ đời mình. Vì xua đuổi Chúa nên ma quỷ đã xâm nhập cuộc đời họ. Và khi để cho ma quỉ làm chủ cuộc đời chúng ta có thể hiểu được cuộc sống sẽ như thế nào.

Hôm đó ở Tréblinka, đại tá SS.Wwirth chỉ huy trưởng trại giam tù binh của quốc xã Đức nổi giận vì phòng hơi ngạt lại hỏng vào đúng khi có tin điện: một chiếc tàu chở người Do thái từ Varsovie tới, và bất hạnh hơn nữa chính là ngày Himler và Erich đến thanh tra trại.

Không làm sao được hắn phải tập trung tất cả các xe có hơi ngạt, nhưng mỗi lần chỉ được 20 người. Thời gian không cho phép chậm trễ, hắn bắt các nạn nhân giơ tay lên trời để cho có thể nhét thêm người. Vào phút chót, hắn khám phá ra còn hai phần trống giữa các đầu người và trần xe, hắn cho nhét thêm chục đứa trẻ.

Khi xe đã đầy tới mức tối đa, quân Dức đóng cửa lại cho động cơ chạy, chỉ trong khoảng một phút, không khí bên trong đầy oxyde da carbonne. Khi xe tiến vào Tréblinka để ngừng lại trước các hố đào sẵn, tất cả nạn nhân đều đã chết ngạt. Bấy giờ họ chỉ việc đẩy xác xuống, lục lọi miệng để nhổ răng bạc và vàng, rồi sau đó lấp hố.

Đến một ngày nào đó, chúng ta phải tường trình về công việc “vườn nho” mà Chúa đã trao phó cho ta. Đức Hồng Y Suhard đã nói: “Chúng ta chịu trách nhiệm về những điều chúng ta đã làm, đã không làm, hay đã cản trở không cho người khác làm”.

Khi con tàu khổng lồ mang tên Titanic vừa được xuất xưởng và hạ thủy, người ta có thể đọc thấy dọc theo sườn con tầu những câu khẩu hiệu kiêu căng được vẽ sơn thật lớn, ngạo nghễ như sau:

No God, No Pope! (Không có Chúa, cũng chẳng có Giáo Hoàng!) Le Christ lui même, ne le fera pas sombrer. Ni le ciel, ni la terre ne peut nous engloutir! (Ngay đến Đức Ki-tô cũng không tài nào đánh đắm con tàu này. Cả trời lẫn đất cũng không thể khiến chúng ta bị nhận chìm!).

Ngay khi ấy, một trong các công nhân đóng tàu, vốn là một người Công Giáo ở Dublin đã ghi vào trong nhật ký như một lời tiên tri: “Vì những tội xúc phạm ghê gớm đó, tôi tin Titanic sẽ không bao giờ tới được New York”

Và quả không sai, vào lúc 0 giờ 5 phút ngày 14.4.1912, đúng ngày Chúa Nhật Quasimodo sau lễ Phục Sinh, tàu Titanic đã chạm mạnh vào một tảng băng khổng lồ giữa đại dương làm thủng một lỗ lớn làm con tàu bị gãy đôi. Người ta chỉ vớt được 705 người sống sót, còn 1.502 người đã chết theo con tàu kiêu hãnh…

Sau đó mấy ngày, một tờ báo lớn ở Anh đưa tin kèm theo 2 bức tranh hí họa đầy ý nghĩa: Hình vẽ con tàu và tảng băng (sự yếu đuối của con người và sức mạnh của Thiên Chúa) và hình vẽ một người đàn ông nhường chiếc phao cứu hộ cho một bà đang bế con (sự yếu đuối của thiên nhiên và sức mạnh của con người).

Muốn cuộc đời luôn được bình an thì phải để Chúa hướng dẫn.

Một thượng nghị sĩ lịch lãm ở miền Nam nước Pháp đến Paris. Ông thuê một phòng trong khách sạn uy tín, và trả tiền phòng luôn một tháng. Viên quản lý khách sạn hỏi:

– Ông có muốn ghi biên lai không ?

Thượng nghị sĩ đáp:

– Không cần thiết đâu, có Chúa làm chứng chuyện này mà.

Viên quản lý tỏ vẻ ngạc nhiên:

– Cái gì! Thời đại này mà ông còn tin có Chúa ư ?

– Ô tin chứ. Vậy ông không tin à ?

– Tôi không tin, thưa ngài.

– Nếu thế thì tốt nhất ông hãy ghi biên lai cho tôi đi. (Liguorian)

Lạy Chúa, cảm tạ Chúa đã trao cho chúng con làm những công việc của Chúa, xin cho chúng con luôn biết mau mắn chu toàn.

Nếu Chúa gởi đến cho chúng con những ơn lành hồn xác, xin Chúa dạy chúng con biết sử dụng trong tinh thần biết ơn, và liên đới với anh em trong tinh thần chia sẻ, vì đó là con đang làm theo ý Chúa. Amen.

“Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông”(Mt 21,32)

Anh chị em thân mến,

Suốt mấy tuần vừa qua, chúng ta đã nói với nhau về những đức tính cần có trong đời sống cộng đoàn. Bắt đầu từ hôm nay chúng ta nói với nhau về một vấn đề khác, cũng liên quan tới địa vị làm con Thiên Chúa, nhưng dưới một khía cạnh tích cực hơn: “Chúng ta phải sống như thế nào để xứng với địa vị làm con Thiên Chúa của chúng ta ?”.

A- Chúng ta hãy nghe bài dụ ngôn hôm nay:

Một người kia có hai người con. Hai người con, con của cùng một người cha. Ở đây chúng ta thấy Chúa cố ý không đề cập đến địa vị hay ngôi thứ của hai người con này. Chúa làm như thế với một chủ ý rõ rệt là cho người ta thấy trong cương vị làm cha thì ông dành cho hai người con một tình yêu y như nhau, và đồng thời cũng cho chúng ta thấy trong cương vị làm con thì cả hai đều có một giá trị như nhau trước mặt cha của mình.

Để anh chị em hiểu rõ được điều này, tôi xin lấy một thí dụ. Đây là thí dụ nằm ở trong kho tàng văn chương của chúng ta. Truyện kể như thế này. Có một ông nhà nho kia có đến hai bà vợ. Thông thường thì chúng ta thấy trong hai bà thì phải có một bà làm “cả” một bà làm “lẽ” hay “thứ”. Nhưng đối với ông nhà nho này thì ông ta muốn coi hai bà vợ như nhau, không bà nào hơn, không bà nào kém. Chính vì thế mà một hôm khi có người hỏi ông bà nào là cả bà nào là thứ thì ông trả lời “Cả hai vợ đều là vợ cả” Một câu trả lời có tính cách chơi chữ nhưng nó cũng nói lên được một cái gì có tích cách “cào bằng” trong ý nghĩa về một thực tế trong cuộc sống của người này.

Vậy thì trong dụ ngôn hai người con, chúng ta cũng thấy một ý nghĩa tương tự như thế. Cả hai người con đều là “con cả” và cùng là con của một người cha. Người cha này yêu thương hai người con y như nhau….đối xử với hai người một cách đồng đều. Và khi đã cư xử như thế thì chắc chắn ông cũng thầm mong là ông sẽ được cả hai người đáp lại tình yêu của mình cũng bằng một tình như nhau.

Mong thì là như thế, nhưng trong thực tế có được như vậy hay không thì lại là một truyện khác.

 Lúc đầu khi ông kêu gọi người con thứ nhất. Nó đã đáp lại một cách cộc cằn và cứ bên ngoài mà xét thì nó thật đáng lên án. Nhưng sau đó nó hối hận rồi nó sửa lại lỗi lầm của mình không phải bằng lời nói nhưng bằng việc làm. “Nó hối hận và đi làm”(Mt 21,29).

Sau đó người cha cũng nói những lời y hệt như thế với người con thứ hai. Thái độ lúc đầu của người con thứ hai thật dễ thương “Vâng, thưa cha, con đi”(Mt 21,30). Thật là đẹp tuyệt vời. Và cứ theo cách bên ngoài mà nói thì chắc là chúng ta phải khen người con thứ hai này. Thế nhưng những cái đẹp ban đầu đó lại không được tiếp tục đẹp. Nó đã nhanh chóng đổi chiều. Người con thứ hai đã nuốt lời một cách không hổ thẹn.

Như vậy chúng ta thấy cả hai người con cùng được mời gọi bởi cùng một người cha….để làm cùng một công việc và làm trong cùng một vườn nho.

Thế nhưng, bằng ấy cái cùng chưa đủ để có thêm những cái cùng khác:

Qua hai cách đối xử của hai người con, người ta đã được chứng kiến một sự đảo lộn giá trị đáng cho chúng ta phải suy nghĩ.

Cái mà người ta tưởng là xấu lại biến thành tốt và cái mà người ta tưởng là tốt lại trở thành tồi tệ.

Kết thúc câu chuyện Chúa Giêsu đòi những người nghe phải tự lượng giá. Và câu trả lời đã đúng như Chúa mong đợi.

Nếu câu truyện kết thúc ở đây thì có lẽ chúng ta chẳng có gì phải bàn thêm. Đàng này sau khi nhận được câu trả lời của những người nghe, Chúa đưa ra những lời cảnh cáo khá nặng. Chúa nói như thế nào thì tất cả chúng ta đã nghe.

B. Chúng ta tự hỏi: Chúa nhắm điều gì khi đưa ra những lời cảnh cáo nặng như thế ? Ai là hiện thân cho người con thứ nhất và ai là hiện thân cho người con thứ ai và ai là hiện thân cho người cha trong câu chuyện.

Chúa không đưa ra một câu trả lời làm sẵn. Nhưng rõ ràng Chúa muốn vẽ ra một bức tranh gồm hai hạng người mà cả hai đều bất toàn mặc dầu trong đó có một hạng tốt hơn. Rõ ràng trong câu truyện này cả hai người con đều không làm hài lòng người cha vì cả hai đều không làm cho ông có được một niềm vui trọn vẹn. Hạng người thứ nhất là hạng người làm nhiều hơn là nói. Hạng người thứ hai là những người chỉ nói mà không làm. Họ hứa thật nhiều nhưng làm thì chẳng có gì cả.

Vậy người con hoàn hảo đối với Chúa là người con nào ? Thưa là người sẵn sàng chấp nhận mệnh lệnh của cha với thái độ vâng phục và kính trọng, chấp nhận trọn vẹn và không thắc mắc. Chúng ta có thể nói họ là những người mà lời nói và làm luôn đi đôi với nhau. Đây mới là những người mà Thiên Chúa mong đợi.

Nhưng ai là những người như thế ?

Chẳng cần phải dài dòng chúng ta cũng có thể tìm ra câu trả lời. Đó là những người hết lòng yêu mến Chúa đồng thời cũng hết lòng yêu mến anh em đồng loại của mình.

+ Bây giờ đến lượt chúng ta:

Tôi phải làm gì trước những đòi hỏi của Chúa ?

– Đối với Chúa

Một linh mục ở một xứ đạo kia khi làm thống kê trong họ đạo của mình đã hỏi một người chủ gia đình như sau:

– Ở nhà có bao giờ gia đình cầu nguyện chung với nhau không ?

– Thưa Cha chúng con không có giờ.

– Giả như anh và gia đình biết một người trong gia đình sẽ bị bệnh nếu không ai cầu nguyện cho người đó thì thử hỏi anh và gia đình có cầu nguyện không ?

– Ồ con đoán là lúc đó gia đình chúng con sẽ cầu nguyện.

– Giả như anh biết một ngày nào đó vì gia đình lơ là trong việc cầu nguyện mà một tai họa sẽ xảy đến cho gia đình thì lúc đó anh và gia đình có cầu nguyện không ?

– Tất nhiên là chúng con phải cầu nguyện rồi.

– Giả như mỗi ngày anh quên cầu nguyện, giáo luật sẽ phạt 5 dollars. Lúc đó anh và các con có dám sao lãng việc cầu nguyện không ?

– Chắc là chúng con sẽ cầu nguyện nhưng ý của những câu hỏi cha hỏi chúng con mãi như thế là gì ?

– Như vậy vấn đề ở đây không phải là không có thời giờ. Anh có thể tìm được thời giờ. Vấn đề ở đây là anh đã quá coi thường việc cầu nguyện: Coi thường hơn tiền bạc, hơn sức khỏe vv và vv. Như vậy vấn đề ở đây là anh và gia đình anh có thấy được những hồng ân Chúa ban cho anh cũng như gia đình anh qua việc cầu nguyện hay không. Nếu thấy được thì khỏi cần phải nói, không phải chỉ cầu nguyện mà chắc là anh sẽ còn làm hơn thế nữa. Còn nếu không thì chắc là chẳng bao giờ anh cầu nguyện dù chỉ là một kinh!

– Còn đối với những anh em của tôi thì sao ? Phải Yêu Thương họ.

Thánh Têrêxa HĐGS nói: “Lòng yêu mến không cốt ở những tình cảm, nhưng cốt ở việc làm”

Một vị Giám mục kiểm tra khả năng của một nhóm ứng viên xin lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy. Ngài hỏi:

– Bằng vào dấu chỉ nào các người khác nhận ra các con là người Công giáo ?

Không có tiếng trả lời. Rõ ràng không có ai ngờ một câu hỏi như thế. Vị Giám mục lập lại câu hỏi và ngài lập lại thêm một lần nữa, lần này ngài làm dấu thánh giá có ý mách nước cho các người dự tòng một câu trả lời đúng. Bất. chợt một ứng viên trả lời:

– Đó là “Tình yêu” .

Vị Giám mục rất ngạc nhiên! Khi ngài sắp mở miệng nói “Sai “, ngài bỗng kịp thời ngậm miệng lại.

Thiếu nhi chúng con yêu quí,

Chúng ta vừa nghe một dụ ngôn nữa của Chúa Giêsu.

Cha đố chúng con qua dụ ngôn hôm nay Chúa muốn nói với chúng ta điều gì ?

Hơi khó phải không chúng con.

Vậy cha cắt nghĩa cho chúng con.

Theo Cha thì qua bài dụ ngôn hôm nay Chúa muốn dạy chúng ta một đều thật quan trọng. Đó là lòng hối cải.
Cha hỏi chúng con: hai người con trong bài Tin Mừng hôm nay là những người như thế nào ? Có phải là những người con ngoan ngoãn không ?

Chắc là không, phải không chúng con ?

Lý do vì cả hai đã làm buồn lòng cha của mình. Cả hai đã không mau mắn vâng lời cha mà đi làm ngay.
Rất may là người con thứ nhất đã hối hận và đi làm. Còn người con thứ hai khi được cha sai thì “ok” ngay nhưng rồi lại không đi.
Cha hỏi chúng con: thế thì người con nào đã làm người cha vui lòng ?

– Thưa người con thứ nhất

– Điều gì đã làm cho người thứ nhất thay đổi như vậy ?

– Thưa “sự hối hận”

– Rất chính xác. Chúng con giỏi.

Đúng là sự hối hận hay là lòng hối cải có một giá trị rất đẹp trong cuộc sống.

1. Trước hết lòng hối cải có thể làm cuộc sống của con người dễ trở nên tốt hơn.

Lý do: lòng hối cải có thể đem lại những điều thật bất ngờ.

Tin Mừng có nhiều truyện cho chúng ta thấy điều đó. Cha có thể kể ra cho chúng con những người này: Maria Mađalêna, Giakêu, người thiếu phụ xứ Samaria, người đàn bà ngoại tình, anh trộm lành.. . tất cả là những người đã đổi đời nhờ gặp Chúa Giêsu và đã hối hận về cuộc đời của mình. Nếu họ đã không hối hận chắc chắn cuộc sống của họ đã không trở nên tốt đẹp như vậy.

Cha kể cho chúng con nghe câu chuyện này:

Một thương gia trong một thị trấn nhỏ nọ có hai người con trai sinh đôi. Hai chàng trai cùng làm việc tại cửa hàng của cha mình. Khi ông qua đời, họ thay ông trông coi cửa hàng đó. Mọi việc đều êm đẹp cho đến một ngày kia, khi một tờ giấy bạc biến mất. Người em đã để tờ giấy bạc đó trên máy đếm tiền rồi đi ra ngoài với khách hàng. Khi anh quay lại, tờ giấy bạc đã biến mất. Người em hỏi người anh:

– Anh có thấy tờ giấy bạc đâu không ?

– Không – người anh đáp.

Tuy thế. Người em vẫn không ngưng tìm kiếm và gạn hỏi.

– Anh không thể không đụng đến nó. Tờ giấy bạc không thể tự đứng dậy và chạy đi được! Chắc chắn anh phải thấy nó!

Sự buộc tội phảng phất trong giọng nói của người em. Căng thẳng bắt đầu tăng lên giữa hai anh em họ. Sự oán giận cũng theo đấy mà len vào. Không lâu sau một hố ngăn cách gay gắt và sâu thắm đã chia cách hai chàng trai trẻ. Họ không thèm nói với nhau một lời nào. Cuối cùng họ quyết định không làm chung với nhau và một bức tường ngăn cách đã được xây ngay giữa cửa hàng. Sự thù địch và oán giận cũng lớn lên tiếp theo 20 năm sau đó, lan đến cả gia đình của họ. Một ngày nọ, một người đàn ông đỗ xe ngay trước của hàng. Ông ta bước vào và hỏi người bán hàng:

– Anh đã ở đây bao lâu rồi ?

Người bán hàng đáp rằng anh đã ở đây cả cuộc đời. Vị khách nói tiếp:

Tôi phải nói với anh điều này. 20 năm trước tôi đang đi xe lửa và tạt vào thị trấn này. Lúc đó tôi đã không ăn gì suốt ba ngày. Khi tôi đến đây bằng cửa sau và thấy tờ giấy bạc trên máy tính tiền, tôi đã bỏ vào túi mình rồi ra ngoài. Những năm qua tôi không thể quên điều đó. Tôi biết nó không phải là món tiền lớn nhưng tôi phải quay lại đây và xin anh thứ lỗi.

Người đàn ông lạ mặt ngạc nhiên khi thấy những giọt nước mắt lăn trên má của người bán hàng trạc tuổi trung niên này.

– Ông có vui lòng sang cửa hàng bên và kể lại chuyện này cho người đàn ông trong cửa hàng đó được không ? – anh ta đề nghị.

Rồi người đàn ông lạ càng ngạc nhiên hơn khi thấy hai người đàn ông trung niên, trông rất giống nhau, ôm nhau khóc ngay trước cửa hàng. Sau 20 năm, rạn nứt giữa họ đã được hàn gắn. Bức tường thù hận chia cắt hai anh em họ đã được đập bỏ. (Loren Fischer)

Đó chúng con thấy sự hối cải đã đem lại kết quả đẹp đẽ như thế nào!

2. Hơn thế nữa sự hối cải còn giúp cho người ta nên thánh.

Chúng con thấy: tội thì ai cũng có. Có một tác giả nổi tiếng bên nước Nga nói như thế này: “Chỉ có hai hạng người sau đây không có lỗi lầm: những người còn trong bụng mẹ chưa sinh ra và những người đã bỏ vào quan tài chờ ngày mang đi chôn”. Đó là thân phận chung của mọi người. Chúng ta hãy nhìn vào hai nhân vật quen thuộc trong Thánh Kinh: Phêrô và Giuđa. Tội chối Chúa và tội bán Chúa cũng gần ngang nhau. Vậy mà số phận hai người lại khác hẳn nhau vì Phêrô nhờ hối cải mà được cứu sống, còn Giuđa thì chết trong tuyệt vọng.

Đối với chúng ta, việc nên thánh của chúng ta chỉ có thể đi ngang qua hai con đường: Hoặc bằng con đường trong trắng, hoặc bằng con đường hoán cải.

Những người đến với Chúa bằng con đường trong trắng có lẽ không nhiều. Chỉ có một số tâm hồn ưu tú mới có thể đi qua cuộc đời mà không vướng mắc gì nhiều, không bị bụi đường làm lấp láp nhem nhuốc. Chẳng hạn Têrêsa Lisieux. Louis Gonzaga, Đaminh Savio. . .

Còn con đường thứ hai: Con đường hoán cải là con đường chung mở rộng cho đa số. Kể cả các thánh lớn cũng cần đến con đường này.

Phêrô đã chối Chúa nhiều lần nhưng vẫn được Chúa đặt làm đoàn trưởng các Tông đồ. Phaolô đã tham gia bắt bớ Kitô hữu không nương tay trước khi trở thành Tông đồ của lương dân. Augustinô đã sống mấy chục năm buông thả trước khi khóc tội mình đến cạn cả nước mắt. Phanxicô Assisi, sau một thời tuổi trẻ ham chơi, đã dấn thân vào con đương hẹp của Tin Mừng. Và ngài coi ngày vào dòng của ngài là bước khởi đầu của một đời sám hối.

Chúng ta hãy cám ơn Chúa vì ngoài con đường trong trắng Chúa còn cho chúng ta con đường sám hối để đến với Thiên Chúa. Nếu không có con đường thứ hai này thì số phận chúng ta không biết sẽ ra sao. Chắc chắn là sẽ rất bi đát vì không có lối thoát. Thật vậy chẳng có mấy tín hữu còn giữ được ơn thánh tẩy trọn vẹn như đã hứa. Trong nghi thức thánh tẩy có phần trao áo trắng và nến sáng cho người được Rửa tội. Khi trao thì chủ tế căn dặn: Con hãy giữ áo này luôn trong trắng và ngọn lửa này luôn cháy sáng, cho tới khi Chúa trở lại. Lời nhắn nhủ này hàm chứa một sự cam kết của người mới được tái sinh. Nhưng thử hỏi trong thực tế có mấy người còn giữ được áo trắng và đến sáng cho tới ngày gặp Chúa ở cuối đời mình. Có lẽ khá họa hiếm.

Thật may mắn, chính Chúa đã gỡ kẹt cho chúng ta. Tội lỗi có đó, mạnh đó…nhưng còn có ơn tha thứ. Ơn đó luôn ở trong tầm tay của mỗi người. Bao lâu còn có lòng hối cải thì bấy lâu còn có ơn tha thứ. Chúa không bao giờ nỡ bẻ gẫy cây sậy đã dập và dập tắt tim đèn còn khói. Thiên Chúa tạo dựng chúng ta chỉ một lần. Nhưng Ngài tái tạo chúng ta trong ơn tha thứ muôn ngàn lần, hầu như mỗi ngày. Thiên Chúa không biết mỏi mệt, chán nản. Có thế thì Ngài mới là Thiên Chúa.

Mẹ thánh Têrêsa nói: “Nếu chúng ta mắc phải lỗi lầm hãy tìm đến Chúa và nói: “Con xin lỗi, con thực sự hối tiếc”. Chúa là một Người Cha khoan dung. Lòng nhân từ của Ngài còn lớn hơn tội lỗi của chúng ta. Ngài sẽ tha thứ cho ta. Amen.

Anh chị em thân mến,

Bài dụ ngôn chúng ta vừa nghe là những lời dạy của Chúa nói về lòng tốt và tình thương của Người. Chúng ta thấy rất rõ điều này qua một bài dụ ngôn đặc biệt Chúa dùng để cắt nghĩa cho chúng ta.

I. Bài dụ ngôn

1. Một người kia có một vườn nho.

– Ông ta là chủ của vườn nho đó cho nên ông ta có quyền canh tác trên vườn nho đó để thu hoa lợi

– Diện tích vườn nho có lẽ phải lớn cho nên ông phải thuê người làm cho ông.

– Ở đây chúng ta nên lưu ý một chút về cách tính giờ của người Do Thái:

Ngày làm việc của người Do Thái bắt đầu từ lúc mặt trời mọc và kết thúc vào lúc mặt trời lặn. Và căn cứ vào đó thì chúng ta sẽ có một thời biểu tương ứng như thế này:

Giờ thứ 1, thứ 3, thứ 6, thứ 9 và thứ 11, tương đương với 6 giờ, 9 giờ,12 giờ,15 giờ,17 giờ, và kết thúc lúc 18 giờ.

– Có 5 đợt thuê thợ tất cả.

Đợt đầu có sự mặc cả rõ ràng về giá cả 1đ/một ngày công.

Các đợt sau thì không có sự mặc cả gì.

– Chiều đến: trả lương.

Cách thức trả lương có khác thường….bắt đầu từ người đến làm việc sau cùng đến người làm đầu tiên.

– Chính cách thức trả lương như thế đã làm nảy sinh ra sự phen bì giữa những người thợ được thuê làm trong cùng một vườn nho.

– Người cuối cùng vui vì thái độ đầy lòng yêu thương và quảng đại của chủ.

– Những người đến làm trước buồn vì cảm thấy mình như bị thua thiệt.

2. Vấn đề đặt ra ở đây là ông chủ làm như thế có công bằng không. Ta phải trả lời là có.

– Này bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi một đồng sao ?(Mt 20,13)

– Ông đã đối xử với họ theo lẽ công bằng thương mại. Luật pháp gọi là công bằng giao hoán.

– Về phương diện này thì ông chủ hợp lý và hợp pháp

– Việc ông chủ đối xử khác, khác hơn lẽ công bằng giao hoán thì lại là vấn đề khác. Nó đã vượt ra ngoài phạm vi công bằng. Nó đã vươn lên tới một bình diện cao hơn…đó là lòng Bác ái yêu thương và ông ta có quyền làm như thế.

Vậy thì khi kể dụ ngôn này Chúa muốn dạy chúng ta điều gì .

II. Bài học

1. Muốn hiểu được bài học Chúa muốn dạy qua bài dụ ngôn hôm nay, chúng ta lại phải trở về với những hoàn cảnh của nó.

Tin Mừng kể lại trước khi nói dụ ngôn này thì có một người thanh niên đến gặp Chúa và muốn xin được làm môn đệ của Ngài. Chúa bảo anh ta hãy trở về bán tất cả những gì anh có rồi phân phát cho những người nghèo khó và Chúa coi đó như một điều kiện phải có để Ngài chấp nhận anh ta. Sự đòi hỏi của Chúa làm cho anh ta chùn bước. Lý do là vì anh có nhiều của cải. Của cải đã níu kéo quá mạnh, thành thử anh ta đã bỏ cuộc. Nhưng câu chuyện chưa chấm dứt tại đây.

Sau khi người thanh niên bỏ đi thì ông Phêrô….lại ông Phêrô. Ông Phêrô đứng ra đặt vấn đề với Chúa. Ông nói như sau: “Thưa Thầy, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, chúng con sẽ được gì”(Mt 19,27)

Câu hỏi của Phêrô sặc mùi thương mại trần thế. Ông muốn Chúa phải nói rõ cho các ông biết Chúa Chúa sẽ đối xử với các ông thế nào trước những hy sinh từ bỏ của họ. “Chúng con sẽ được gì ?”

Chúa không để cho các ông ấy phải thất vọng. Chúa đã trả lời. Chúa không lẩn tránh vấn đề. Và câu trả lời của Chúa thật là tuyệt diệu. Tuyệt diệu ở chỗ nó vừa thỏa mãn được vấn đề các tông đồ đặt ra với Chúa, lại vừa có sức nâng tầm nhìn của các môn đệ lên tới một bình diện cao hơn.

“Ai vì danh Ta mà từ bỏ Cha Mẹ, anh em, con cái, nhà cửa, ruộng đất thì sẽ được gấp trăm ở đời này và ….tiếng thật quan trọng…Và được sự sống đời đời.”(Mt 19,29)

Sự sống đời đời. Đó là một phần thưởng vô cùng quí giá mà không có một giá trị trần thế nào có thể đổi chác được. Phần thưởng đó là do ơn lộc của Chúa cũng như do lòng quảng đại vô bờ vô bến của Ngài.

Trong nước của Thiên Chúa sẽ không có giao hoán đổi chác, phần thưởng sẽ không dựa vào lao động như thước đo.

Phần thưởng trong nước Thiên Chúa không được tính theo số lượng giờ giấc nhưng trước hết phải căn cứ vào niềm tin: Tin vào sự quảng đại và tình thương bao la của Thiên Chúa và sau là trung thành với niềm tin đó.

Vì thế dù chỉ được Chúa kêu gọi một phút giây trước giờ tàn của cuộc sống thì sự trung thành cũng vẫn cần thiết.

Con người không có quyền ghen tị với sự quảng đại của Thiên Chúa. Nếu một ai đó thấy cuộc đời của mình không được Chúa đối xử lại một cách quảng đại, thì lý do không phải tại Chúa mà họ phải hồi tâm trở lại với lòng mình xem mình đã sống với Chúa như thế nào:

          Ông chủ trong dụ ngôn đã tính toán với những ai đã muốn tính toán với ông. Nhưng ông lại rất quảng đại đối với những ai tin tưởng vào ông.

Để minh họa điều này tôi xin mời anh chị em nghe một câu chuyện. Câu chuyện này do văn hào Tagore viết ra. Ông là một người không có đạo nhưng những gì ông viết rất phù hợp với những Lời của Chúa trong Phúc âm.

Câu chuyện có tựa đề là “Người ăn xin”

Con đi ăn xin từng nhà trên con đường làng. Bỗng con thấy một cỗ xe bằng vàng đang từ xa đi tới….như một giấc mơ, giấc mơ huy hoàng. Con tự hỏi ông vua nào mà lại lộng lẫy như thế ? Lòng hy vọng trào lên trong lòng con. Con tự nghĩ:

– Thế là từ nay đời mình sẽ hết khổ!

Và con chuẩn bị sẵn sàng chờ Ngài đến….tay Ngài bung những đồng tiền vàng vung vãi trong đám cát bụi bên đường.

Và cỗ xe dừng lại nơi con đang đứng. Cái nhìn của đức vua đậu lại trên con….rồi Ngài bước xuống, miệng mỉm cười. Con cảm thấy như cơ may của đời mình đã tới.

Bỗng dưng con thấy đức vua chìa tay ra và hỏi

– Con có gì cho ta không ?

Con bối rối ngỡ ngàng….Con từ từ thò tay vào trong bị rút ra một hạt lúa mì và dâng cho Ngài. Nhận hạt lúa mì xong, Ngài lên xe và tiếp tục đi.

Chiều đến….khi dốc những hạt lúa trong bị ra…thì thật ngỡ ngàng biết bao.

Một hạt vàng óng ánh nằm giữa những hạt lúa mì khác.

Con nức nở khóc và tiếc rẻ. Con tự nguyền rủa chính mình:

– Tại sao mình đã không dâng cả cho đức vua tất cả những hạt lúa mì mình có.

Có lẽ cuộc sống của chúng ta mỗi người nhiều khi cũng giống như thế. Chúng ta rất hẹp hòi với Chúa và với anh em. Rồi nhiều khi chúng ta thấy người nọ người kia được Chúa đối xử hơn chúng ta, thay vì chúng ta bình tâm xét lại xem chúng ta đã sống cho Chúa như thế nào, chúng ta lại đâm ra ghen tương phen bì với anh em và cả với Chúa nữa.

Giờ đây xin Chúa điều chỉnh lại cách sống của chúng ta sao cho những ngày tháng chúng ta sống trên đời là những ngày tháng tràn ngập niềm vui vì đó là những ngày chúng ta sống chan hòa với Chúa và với anh chị em chúng ta Amen.

Thiếu nhi chúng con yêu quí.

Chúng ta vừa nghe một bài dụ ngôn rất hay của Chúa Giêsu.

Chúng con thấy ông chủ vườn nho trong bài Tin Mừng hôm nay thế nào ?

– Thưa ông là một người tốt.

– Ông tốt ở chỗ nào chúng con ?

Đây cha cắt nghĩa cho chúng con. Ông tốt vì ông giúp nhiều người thất nghiệp có công ăn việc làm. Ông tốt vì ông đã đối xử với họ rất công bằng và bác ái.

– Thế nào là công bằng chúng con ?

Thưa ông công bằng vì ông đã trả công cho những người đã thoả thuận với ông đúng theo những gì họ đã giao ước thoả thuận với ông. Ông không để họ thua thiệt theo lẽ công bằng những gì ông đã thoả thuận với họ. Họ thoả thuận với ông bao nhiêu ông đã trả đúng như thế. Công mỗi người mỗi ngày một đồng. Với sồ tiền này theo thời giá và hoàn cảnh công nhân lúc đó: họ có thể đủ để nuôi sống họ và gia đình một ngày. Ông chủ tốt vì ông đã tạo việc làm cho họ và họ đã có tiền để nuôi sinh sống.

Thế ông còn tốt ở chỗ nào nữa chúng con ?

– Ông còn tốt ở chỗ ông đã đi xa hơn sự công bằng. Ông đã tự cho mình có trách nhiệm phải tìm giúp những người thất nghiệp “Sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết ?” Họ đáp: “Vì không ai mướn chúng tôi” Ông bảo họ: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho!”(Mt 20,7-8). Ông cảm thấy thương những người không được ai thuê mướn.

Tới đây cha mới thấy ông chủ này không phải là người thường tình như những người khác trong xã hội.

Tại sao cha nói thế ?

Trong cuộc sống hằng ngày chúng con thấy người ta đối xử công bằng với nhau đã là điều tốt đẹp lắm rồi. Nhưng ở đây cha thấy, từ việc ông đã sống hết sức công bằng với mọi người, ông đã vượt qua cuộc sống cọng bằng thường tình để vươn lên cao, sống một đời sống mới, một đời sống cao hơn những cuộc sống thường tình của nhiều người. Chúng ta gọi cuộc sống ấy là cuộc sống bác ái yêu thương. Đây là cuộc sống mà chính Chúa Giêsu đã luôn sống và Chúa cũng muốn cho mọi người sống như thế.

Nếu chúng con hỏi cha: Tại sao cha nói như thế ? Thì đây chúng con hãy nhìn vào cách ông trả lương cho những người thợ đã vào làm vườn nho cho ông chúng con sẽ biết.

Tin Mừng kể: “Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: “Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất”. Vậy những người mới vào làm lúc giờ mười một tiến lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền. Khi đến lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền. Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: “Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt”. Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi là một quan tiền sao ? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao ? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức ?”(Mt 20,8-16)

Hay quá chúng con! Ông chủ này thật là một người rất khôn ngoan. Ông đã làm cho những người có đầu óc ích kỷ hay ghen tương phải “câm miệng” vì ông đã đối xử thật công bằng hợp tình hợp lý với họ. Còn việc ông tốt bụng, ông cư xứ quảng đại đối với những người làm sau chót đó là quyền của ông. Ông đã sống công bằng với những người muốn công bằng khi thoả thuận một quan tiền trước khi vào làm vườn nho. Và ông đã sống bác ái yêu thương với những người làm việc sau cùng. Ông đã hoàn toàn có lý.

Tới đây thì cha thấy bài học Chúa muốn dạy mọi người đã rõ. Chúa muốn mọi người bắt chước Chúa sống yêu thương với tất cả mọi người như Chúa đã yêu thương chúng ta.

Thói thường từ bao nhiêu ngàn năm nay, con người vẫn thường để cho những đố kỵ, ghen ghét lẫn nhau chi phối cuộc sống của mình. “Họ lẩm bẩm kêu trách chủ rằng: bọn sau chỉ làm một giờ mà ông trả bằng chúng tôi sao ?”. Ông buộc lòng phải sửa trị thói ghen tị đó bằng cách vạch ra cho họ thấy lòng bác ái cao cả của ông: “Chẳng lẽ tôi không có quyền cho của cải của tôi sao ? Hay vì bạn thấy lòng tốt của tôi, mà bạn ghen tức ư!”

Ông chủ không trả tiền thêm cho bọn thợ làm cả ngày, không phải vì ông keo kiệt, bóc lột. Nếu ông keo kiệt bóc lột, ông chẳng hậu đãi các thợ làm ít giờ. Nhưng ông phải giữ đúng công bằng vì không cho phép lòng tham của họ vơ vét thêm, làm dịp cho họ ăn chơi hoang phí.

Vâng! chỉ có cuộc sống bác ái yêu thương mới là cuộc sống đẹp lòng Chúa. Hay nói cụ thể hơn, chỉ khi nào chúng ta biết sống yêu thương chúng ta mới xứng đáng là con cái của Chúa. Thánh Gioan đã nói rất hay:” Thiên Chúa là tình yêu”

Chúng con hãy nghe câu chuyện này. Câu chuyện do chính mẹ thánh Têrêsa Calcutta kể:

Đêm hôm đó, có người tới nhà chúng tôi, báo cho tôi biết một gia đình Hindu tám đứa con đã nhiều ngày không được ăn gì. Họ không có gì ăn.

Tôi lấy cơm đủ cho họ một bữa ăn, đem tới nhà họ. Tôi thấy những khuôn mặt đói khát, thấy mắt của những đứa con đã sưng húp. Tình cảnh quá đáng thương!

Người mẹ nhận cơm trên tay tôi, chia lấy nửa phần cơm rồi bước ra. Lát sau chị trở về tôi hỏi:

– Chị đi đâu, làm gì vậy ?

Nàng trả lời:

– Họ cũng đang đói ?

“Họ” là ai ? Họ là một gia đình trong xóm, theo đạo Hồi cũng có số con tương đương, đang đói ăn và cũng không có gì ăn.

Người phụ nữ đó đã ý thức về tình cảnh của mình, nhưng bà can đảm và có lòng, nên đã chia phần cơm ít ỏi này với người khác. Tôi nghĩ nàng đã cảm thấy hạnh phúc: vì được chia sẻ với xóm giềng một chút gì tôi đã đem đến cho nàng, bất kể cả hoàn cảnh của mình.

Vì không muốn cướp mất niềm hạnh phúc của nàng, đêm đó tôi không đem thêm chút cơm nào cho nàng. Tôi chỉ mang thêm vào hôm sau.

Ít năm trước, Calcutta trải qua nạn khan hiếm đường trầm trọng. Có ngày, một cậu bé khoảng bốn tuổi tới thăm tôi cùng với cha mẹ. Gia đình này đem cho tôi một hộp đường nhỏ. Khi trao tay tôi hộp đường, cậu bé nói: “Đã ba bữa, con không được nếm một chút đường nào. Mẹ cầm lấy đi. Đây là phần của những người con của mẹ”.

Cậu bé đã biết yêu thương. Cậu đã bày tỏ tình yêu bằng một hy sinh của bản thân. Tôi nhắc lại, cậu không quá ba, bốn tuổi và gần như chưa gọi được tên tôi. Tôi đã không biết cậu bé trước đó và chưa một lần gặp cậu, cũng chẳng gặp cha mẹ cậu. Cậu bé đã thực hiện quyết định đó, sau khi khám phá ra hoàn cảnh của tôi nhờ những người lớn.

Chúng ta đang nói với nhau về đời sống cộng đoàn trong gia đình của Thiên Chúa. Tuần trước chúng ta nói với nhau về việc phải sửa lỗi cho nhau. Hôm nay Chúa nói với chúng ta về một vấn đề khác “gay” hơn một chút, nhưng lại rất thú vị vì nó làm nên một cái gì đó có tính cách độc đáo trong đạo của Chúa Giêsu, Chúa chúng ta. Đó là sự tha thứ

I. Bài học hôm nay bắt nguồn từ câu hỏi của Phêrô.

Hôm đó Chúa dạy các môn đệ về cách phải đối xử với người có lỗi với mình. Đại ý Chúa bảo phải tha thứ cho những người lầm lỗi khi họ thực lòng thống hối ăn năn.

Cảm thông trước lời dạy của Chúa, Phêrô lên tiếng hỏi: “Lạy Thầy nếu người anh có lỗi với con, con phải tha thứ cho họ mấy lần ? Có phải đến 7 lần không ?”

Hỏi nhưng đã có sẵn câu trả lời.

Tại sao Phêrô dừng lại ở con số 7 như một định mức mà có lẽ ông cho là thế nào Chúa cũng sẽ bằng lòng ? Tha như thế đối với ông kể ra cũng là quá lý tưởng rồi.

Có lẽ để hiểu được Phêrô chúng ta hãy trở lại một chút về phía trước một chút.

– Trong Sách Khải Nguyên cuốn sách đầu tiên của Cựu Ước đoạn 4,20 Lamek tuyên bố luật “rừng” thời bấy giờ như thế này: “Phải báo thù đến 7 lần”

– Bước sang thời của Moise thì chúng ta thấy đã có tiến bộ hơn một chút nhưng cũng mới chỉ dừng lại ở hai tiếng sự công bình: Mắt thế mắt, răng đền răng.

– Tiến sang thời lập quốc và thời các ngôn sứ, chúng ta thấy một số các Rabbi Do thái đã có những lập trường thoáng hơn. Họ đã bắt đầu nói đến tinh thần bác ái mà sau này Chúa đã đẩy lên đến tột đỉnh và coi đó là con đường của Ngài.

Rabbi Hanina nói: “Ai xin người lân cận mình tha thứ, không được xin quá ba lần”. Rabbi Jehuna dạy: “Nếu một người phạm tội một lần, họ phải tha thứ cho người ấy. Hai lần, họ phải tha thứ cho người ấy. Ba lần họ cũng phải tha thứ cho người ấy. Nhưng lần thứ tư thì không được tha nữa.”

Các Rabbi lại dừng lại ở con số ba vì Tiên tri Amos khi nói về việc Thiên Chúa tha thứ cho những ai lỗi phạm đến Người, thì tiên tri đã nói Thiên Chúa chỉ tha thứ đến ba lần. Đến lần thứ bốn thì Ngài sẽ không tha thứ nữa mà sẽ trừng phạt.

Nếu Thiên Chúa đã làm thế thì con người không được phép “qua mặt” Người. Chính vì thế mà các Rabbi chỉ chấp nhận sự tha thứ đến lần thứ ba.

Chúng ta thường nói với nhau: “Quá tam ba bận”.

Như vậy khi Phêrô đề nghị tha đến bảy lần tức là gấp hai lần cộng một cái lằn mức của các Rabbi thì ông nghĩ là ông đã làm một cuộc cách mạng và chắc là Chúa phải bằng lòng và khen ngợi ông.

Chúng ta phải cám ơn Ông Phêrô. Bởi chính từ câu chuyện này mà chúng ta được Chúa dạy cho chúng ta một bài học thật tuyệt vời. Chúa không bảo phải tha đến bảy lần mà đến bảy mươi lần bảy. Phải tha thứ luôn luôn và mãi mãi.

Tiến sĩ Morgan một trong những nhà chú giải Kinh Thánh nổi tiếng nhất của thời đại nói: “Có lẽ chúng ta phải sống lâu lắm mới có dịp để tha thứ cho một người đến 490 lần”

II. Để cắt nghĩa bài học mà Chúa vừa đưa ta, Chúa đã dùng một dụ ngôn, một dụ ngôn rất đẹp về ý nghĩa nhưng không được đẹp mấy về hình ảnh.

a/ Người đầy tớ của Vua trong dụ ngôn hôm nay vừa là con nợ vừa là chủ nợ.

– Anh ta là con nợ của Vua và là chủ nợ của bạn anh

– Với tư cách là con nợ anh chỉ là một người đầy tớ. Tương quan giữa anh và Vua là tương quan chủ nô.

– Với tư cách là chủ nợ anh là một người bạn. Tương quan giữa anh và bạn anh là tương quan huynh đệ. Một tương quan đẹp và cao hơn nhiều.

b/ Với tư cách là con nợ, món tiền anh mắc nợ rất lớn: 10.000 nén vàng.

Sử gia Joseph Flavius nói rằng: Món nợ này tương đương với 100.000.000Đ của người Do thái lúc đó. Và nếu cứ tính theo giá tiền công lao động lúc đó là 1đ/ngày thì số tiền đó tương đương với 100.000.000 ngày công. Đó là một món nợ lớn không thể tưởng tượng được. Đây là món nợ lớn hơn tiền chuộc một vị vua.

Người bày tôi trong câu truyện được Vua cho nợ một món tiền lớn như thế thật là truyện lạ lùng.

c/ Và với tư cách một chủ nợ, anh ta cho bạn của anh ta nợ 100 đồng….Một số tiền tương đương với 100 ngày công. Tỉ lệ 100/100.000.000. Một sự cách biệt khổng lồ.

d/ Bây giờ chúng ta coi cách nhà vua đối xử với anh và cách anh ta đối xử với bạn của anh ta như thế nào.

– Với tư cách là con nợ, khi anh bị đòi, anh không có gì trả, anh đã xin khất. Nói là khất cho đẹp chứ thực ra khả năng chi trả của anh có cả đời cũng không trả được.

Nhà vua quảng đại không những không bắt anh trả một đồng nào mà ngược lại còn tha hết nợ cho anh.

– Bây giờ đến lượt anh ta. Bạn anh mắc nợ anh 100 quan tiền

Anh đòi nợ. Bạn anh chưa có tiền để trả. Bạn anh van xin anh được khất lại một kỳ. Anh đối xử như thế nào thì tất cả chúng ta đã rõ.

Khi chú giải về đoạn Tin Mừng này, Cha Gutziller…:”Trước mặt Thiên Chúa con người phải điều chỉnh lại mối tương quan của mình đối với người khác. Thái độ của họ đối với anh em sẽ xác định thái độ của họ đối với Thiên Chúa. Người tín hữu khi biết Thiên Chúa đối xử tốt lành đối với mình mà còn tới gần anh em mình với tinh thần khắc nghiệt thì họ sẽ đáng sự trừng phạt của Thiên Chúa”

III. Hãy biết tha thứ kính thưa anh chị em. Hận thù chẳng để lại một ích lợi gì cho chúng ta, ngược lại nó còn làm cho cuộc đời của chúng ta mất đi những niềm vui mà đáng lý ra chúng ta luôn có.

Văn hào Nga Léon Tolstoi có kể câu chuyện ngụ ngôn như sau: có một người hành khất đến trước cửa nhà một người giàu có để xin bố thí. Mặc cho người khốn khổ van xin, người giàu có vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Đến một lúc không chịu được những lời van xin đó nữa thì thay vì bố thí, người giàu có đã lấy một hòn đá ném vào người hành khất.

Con người khốn khổ ấy lặng lẽ nhặt lấy hòn đá cho vào bị rồi thì thầm trong miệng: “Ta mang hòn đá này cho đến ngày nhà ngươi sa cơ thất thế. Ta sẽ dùng nó để ném trả lại ngươi”.

Năm tháng trôi qua, lời chúc dữ của người hành khất đã thành sự thật. Vì biển lận, người giàu có bị tước đoạt tất cả tài sản và bị tống giam vào ngục. Người hành khất chứng kiến cảnh người ta áp giải người giàu có vào ngục, nỗi căm hờn trong lòng ông sôi lên sùng sục . Ông đi theo đoàn người áp tải tay không rời hòn đá mà người giàu có đã ném vào người ông cách đây mười mấy năm. Ông muốn ném hòn đá đó vào người tù để rửa sạch mối nhục hằng đeo đẳng bên ông.

Nhưng cuối cùng nhìn thấy gương mặt tiều tụy đáng thương của kẻ đang bị cùm tay, người hành khất thả nhẹ hòn đá xuống đất rồi tự nhủ:

– Tại sao ta lại mang nặng hòn đá từ bao nhiêu năm qua ? Con người này, giờ đây chỉ là một kẻ khốn khổ còn hơn cả ta.

Loren Fischer ““Ghim giữ nỗi đau hay là phóng thích nó bằng sự tha thứ ? Hai điều ấy khác nhau như là ban đêm ta nằm ngủ trên chiếc gối chĩa đầy gai nhọn hay trên chiếc gối phủ đầy những cánh hồng”

Và đây là Lời của Chúa: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy.”(Mt 7,36-38)