Bài Tin Mừng hôm nay được coi như đoạn kết cho một câu chuyện tương đối dài trong TM của Gioan. Câu chuyện bắt đầu bằng một phép lạ rất đặc biệt được cả bốn Tin Mừng ghi lại. Đó là phép lạ bánh hóa nhiều. Sau phép lạ Chúa giảng một bài giảng rất đặc biệt với đề tài cũng rất đặc biệt. Đó là bài giảng về bánh hằng sống. Bài giảng này đã gây ra một sự phân hoá chưa từng thấy trong thái độ của những người nghe Chúa lúc đó. Ngoài thái độ của những kẻ đã có sẵn một ác ý và luôn thù nghịch với Chúa, chúng ta còn có thể thấy ba thái độ rất khác nhau về vấn đề này.

A. 1. Trước hết là thái độ của đa số quần chúng.

– Được Chúa cho ăn bánh no nê, họ cảm thấy vui. Hơn nữa họ còn muốn tôn Chúa lên làm vua để cai trị họ, với hy vọng họ sẽ có được một tương lai sáng sủa và oai hùng hơn.

– Chính vì quá mong mỏi một tương lai có tính cách trần thế như vậy cho nên khi thấy Chúa không đáp ứng được những mong ước của mình, dân chúng đã bắt đầu lạnh nhạt với Chúa. Khi Chúa nói với họ về một thứ bánh mà Chúa gọi là bánh hằng sống thì họ tỏ ra lãnh đạm lạ thường. Thái độ đó dần dần đã làm cho họ trở thành những người sẵn sàng đối đầu với Chúa sau này.

2- Thái độ thứ hai là thái độ của một số các môn đệ.

– Lý ra thì họ phải là những người hiểu Chúa, tha thiết với Chúa nhiều hơn. Cho dù những lời Chúa giảng có khó chấp nhận thì họ cũng phải luôn gắn bó với Chúa. Thế nhưng thật không may cho Chúa, Chúa mới chỉ đề cập đến một vấn đề hơi khó hiểu một chút thế mà họ đã bỏ Chúa, bỏ một cách không một chút nuối tiếc. Charles Erdman bảo họ bỏ Chúa vì họ thất vọng. Họ thất vọng vì Chúa không trở thành một nhà lãnh đạo chính trị như lòng họ vẫn thầm mong.

– Trước sự ra đi của họ, xem ra Chúa hơi đau xót một chút nhưng Chúa vẫn giữ nguyên thái độ và không chịu lùi bước.

3- Thái độ cuối cùng là thái độ của nhóm 12.

– Sau khi một số các môn đệ bỏ đi, Chúa hướng mắt của Người về nhóm 12.

– Phêrô đại diện cho tất cả nhóm nói lên một lời mà cho dù không phải là Chúa chúng ta cũng dư biết là Chúa rất vui lòng.

– Thái độ của Phêrô làm Chúa cảm động. Phêrô đã dứt khoát chọn Chúa… Một chọn lựa không có gì làm cho ông thay đổi.

B- Vấn đề của ta: Tại sao cùng đứng trước một Chúa Giêsu mà lại có nhiều thái độ khác nhau như thế? Tại vì những lời Chúa nói và vấn đề Chúa đặt ra khó tin quá.

+ Dân chúng không hiểu được vì họ không muốn hiểu.

+ Một số môn đệ không những đã không muốn hiểu mà còn cho đó là những lời quá chói tai nghe không được nên họ bỏ đi.

+ Chỉ còn lại một nhóm nhỏ tuy không hiểu nhưng vẫn tin và vẫn chấp nhận. Họ chấp nhận bởi vì họ cảm thấy không thể bỏ Chúa. Lòng tin của họ rất chân thành. Niềm tin của nhóm 12 chẳng khác gì niềm tin của Giosuê thuở xưa trong thời Cựu ước. Tại Sikem nơi mà trước đây Abraham đã dựng bàn thờ đầu tiên để dâng đất Canaan này cho Thiên Chúa (Kn 12,6), nơi mà Giacob và con cái của ông đã để lại rất nhiều kỷ niệm (Kn 33;35), nơi mà trước đây ông đã chọn để tuyên bố luật pháp. Chính tại nơi đây một lần nữa Giosuê biểu lộ lòng trung thành của ông và gia đình ông. Ông nói với những người Do thái như thế này: Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ ĐỨC CHÚA, thì hôm nay anh em cứ tuỳ ý chọn thần khác mà thờ hoặc là các thần cha ông anh em đã phụng thờ bên kia Sông Cả, hoặc là các thần của người E-mô-ri mà anh em đã chiếm đất để ở. Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ ĐỨC CHÚA.”

Vâng đó là một chọn lựa thật đẹp, đẹp trong thái độ của ông và gia đình ông, và còn đẹp cả ở trong ý nghĩa nữa: “Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ ĐỨC CHÚA.”

Giosuê quả xứng đáng là một nhà lãnh đạo. Lòng tin và lòng trung thành của ông đã trào qua và thấm vào lòng của toàn dân. Dân chúng cũng cảm thấy họ không thể chọn con đường nào khác. Họ đã đáp lại: “Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ ĐỨC CHÚA để phụng thờ các thần khác! Vì chính ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của chúng tôi, đã đem chúng tôi cùng với cha ông chúng tôi lên từ đất Ai-cập, từ nhà nô lệ, đã làm trước mắt chúng tôi những dấu lạ lớn lao đó, đã gìn giữ chúng tôi trên suốt con đường chúng tôi đi, giữa mọi dân tộc chúng tôi đã đi ngang qua. ĐỨC CHÚA đã đuổi cho khuất mắt chúng tôi mọi dân tộc cũng như người E-mô-ri ở trong xứ. Về phần chúng tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ ĐỨC CHÚA, vì Người là Thiên Chúa của chúng tôi.”

Đó là những gì đã xẩy ra từ ngàn xưa, cách chúng ta cả gần 3000 năm.

Thế còn bây giờ thì sao?

Vào năm 1924 ở nước Anh, có một người tên là Eric Liddell. Eric Liddell là vận động viên xuất sắc trong môn chạy 100 mét. Mọi người đều hy vọng anh sẽ đem về cho quê hương chiếc huy chương vàng tại đại hội Olympic được tổ chức tại Paris nước Pháp năm đó. Nhưng rồi họ ngỡ ngàng bực tức khi nghe tin anh từ chối không tham dự đại hội đó. Lý do là vì đại hội đó tổ chức nhằm ngày Chúa nhật. Anh không thể bỏ lễ Chúa nhật để đi tìm một huy chương vàng. Mọi người đều gây sức ép trên anh. Cả hoàng tử xứ Walles cũng cố gắng thuyết phục anh đi dự đại hội đó. Thế nhưng anh nhất định không chịu đổi ý, báo chí Anh quốc cho anh là tên phản bội.

Vài năm sau, anh còn làm cho mọi người sửng sốt hơn nữa, khi anh đến Trung Hoa làm trong vai trò của một nhà truyền giáo.

Thế rồi thế chiến thứ hai xảy ra. Khi Nhật nhả̉y vào cuộc chiến, anh bị bắt và bị giam trong một trại tập trung. Tại đây anh vẫn tiếp tục việc mục vụ bên cạnh các tù nhân. Vài năm sau, anh đã anh dũng chết tại trại tập trung nầy. Năm 1980, có người đã dựng lên cuốn phim về cuộc đời hy sinh vì Chúa của anh. Cuốn phim tựa đề là “Chuyến xe chở lửa”.  Cuốn phim đã phá kỷ lục về lợi nhuận mà còn đoạt giải thưởng Hàn Lâm năm 1982.

Cuộc đời của Eric Liddell đã làm sáng tỏ thái độ dứt khoát mà Chúa Giêsu đòi hỏi nơi các môn đệ của Ngài trong bài Tin Mừng hôm nay.

Một khi đã quyết định theo Chúa Giêsu, Eric cứ nhắm thẳng phía trước mà tiến bước, không bao giờ ngó lại phía sau dù phải đối diện với áp lực khủng khiếp của dân chúng, dù bị gọi là tên phản bội.

Bí quyết nào giúp anh can đảm, trung thành bền đỗ đến thế?

Anh luôn thức dậy sớm mỗi ngày, suy niệm Lời Chúa và cầu nguyện. Đó là bí quyết của anh. Và chắc chắn đó cũng là bí quyết cho chúng ta, nếu chúng ta muốn làm môn đệ Chúa bền vững. Và “ai bền đỗ dến cùng sẽ được cứu thoát” (Theo “Sunday  homilies”).

Thiếu nhi chúng con yêu quí,

Đọc lại Lời Chúa trong thánh lễ hôm nay, cha thấy có hai câu chuyện làm cha cảm động. Một câu chuyện trong bài đọc thứ nhất trích từ sách Gio-suê của Cựu Ước. Một từ bài Tin Mừng với lời tuyên xưng trung thành theo Chúa của các tông đồ.

1. Trước tiên là câu chuyện trong sách Giôsuê. Câu chuyện hết sức cảm động. Đây chúng con nghe.

Được sinh ra từ Ai Cập, Giô-suê cảm thấy sự nhục nhã của thân phận tôi đòi, nô lệ. Được Chúa đưa ra khỏi Ai Cập cùng với toàn dân, ông luôn  luôn ở gần Môise và thi hành các chỉ thị của Ngài. Suốt cuộc đời, dù gặp gian nan thử thách, Giô-suê vẫn một mực trung thành với Chúa. Không bao giờ ông tỏ ra nao núng trước những cơn thử thách. Ông luôn tin tưởng. Khi Môise qua đời ông được Chúa chọn kế vị Moise. Ông dẫn dân vào miền đất hứa.

Chiếm được đất hứa xong, ông chia đất cho các chi họ.

Nhưng thói thường là sau khi đã được hưởng hòa bình thì người ta dễ dàng mắc phải những tật xấu. Thấy dân chúng đã dần dần quên Chúa, xa Chúa mà hướng về những thần bằng đất bằng đá. Ông nhóm họp các chi phái với các trưởng lão ở Sichem, nơi Apram lãnh lời hứa thứ nhất của Chúa sau khi đến xứ Canan.

Trước mặt các trưởng lão và các chi họ, ông bắt họ phải lặp lại giao ước mà từ bỏ mọi hình tượng.

Ông nói với toàn dân bằng những lời lẽ rõ rệt như thế này: “Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, phán thế này: “Thuở xưa, khi còn ở bên kia Sông Cả, cha ông các ngươi, đã phụng thờ các thần khác. Hôm nay nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Ðức Chúa, thì anh em cứ tuỳ ý chọn thần mà thờ hoặc là các thần cha ông anh em đã phụng thờ bên kia Sông Cả, hoặc là các thần của người E-mô-ri mà anh em đã chiếm đất để ở. Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Ðức Chúa.”

Dân đáp lại: “Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ Ðức Chúa để phụng thờ các thần khác! Vì chính Ðức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi, đã đem chúng tôi cùng với cha ông chúng tôi lên từ đất Ai-cập, từ nhà nô lệ, đã làm trước mắt chúng tôi những dấu lạ lớn lao đó, đã gìn giữ chúng tôi trên suốt con đường chúng tôi đi, giữa mọi dân tộc chúng tôi đã đi ngang qua. Về phần chúng tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Ðức Chúa, vì Người là Thiên Chúa của chúng tôi.”(Giô-suê 24,1-2a.15-18b)

Gio-suê và gia đình ông và cả dân It-ra-en đã chọn Chúa và hứa sẽ chỉ phụng thờ Người mà thôi. Thật là một thái độ rất đẹp và chắc chắn sẽ làm Chúa vui lòng.

Chúng con hãy noi gương Giô-suê và gia đình ông mà chọn và phụng sự Chúa.

Cha kể cho chúng con câu chuyện này:

Vua Thánh LOUIS nước Pháp sau khi lên ngôi đã không ký tên vào các văn tự, sắc chỉ hay tài liệu là “Louis IX Hoàng Đế” như thói quen của các vị vua tiền nhiệm, nhưng đã ký tên mình là “Louis thành Poissy”. Được hỏi lý do tại sao lại ký như vậy, nhà vua trả lời: “Poissy là nơi tôi được lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội. Tôi thường nhớ đến Nhà thờ nơi tôi được rửa tội ở thành này hơn là Nhà thờ chánh toà thành Reims, nơi tôi được lãnh nhận triều thiên để trở thành Hoàng Đế. Theo tôi, được trở nên con cái Thiên Chúa cao trọng hơn là được làm vua một đến quốc, bởi lẽ vì khi tôi nhắm mắt xuôi tay, tôi sẽ mất chức vua; nhưng được làm con cái Thiên Chúa là sổ thông hành đưa tôi vào cuộc sống vĩnh cửu”.

Chọn được Chúa là được tất cả.

2. Câu chuyện thứ hai.

Tin Mừng cho chúng ta biết khi Chúa Giêsu bắt đầu đi giảng đạo, ngoài những người được Chúa gọi tông đồ tức nhóm 12, còn có nhiều người theo Chúa nữa. Trong số những người này có một nhóm được gọi là môn đệ. Họ theo Chúa nhưng không phải vì Chúa mà vì họ. Họ mong muốn Chúa đem lại cho họ những lợi lộc trần thế. Chính vì thế mà khi thấy Chúa không phải là người đem lại cho họ những lợi lộc trần thế như họ muốn thì họ sẵn sàng bỏ Chúa.

Hôm nay sau khi Chúa giảng bài giảng về bánh hằng sống, nhất là khi Chúa quả quyết: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình.Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy.(Ga 6,53-57)

Nghe Chúa nói thế họ buồn. Họ bảo lời đó nói chói tai quá, nghe không được và họ bỏ Chúa.

Chúa buồn nhưng Chúa không lùi bước. Quanh Chúa còn lại nhóm 12. Chúa quay lại hỏi họ.

– Cả chúng con, chúng con có muốn bỏ đi không ?

Phêrô đại diện cho các anh em mình thưa với Chúa:

– Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống.

 Câu trả lời của Phêrô đã làm Chúa cảm động.

Ông Phêrô và cả nhóm 12 đã chọn Chúa.

Các ông đã bỏ tất cả để đi theo Chúa.

Ông không thể bỏ Chúa để đi theo bất cứ ai, bất cứ cái gì.

Lý do ông đưa ra, vì Chúa có lời ban sự sống đời đời.

H. Homen Dixon kể lại, ngày xưa có một ông vua, ông có hai người con. Ông muốn thử xem con nào là đứa con khôn để ông trao lại quyền cai trị của ông sau khi ông qua đời. Ông lấy một viên kim cương thật quí gói trong một tờ giấy thật xoàng, rất khó coi – còn viên kim cương giả bằng thủy tinh thì ông bỏ vào một cái hộp rực rỡ. Sau đó ông gọi 2 người con lại. Ông cho người con cả chọn trước, cậu con cả nhìn hai gói, thấy gói xấu nên bỏ qua và anh ta đã chỉ tay vào cái hộp đẹp.

Sau đó đến phiên người con út. Nó nhìn vào hai món đồ. Sau một phút suy nghĩ nó nhìn cha nó và nó nói với cha “Thưa cha, xin cha lựa giùm con”.

Và vua đã tìm ra được người kế vị mình. Ngay sau đó nhà vua đã cho mở gói quà được bọc trong tờ giấy thật xoàng ra. Ai nấy đều ngỡ ngàng. Ngay sau đó nhà vua liền sai thợ làm một cái mũ triều thiên thật đẹp và viên kim cương thiệt được đính lên đó. Xong, nhà vua cho đặt cái triều thiên đó trong cái hộp bằng vàng đẹp hơn cái hộp trước ngàn lần. Cuối cùng vua triệu tập thần dân lại và tuyên bố “Mai sau con út ta sẽ được nối ngôi làm vua và sẽ dùng cái mũ kim cương quí giá này làm vương miện” ..

Chúng con yêu quí,

Chúng con hãy bắt chước ông Phêrô mà chọn Chúa. Chọn Chúa không phải vì Chúa giầu sang phú quí. Không phải để được Chúa ban cho chức cao quyền cả nhưng chọn Chúa vì yêu mến Chúa và nhất là để được Chúa ban Lời hằng sống đời đời để giúp chúng ta đạt được hạnh phúc vô cùng quí giá với Chúa mai sau. Amen.

Thiếu nhi chúng con yêu quí,

Chúng con vừa được nghe một đoạn Tin Mừng do thánh Gioan ghi lại.

Chẳng cần phải nói dài chúng con cũng thấy đây là đoạn Tin Mừng được trích từ bài giảng về Bánh Hằng Sống của Chúa Giêsu.

Nói thế có nghĩa là bài Tin Mừng hôm nay nối tiếp tư tưởng các bài Tin Mừng của ba Chúa nhật trước đây. Trong những bài Tin Mừng trước, chúng ta thấy Chúa đã tuyên bố những lời làm cho người nghe khó hiểu. Hôm nay những lời tuyên bố của Chúa lại càng làm cho người ta khó hiểu hơn.

Chúng ta hãy nghe lại một lần nữa những lời tuyên bố của Chúa: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”(Ga 6,51).

1. Chúng ta phải hiểu lời Chúa làm sao?

Lời Chúa rõ ràng quá. Chúng ta không thể hiểu cách nào khác.

Khi người Do thái phản ứng: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?” (Ga 6,52), người ta cứ tưởng Chúa sẽ dịu giọng lại, nhưng ai dè Chúa còn mạnh miệng quả quyết: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. (Ga 6,53-55)

Bằng nhiều phép lạ xuyên qua suốt dòng lịch sử của Giáo Hội chúng ta thấy những lời quả quyết của Chúa Giêsu là điều không thể hiểu cách nào khác.

Vào năm 700, lịch sử vẫn còn ghi lại. Tại Lanciano, Ý. Trong thánh lễ do một linh mục dòng Basiliô cử hành tại nhà thờ thánh Legozianô, vì một chút nghi ngờ đối với sự hiện diện của Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể, cho nên, ngay sau khi đọc lời truyền phép, phép lạ đã xảy ra ngay trong tay vị linh mục: Bánh trở nên thịt sống và Rượu trở nên máu tươi rồi đông đặc lại thành năm cục to nhỏ.

Cho đến nay, sau 13 thế kỷ, người ta vẫn còn nhìn thấy rõ miếng bánh đã biến thành thịt có màu hơi nâu. Nếu nhìn dưới ánh sáng, ta sẽ thấy có màu hồng hồng, được đặt trong một mặt nhật bằng thủy tinh. Còn năm cục máu đổi thành màu vàng nghệ, được đặt trong một chén thánh cũng bằng thủy tinh, trưng bày trong nhà thờ thánh Legozianô – Lanciano, để khách hành hương tự do kính viếng.

Trong suốt dòng thời gian, giáo quyền đã cho làm nhiều cuộc thử nghiệm để kiểm chứng sự lạ này. Những cuộc giám nghiệm được tiến hành vào những năm 1574, 1637, 1770, 1886. Hai lần giám nghiệm mới đây nhất được tiến hành vào năm 1971 và 1981.

Rõ ràng là Chúa muốn hiến Mình và Máu Thánh Chúa làm lương thực nuôi linh hồn chúng ta.

Chỉ có một điều là làm sao chúng ta có thể “ăn thịt và uống máu” Chúa được?

Ở đây cha thấy Chúa thật khôn ngoan vô cùng. Chúa hiểu thật rõ, chẳng ai có thể làm như thế. Việc ăn thịt người từ xưa đến nay luôn là một điều mọi người ghê sợ và nhiều quốc gia cấm kỵ.

Vậy thì Chúa làm thế nào để giải quyết?

Thưa Chúa dùng con đường Bí Tích.

Sách Giáo lý chung viết rất hay: “Bạn hỏi: làm thế nào Bánh (1375) trở nên Mình Đức Kitô và Rượu trở nên Máu Đức Kitô? Tôi xin thưa với bạn: Chúa Thánh Thần ngự đến và thực hiện những điều đó, những điều vượt trên mọi lời nói và mọi tư tưởng”(1106).

Bí tích là sáng kiến độc đáo tuyệt vời của Chúa. Bằng Bí tích Thánh thể Chúa đã biến bánh thành Mình Thánh Chúa, rượu thành Màu Thánh Chúa để những ai tin Chúa có thể lãnh nhận một cách dễ dàng. Thiên Chúa có quyền làm như thế.

Khi thánh nữ Ghertrude suy niệm về bí tích Thánh Thể và tự hỏi làm sao Chúa có thể tự hạ mình xuống thấp như thế để hiện diện trên bàn thờ dưới hình bánh, thì chính Chúa Giêsu (2816) đã trả lời bà bằng câu chuyện sau:

Một hoàng tử nhỏ ở trong một lâu đài rộng lớn với đủ loại đồ chơi, ngày kia nhìn qua cửa sổ và thấy các đứa bé nghèo chơi trên đường. Thấy hoàng tử nhìn qua cửa sổ như thế, người giám hộ liền hỏi:

– Hôm nay hoàng tử muốn ở chơi trong lâu đài hay muốn ra ngoài chơi với các đứa bé trên đường phố?

– Tôi muốn ra ngoài chơi với chúng.

Được phép, hoàng tử khoác vào người bộ đồ cũ nhất và cả ngày chơi với các trẻ nghèo. Đây là một trong những ngày hạnh phúc nhất của cậu bé chốn cung đình.

Rồi Chúa nói với thánh Ghertrude:

– Ta giống như vị hoàng tử nhỏ kia. Ta muốn ở với con người, (788) đàn ông cũng như đàn bà. Bất cứ ai không đến với Mình Thánh hoặc ngăn cản kẻ khác đến rước lễ, kẻ ấy lấy mất đi của Ta một niềm vui lớn.

2.“Ta là bánh và là bánh trường sinh” (Ga 6,35,48).

Bánh trường sinh là bánh ban sự sống, không phải là sự sống của thân xác ở đời này – mà là sự sống muôn đời. Sự sống ấy bắt đầu ở đời này và tiếp tục mãi mãi về sau bất kể việc thân xác có bị kết thúc ở đời này bằng cái chết hay không. Đức Giêsu là bánh ban sự sống muôn đời vì Ngài là bánh hằng sống (Ga 6,51) – bánh có sự sống. Sự sống ở nơi Đức Giêsu là sự sống đã đạt tới mức độ hoàn hảo khi Ngài được phục sinh. Ngài được Cha ban cho sự sống dư tràn để rồi Ngài trở thành “Thần khí ban sự sống” cho chúng ta. (1Cr15,45).

Marthe Robin sinh năm 1902 tại Drôme (Pháp) trong một gia đình tiểu nông. Ngay từ nhỏ, sức khỏe của cô rất kém, nhưng bù lại tính tình lại luôn lạc quan vui vẻ. Năm 16 tuổi cô bị tê liệt, có lẽ vì bị viêm màng não. Luôn sống trong tình trạng nửa tỉnh nửa mê. Sau hai năm chữa chạy, bệnh tình của cô đỡ hơn đôi chút. Năm 20 tuổi, cô cảm thấy như Chúa thúc đẩy muốn cô phải hoàn toàn tận hiến cho Thiên Chúa qua việc chịu đau khổ. Năm 1925 tức năm cô được 23 tuổi, sức khỏe cô suy giảm trầm trọng, cô bị tê liệt hoàn toàn. Từ đó cô không thể rời khỏi giường. Cô luôn bị bệnh mất ngủ, không ăn uống gì được, chỉ rước Mình Thánh Chúa mỗi ngày. Tháng 9.1923, trong một thị kiến, cô được chiêm ngưỡng Chúa Giêsu Kitô và được in năm dấu thánh trên mình. Kể từ đó cứ vào ngày thứ sáu hàng tuần, cô bước vào cuộc thương khó của Chúa Kitô. Cô chỉ còn sống nhờ tình yêu và cho tình yêu Chúa Kitô thôi. Năm 1940, cô bị mù hoàn toàn. Năm 1980, cột sống cô bị vẹo đi, khiến cô bị đau đớn vô cùng. Cô qua đời ngày thứ sáu đầu tháng 6 năm 1981 thọ 79 tuổi. 56 năm không ăn không uống gì, chỉ sống nhờ việc rước Mình Thánh Chúa mỗi ngày.

Chúng ta hãy hết lòng yêu mến Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể.

Thánh Don Bosco có lòng yêu mến phép Thánh Thể nồng nàn. Hằng ngày ngài dành thời giờ để viếng Chúa, cả khi lúc về già, sức yếu lực tàn ngài vẫn giữ thói quen ấy. Những lúc chân ngài bị đau, ngài phải cố gắng lắm mới qùy được. Khi ngài sốt sắng cầu nguyện thì mặt ngài sáng lên như một thiên thần. Mỗi lần đi qua nhà thờ, ngài đều giở mũ ra chào. Ngài khuyên các linh mục nên đọc kinh thần tụng trước Thánh Thể. Đối với các thanh thiếu niên, Ngài luôn cổ vũ các em yêu mến Mình Màu Thánh Chúa. Ngài nói:

– Nếu chúng con muốn Chúa ban cho chúng con nhiều ân sủng, hãy năng đến viếng Ngài. Nếu chúng con ít đi viếng Chúa, ma quỉ sẽ tấn công chúng con. Nếu chúng con muốn ma quỉ xa lánh chúng con, chúng con hãy siêng viếng Chúa. Nếu chúng con muốn chiến thắng ma quỉ, chúng con hãy ẩn núp dưới chân Chúa Giêsu. Nếu chúng con không viếng Chúa, chúng con sẽ thua ma quỉ. Chúng con thân mến, siêng năng viếng Thánh Thể là một phương thế hữu hiệu để chiến thắng ma quỉ. Hãy cố gắng siêng năng viếng Chúa Thánh Thể thì ma quỉ sẽ không thể chiến thắng chúng con được. Amen.

Thiếu nhi chúng con yêu quí

Cha hỏi chúng con: Ai sinh ra chúng con nào?

– Dạ thưa, cha mẹ.

– Đúng! Cha mẹ sinh ta chúng con. Cha mẹ sinh ra chúng con để chúng con làm gì?

– Thưa để làm người.

– Cũng rất đúng!

– Cha hỏi thêm, khi chúng con được lãnh Bí Tích Rửa tội chúng con trở thành ai?

– Thưa cha, chúng con trở thành Con Thiên Chúa.

– Rất hay! Sau khi được chịu phép Rửa tội, chúng ta thành Con Thiên Chúa, tuyệt với quá. Mình là người mà lại được trở thành Con Thiên Chúa.

Như vậy là mỗi người chúng ta có hai tư cách: Một làm con người, một làm con Thiên Chúa!

1. Bánh của con người.

Khi làm người chúng ta mỗi người đều có một thân xác. Thân xác của chúng ta muốn sống thì phải ăn.

Trong bài nói truyện tại sở y tế thành phố HCM ngày 28.8.1980, bác sĩ Dương Quỳnh Hoa cho biết: “Giống như cái cây cần hút chất nuôi dưỡng từ lòng đất để phát triển, con người cũng cần thông qua ăn uống, có đầy đủ chất dinh dưỡng mới có thể sống, phát triển và hoạt động bình thường.

Nhu cầu dinh dưỡng gồm 3 loại:

– Một là nhu cầu để tạo cơ thể.

– Hai là nhu cầu để tạo nhiệt lượng cần thiết cho hoạt động.

– Ba là nhu cầu bảo vệ cơ thể.

Không ăn uống con người không thể tồn tại.

Ăn uống không đủ thì con người không thể sống khỏe mạnh.

Con người không thể sống mà không có cơm bánh.

Đây là câu chuyện có thực. Câu chuyện về một nhà thám hiểm. Sau hai ngày lang thang trong sa mạc, nhà thám hiểm nọ đã cạn hết lương thực, cũng như cạn sức hết sức lực cùng niềm hy vọng. Ông ta cố gắng lê gót đi thêm một ngày nữa, nhưng chung quanh chỉ thấy cát và cát. Cuối cùng, ông cũng đã đến được một ốc đảo. Sau khi xoa dịu được cơn khát, ông lại bị cơn đói hành hạ. Chính lúc đó, ông chợt thấy một bị da đóng kín nằm lăn lóc nơi ông đang quằn quại vì đói. Ông hy vọng tìm được trong cái bị da mà ai đó đã vất lại, một chút gì để ăn, để rồi có thể đi cho hết cuộc hành trình qua xuyên sa mạc. Ông cố mở bị da ra và mắt ông hoa lên. Thay vì lương thực là điều bây giờ ông đang cần thiết nhất, thì ông lại chỉ thấy trong bị toàn là kim cương. Trong nỗi thất vọng ê chề của cơn hấp hối, ông đã cay đắng thốt lên: “Giữa chốn sa mạc tôi đang chết đói thế này thì kim cương mà để làm gì?”

Ít lâu sau, một đoàn thám hiểm khác băng sa mạc ngang qua chỗ ấy, họ thấy một bộ xương đang ôm chặt cái bị da, trong đó có cả một kho tàng nhưng nó đã trở nên vô ích đối với người chết đói trong sa mạc.

Câu chuyện Elia vừa nghe cho chúng ta thấy việc ăn uống cần thiết như thế nào.

Chuyện kể rằng sau khi đã chiến thắng 450 ngôn sứ Ba-an và tiêu diệt họ, ngài bị vua A-khap dùng tay bà I-de-ven lùng bắt. Thấy mạng sống mình lâm nguy, ngài đã bỏ trốn. Khi tới Bơ-e Se-va thuộc Giu-đa, ngài để đứa tiểu đồng lại đấy, còn ngài thì đi một ngày đàng trong sa mạc. Ngài đến ngồi dưới gốc một cây kim tước. Ngài xin cho được chết và nói: “Lạy Ðức Chúa, đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông của con.” Rồi ngài nằm dưới cây kim tước đó và thiếp đi. Nhưng này có một thiên sứ đụng vào người ngài và nói: “Dậy mà ăn!” Ngài đưa mắt nhìn thì thấy ở phía đầu ngài có một chiếc bánh nướng trên những hòn đá nung và một hũ nước. Ngài ăn bánh, uống nước, rồi lại nằm xuống. Thiên sứ của Ðức Chúa trở lại lần nữa, đụng vào người ngài và nói: “Dậy mà ăn, vì ngươi còn phải đi đường xa.” Ngài dậy, ăn bánh và uống nước. Rồi nhờ lương thực ấy bổ dưỡng, ngài đi suốt bốn mươi ngày, bốn mươi đêm tới Khô-rếp, là núi của Thiên Chúa. (1Vua 19,4-8)

Như vậy chúng con thấy tiên tri Isaia nhờ được ăn bánh Thiên Chúa ban mà đi hết được đoạn dường dài để đến nơi Chúa chỉ định.

2. Bánh của những người là con Thiên Chúa.

Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay đã nói cho chúng ta về một loại bánh mới mà Chúa gọi là bánh trường sinh: Bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời (Ga 6,50-51).

Thứ bánh mà Chúa nói đây là bánh cho linh hồn.

Nếu thân xác con người cần một thứ bánh vật chất để sống cuộc sống làm người trên trần gian này thì linh hồn con người cũng thế! Linh hồn cũng cần một thứ bánh mà Chúa gọi là bánh trường sinh để có thể sống cuộc đời làm Con Thiên Chúa ở đời và nhất là đời sau được hưởng cuộc sống đời đời với Chúa.

Như vậy chúng con thấy: Đối với Chúa, cả hai cuộc sống đều quan trọng. Nếu chỉ lo cho cuộc sống đời này mà đánh mất cuộc sống đời sau thì thật là thảm bại, chính Chúa đã cảnh cáo mọi người về điều đó. “Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?” (Mt 16,26)

Cuộc sống đời này sớm muộn gì cũng phải kết thúc bằng cái chết. Chẳng ai sống mãi trên cõi đời này. Khi sự chết đến thì tất cả đều phải nhường bước.

Vua Charles Quint (1519 – 1558) thân hành đến thăm vị quan trung thành nhất đang yếu nặng khó qua khỏi. Để tỏ ra biết ơn người đã suốt đời tận tụy với mình, Vua nói:

– Khanh có thể xin trẫm ơn nào cũng được. Trẫm muốn thưởng lòng trung thành của khanh và làm nhẹ phần nào cơn đau của khanh.

Nghĩ ngợi một lát kẻ liệt đưa mắt nhìn vua và nói:

– Tâu Hoàng thượng, hạ thần chỉ ao ước được sống thêm mấy ngày thôi, chẳng muốn xin gì khác nữa.

Vua Charles nói:

– Việc đó quá sức ta, vua chúa trên đời đều chịu, không tài nào kéo dài hơn sự sống thêm một giây.

Nghe vua trả lời như vậy, kẻ liệt quay vào vách, thở dài, và vừa rướm nước mắt vừa nói: “Tôi thực là ngu dại, tôi đã cống hiến cả một đời để phụng sự nhà vua, thế mà vua không thể cho tôi sống thêm một ngày. Giả như tôi khôn ngoan hơn đem cái đời dài ấy mà phụng sự Thiên Chúa thì chẳng những Chúa có thể cho sống thêm mà lại cho cả sự sống đời đời nữa.”

Bởi vậy mỗi người phải biết chăm lo cho cuộc sống đời đời mai sau. Làm sao để cho cuộc sống đời này chấm dứt, chúng ta được trở về trời với Chúa.

Để kết thúc cha muốn gửi đến chúng con câu chuyện này.

Một ngày nọ, triết gia Diogenes (412BC-323BC) của Hy Lạp đến giữa chợ thành Athène của nước Hy Lạp dựng lên một chiếc lều. Ngay trước lều ông gắn một cấm bảng có ghi đậm hàng chữ này: “Ở đây có bán sự khôn ngoan”.

Một bậc khoa cử tình cờ đi qua căn lều, đọc được lời rao báo đó, mới cười thầm trong bụng… Muốn biết đằng sau căn lều ấy có những gì, ông mới sai người đầy tớ cầm tiền để dò la và mua cho được cái mà người bán gọi là sự khôn ngoan.

Người đầy tớ cầm tiền ra đi làm theo lời căn dặn của chủ… Anh đưa cho Diogenes 3 hào và nói rằng chủ của anh muốn có sự khôn ngoan. Cầm lấy 3 hào bỏ vào túi, triết gia Diogenes nói với người đầy tớ một cách trang trọng như sau: “Anh hãy về đọc lại cho chủ anh nghe câu này: “Trong tất cả mọi sự, hãy nghĩ đến cùng đích”.

Nhận được lời khôn ngoan đó, vị khoa cử thành Athène vô cùng thích thú nên ông đã cho viết và treo lên trước cửa nhà như khuôn vàng thước ngọc để chính ông suy niệm mỗi ngày và tất cả những ai đi qua trước nhà ông cũng đều có thể đọc thấy…“Trong tất cả mọi sự, hãy nghĩ đến cùng đích”.

Mỗi người chúng ta cũng vậy. Hãy luôn nghĩ tới đời sau của mình, sống cho thật xứng đáng để mai sau khi Chúa đến gọi, chúng ta sẳn sàng để về Thiên đàng với Chúa. Amen.

Thiếu nhi chúng con yêu quí,

Bài Tin Mừng hôm nay là bài Tin Mừng rất hay nhưng hơi khó cắt nghĩa.

Cha đố chúng con qua bài Tin Mừng hôm nay Chúa muốn nhắn gửi chúng ta điều gì?

……………………………….

Hơi khó phải không chúng con.

Đây cha cố gắng cắt nghĩa cho chúng con.

1. Trước hết chúng con hãy nhớ lại hoàn cảnh câu chuyện lúc đó đã.

Thế hoàn cảnh hôm ấy như thế nào?

Hôm ấy Chúa vừa mới làm một phép lạ lớn: Chúa biến 5 chiếc bánh và hai con cá do một em bé dâng tặng ra nhiều, nhiều đến mức độ hơn 5000 người ăn mà vẫn còn dư.

Đứng trước việc lạ lùng ấy dân chúng cảm thấy hết sức phấn khởi. Họ muốn tôn Chúa lên là vua của họ. Thế nhưng Chúa đã không muốn điều đó. Chính vì thế mà Chúa đã trốn họ, bỏ họ mà đi. Chúa đi cùng với các môn đệ của Ngài bằng thuyền mà qua bờ biển bên kia trước. Dân chúng thấy vậy. Họ cũng chẳng chịu thua. Họ lại lên thuyền và đi tìm kiếm Chúa. Họ không muốn Chúa bỏ họ. Thật vậy, họ mong được Ngài cho ăn tiếp. Chúa Giêsu không bằng lòng với thái độ đó nên khi gặp lại họ Ngài nói thẳng:“Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê”Khi nói điều đó, Chúa Giêsu không muốn nói là việc cần có bánh để ăn là xấu nhưng Chúa muốn cho người mọi người hiểu rằng: Đừng tìm Chúa với thái độ tầm thường như thế nhưng hãy đến với Chúa bằng một thái độ cao cả hơn. Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Ðấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận”.(Ga 6,27).

2. Quả đúng như thế chúng con. Lương thực của trần gian thì mau hư nát lắm.

Tại sao Chúa nói như vậy?

Bởi vì lương thực của trần gian dù quí giá đến đâu đi nữa cũng không thể bảo đảm mãi mãi cho sự sống của con người được.

Ai trong chúng con có điện thoại, giơ tay cha coi!

Chúng con có bao giờ nghe thấy cái tên Steve Jobs không?

Steve Jobs là một trong những người sáng chế ra điện thoại mang nhãn hiệu Apple nổi tiếng trên thế giới. Ông là người có trong tay hơn 7 tỷ USD cổ phiếu. Khi gần chết Jobs đã để lại cho những người đang sống lời nhắn nhủ này: Cái giường nào đắt giá nhất trên đời? Đó là giường bệnh viện, vì nếu có tiền, bạn có thể mướn tài xế lái xe cho bạn, nhưng không thể dùng tiền để thuê người mang bệnh thay cho bạn. Mất tài sản mình có thể tìm lại được, nhưng có một cái khi đã mất thì không thể tìm lại được: sự sống. Dù đang ở giai đoạn nào trong cuộc đời, cuối cùng, tất cả phải đối diện khi bức màn sự sống kéo xuống”.

Một vị hoàng đế thời trung cổ có đầy đủ giàu sang danh vọng, trong giây phút nằm liệt trên giường và biết mình sắp chết đã thều thào nói lên ước nguyện của mình như sau: “Nếu bảo tôi đem đổi tất cả tiền của danh vọng đang có, để đổi lấy thêm vài giờ sống trên trần gian này tôi cũng sẽ đổi.” Hơn ai hết, chính lúc phải kết thúc cuộc sống trên trần gian này, vị hoàng đế giàu sang kia mới hiểu rằng: Sự sống là điều quí giá nhất không gì có thể đánh đổi được.

Chúng con hay nghe câu chuyện này nữa: Câu chuyện người ta kể về Hoàng đế Charles Quint của Đế quốc Đức ngày xưa. Đây là một giai thoại như sau rất đẹp về hoàng đế:

Sau nhiều năm tận tụy hy sinh phục vụ Hoàng đế, một vị trung thần của ông ngã bệnh và đang chiến đấu với tử thần. Để tỏ lòng biết ơn và cảm mến đối với con người đã suốt đời trung thành với mình, Hoàng đế Charles Quint đã đích thân đến ngay bên giường bệnh của ông. Cầm tay vị trung thần, Hoàng đế nói:

– Khanh đã hết dạ phục vụ trẫm, nay trẫm xin được dịp đền đáp, khanh hãy cho trẫm biết khanh mong ước điều gì, trẫm sẽ thỏa mãn yêu cầu của khanh.

Trong hơi thở đứt đoạn, vị trung thần liền tâu:

– Thần ước ao nhận được từ tay bệ hạ một ân huệ.

Đôi mắt Hoàng đế như sáng lên, ông hỏi nhanh:

– Khanh cứ nói, ân huệ gì trẫm cũng ban cho khanh.

Kẻ hấp hối nói một cách chua xót:

– Xin bệ hạ hãy ban cho hạ thần một ngày sống nữa, chỉ một ngày thôi.

Nghe xong lời của vị trung thần, Hoàng đế Charles chỉ biết lắc đầu chán nản:

– Trẫm đã được xem là quân vương quyền thế nhất trên thế gian này, nhưng điều khanh xin hoàn toàn ở ngoài tầm tay của trẫm, chỉ Thiên Chúa mới có thể ban và bảo đảm hồng an sự sống mà thôi.

Trong tiếng thở dài, vị trung thần mới thốt lên như một lời nhắn nhủ cho chính hoàng đế:

– Thật là vô ích cho tôi, vì tôi đã điên dồ đến độ không biết dành nhiều thời gian hơn để phục vụ Chúa, mà lại hoang phí thời giờ trong việc phục vụ các vua chúa trần gian”.

Đó chúng con thấy: Ngay sự sống trần gian mà con người còn phải lệ thuộc vào Thiên Chúa thì huống chi là sự sống trường sinh mà Chúa hứa cho những ai biết tìm kiếm Chúa.

Chính vì thế mà Chúa bảo: Các ông hãy ra công làm việc để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông” (Ga 6,27)

Thứ lương thực này là lương thực nào thì trong các bài Tin Mừng của 3 Chúa Nhật tiếp theo Chúa sẽ nói cho mọi người.

Ngày hôm nay chúng ta hãy đáp lại lời Chúa kêu gọi. Khi người Do thái hỏi Chúa “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn? thì Chúa đã trả lời: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Ðấng Người đã sai đến”.(Ga 6,28-29)

Hãy tin vào Chúa Giêsu. Tin vào Chúa Giêsu chúng ta sẽ thấy những điều kỳ diệu Chúa làm cho chúng ta.

Lịch sử còn ghi: Mézeray là một sử gia danh tiếng tại làng Ri nước Pháp vào năm 1610-1689. Cả đời ông không tin có thần thánh, hơn nữa ông còn cho đạo công giáo là mê tín dị đoan. Năm 1683 lúc ốm nặng nằm trên giường bệnh, thấy mình sắp chết, ông đã nhờ người nhà mời linh mục đến dạy đạo và rửa tội cho ông. Hay tin này, các bạn thân đến khuyên bảo và can ngăn. Nhưng sử gia Mézeray đã bảo họ rằng:

– Này các bạn, như các bạn đã biết cả đời tôi không tin tưởng thần thánh. Nhưng những năm nằm trên giường bệnh chờ thần chết, tôi thấy nảy ra trong đầu óc thắc mắc này: Tại sao tôi phải chết giữa lúc tôi còn đang muốn sống? Ai bắt tôi phải chết giữa lúc tôi còn chưa muốn chết? Các bác sĩ thời danh nhất cũng không thể chữa tôi khỏi chết được? Chính các bác sĩ đã chữa cho nhiều bệnh nhân được khỏi, nhưng tới phút cuối cùng các ông cũng không thể chữa mình cho khỏi chết được. Thắc mắc này, khoa học không thể giải đáp cho tôi được, nên tôi phải tìm đạo công giáo để tin Thiên Chúa. Vậy các bạn hãy tin tôi: Mézeray lúc sắp chết đáng tin hơn Mézeray lúc khỏe mạnh.

Hãy tin Chúa! Đó là điều Chúa muốn. Phải tin thật mạnh mới thấy được những việc kỳ diệu Chúa làm cho chúng ta.  Amen.

Thiếu nhi chúng con yêu quí,

Tuần trước cha đã nói với chúng con về một Chúa Giêsu thật dễ thương. Chúa dễ thương bởi vì Chúa biết quan tâm đến mọi người. Những người được Chúa quan tâm trong bài Tin Mừng tuần trước là các môn đệ và đám đông dân chúng.

Thế cha hỏi chúng con, khi đọc đoạn Tin Mừng này chúng con có thấy điều gì đáng cho chúng ta quan tâm học hỏi  không?

………………

Theo cha thì cha thấy có hai đều rất đẹp đáng cho chúng ta học hỏi.

1. Điều thứ nhất đó là tấm lòng của Chúa Giêsu.

Chúng con thấy tấm lòng của Chúa là tấm lòng như thế nào?

– Thưa cha tấm lòng của Chúa là tấm lòng rất tốt.

– Chúng con trả lời rất hay. Đám đông theo Chúa đã mấy ngày ở nơi hoang vắng. Chúa thấy họ cần phải được ăn. Chúa hỏi ông Phi-líp-phê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”(Ga 3,5)

Tin Mừng ghi Chúa hỏi ông Philipphê như vậy để thử ông thôi chứ Người biết mình sắp làm gì rồi (Ga 6,6)

Và Chúa đã làm gì thì chúng con đã thấy. Một phép lá quá lớn, lớn không ai dám ngờ tới. Dân chúng được ăn no nê thoải mái má vẫn còn dư thừa.

Chúng ta hãy tập cho mình biết đối xử tốt với mọi người như Chúa,

Cha kể cho chúng con nghe câu chuyện này: “Một hôm hoàng đế Napoléon của Pháp vào một nhà hàng nọ. Đi theo ông, chỉ có một sĩ quan tùy viên. Vì không muốn cho ai nhận ra mình là hoàng đế nên ông và viên sĩ quan tùy viên đã ăn mặc như một người thường dân.

Sau khi hai người ăn uống xong, chủ quán đến tính tiền. Tổng cộng là 14 quan. Viên sĩ quan tùy viên lấy tiền trả. Nhưng bỗng mặt ông tái mét đi vì ông quên đem tiền theo.

Thấy thế hoàng đế Napoléon hiểu ngay, ông nói nhỏ:

– Không sao, đừng lo để tôi trả cho.

Hoàng đế lục xét hết túi trên rồi túi dưới nhưng cũng không có đồng nào. Làm sao bây giờ đây?

Viên sĩ quan tùy viên nói với bà chủ nhà hàng:

– Thật là xui cho chúng tôi. Hôm nay chúng tôi đi mà quên đem theo tiền. Xin bà vui lòng cho chúng tôi khất một giờ đồng hồ nữa, tôi sẽ trở lại để thanh toán số tiền này cho bà.

Bà chủ nhà hàng nhất định không chịu và còn dọa là nếu hai người không trả tiền ngay thì bà sẽ cho gọi cảnh sát.

Anh bồi bàn theo dõi câu truyện từ đầu, cảm thương cho hai người khách lạ nên nói với bà chủ:

– Quên đem theo tiền trong túi là một điều có thể xảy ra cho bất cứ ai. Điều đó quá thường mà bà! Xin bà đừng gọi cảnh sát làm gì. Tôi xin trả 14 quan thay cho hai ông khách này. Xem ra hai ông đây là người thật thà chứ không muốn lường gạt gì đâu.

Thế là nhờ anh giúp bàn trong nhà hàng có lòng tốt mà hoàng đế Napoléon và viên sĩ quan tùy tùng mới có thể rời quán bình an.

Rồi chỉ một lát sau, viên sĩ quan tùy viên trở lại nhà hàng. Ông hỏi bà chủ nhà hàng:

– Bà đã tốn bao nhiêu tiền để mở nhà hàng này?

Bà chủ trả lời:

– 30.000 quan.

Viên sĩ quan lấy từ ở trong túi ra số tiền 30.000 quan và đặt trên bàn rồi nói:

– Vâng lệnh của chủ tôi là hoàng đế Napoléon, tôi xin bà sang lại quán này cho người giúp việc của bà, người đã giúp chúng tôi trong lúc chúng tôi kẹt không đem theo tiền.

Đó chúng con thấy, những người có lòng tốt thì đáng được thưởng công như vậy.

Đời của cha, cha có nhiều ân nhân, nhưng có một ân nhân đã dạy cha một bài học, một bài học mà cha nhớ hằng ngày.

Cha đố chúng con biết đó là bài học gì đó?

Đó là một câu nói mà cha coi như châm ngôn của cuộc đời. Câu đó như thế này: “Sống có đức, mặc sức mà ăn”. Chúng con đã nghe ai nói với chúng con câu đó chưa.  Hôm nay chúng con hãy nhớ đi Sống có đức, mặc sức mà ăn”.

2. Điều thứ hai đó là tấm lòng tốt của em bé bán bánh.

Em bé bán bánh chỉ có “năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá” (Ga 6,7). Gia tài của em chỉ vỏn vẹn có thế. Chắc là cha mẹ em nghèo cho nên bắt em đi làm cái nghề bán bánh dạo này. Giữa một biển người đang đói cần phải ăn, nếu em có “hét” giá thật cao thì có lẽ cũng chẳng thiếu gì người muốn mua. Thế nhưng em đã quảng đại dâng cho Chúa. Thật là một việc làm thật quí giá. Giả như hôm đó không có năm cái bánh và hai con cá của em bé thì cha tin Chúa vẫn làm phép lạ. Lý do vì Chúa thương. Tình thương đã làm cho Chúa thổn thức trong lòng đến nỗi Người không thể cam tâm nhìn đoàn người đang đói cần phải ăn nhưng không có bánh. Thế nhưng ở đây Chúa vẫn đón nhận 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé như một đóng góp tuy nhỏ bé, nhưng rất đẹp lòng Chúa.

Sự đóng góp của con người vào công việc của Chúa thật đẹp biết bao.

Đọc trong toàn bộ Kinh Thánh chúng ta thấy Chúa rất thích điều đó. Thử hỏi còn gì quan trọng và vĩ đại bằng công trình cứu chuộc cả loài người, thế mà Thiên Chúa đã không tự mình làm, mà Chúa đã đón nhận lời Xin Vâng của một có thiếu nữ nghèo khó. Chúng con có biết người đó là ai không?

– Thưa Đức Mẹ Maria.

Một Hoàng đế nọ cỡi ngựa vào rừng săn bắn. Khi đi ngang qua ngọn đồi gần bìa rừng, ông trông thấy một cụ già râu tóc bạc phơ đang cặm cụi đào lỗ trồng cây, Hoàng đế liền thắng ngựa và lớn tiếng bảo cụ già:

– Chắc hẳn là ngươi không mong đợi được ăn trái của cây ngươi đang trồng hôm nay chứ!

Cụ già thản nhiên đáp:

– Hạ thần không bao giờ thất vọng về điều đó; bao lâu hạ thần còn được Thượng Đế ban cho sinh lực, bấy lâu vẫn tiếp tục hy vọng và chu toàn bổn phận của hạ thần.

Hoàng đế tò mò hỏi thêm:

-Thế ngươi năm nay bao nhiêu tuổi?

Cụ già đáp:

-Thưa Hoàng Thượng, năm nay hạ thần vừa tròn một trăm tuổi, biết đâu Thiên Chúa còn cho hạ thần sống thêm một ít năm nữa để hưởng dùng trái cây này. Dù sao, mỗi khi trồng cây, hạ thần không làm gì hơn là tiếp tục công trình sáng tạo của Thiên Chúa, Đấng đã truyền cho trái đất trổ sinh hoa trái phong phú.

Thán phục lòng tin của cụ già chất phác đơn thành, Hoàng đế nói tiếp:

– Nếu ngươi còn thọ tới ngày cây vả này trổ hoa kết trái, ngươi hãy cho ta biết.

Ít lâu năm sau, những cây vả đã bắt đầu nở hoa, rồi kết trái đầy cành. Đợi tới ngày trái vả chín ngọt, cụ già hái đầy một giỏ, rồi lên đường tới đền vua. Tới cổng, lính canh từ chối không cho cụ già nghèo nàn vào chầu vua, nhưng cụ già cứ nài nỉ phân trần đầu đuôi câu chuyện, và rồi vì kính nể tuổi già tóc bạc, sau cùng mấy anh lính tháp tùng cụ già vào triều yết vua. Cụ già khiêm tốn cúi mình trước ngai vua và nói:

– Tâu Hoàng Thượng, hạ thần là ông già khom lưng trồng cây bên bìa rừng mà Hoàng Thượng đã gặp mấy năm trước đây. Hôm nay hạ thần xin kính dâng Hoàng Thượng những trái chín ngọt đầu mùa của cây vả mà hạ thần đã trồng hồi năm ấy.

Nhà vua vui mừng nhận ra cụ già và rất hài lòng với món quà cụ kính dâng, nhất là với lòng trung tín và sự cần cù của cụ. Ngài vui vẻ đổi lại cho cụ già một giỏ đầy những đồng tiền vàng và nói:

– Hỡi người trung tín và đáng kính phục, hãy trở về nhà bình an và tiếp tục cộng tác với Thiên Chúa Toàn năng trong cuộc sáng tạo của Ngài.

Chúng con hãy chịu khó học hành cho thật giỏi để mai sau lớn lên chúng con có thể cộng tác với Thiên Chúa làm cho trái đất nơi chúng ta đang sống mỗi ngày được tốt đẹp hơn! Amen.

Thiếu nhi chúng con yêu quí,

Chúng ta vừa được nghe một đoạn Tin Mừng mà cha cho là rất hay. Qua bài Tin Mừng hôm nay cha thấy sao mà Chúa Giêsu của chúng ta dễ thương quá!

Cha đố chúng con Chúa dễ thương ở chỗ nào đó?

………..

Cha thấy Chúa dễ thương ở chỗ Chúa luôn biết quan tâm đến mọi người.

Nhiều nhà đạo đức bảo người biết quan tâm là người trái tim họ có mắt.

Cha kể cho chúng con câu chuyện này.

Một ông chủ cửa hàng bán thú nuôi kia đem một tấm biển ghi hàng chữ “Bán chó con” ra treo ngay cửa ra vào. Một lúc sau, có một cậu bé mon men đến, đọc tấm bảng rồi lễ phép hỏi ông chủ:

– Thưa bác, bác định bán những chú chó con với giá bao nhiêu ạ?

Ông chủ ân cần trả lời:

– Cũng còn tùy từng con nữa, khoảng từ 30 đến 50 đô-la, cháu ạ!

Cậu bé thò tay vào túi rồi móc ra một ít tiền lẻ:

– Bác ơi, cháu chỉ có 2 đô-la 37 xu. Bác có thể cho cháu ngắm chúng một tý không ạ?

Ông chủ mỉm cười độ lượng, huýt sáo ra hiệu, thế là từ trong nhà lơn tơn chạy ra năm chú chó con, có một con khập khiễng lẹt đẹt theo sau. Ngay lập tức cậu bé chỉ vào chú chó ấy:

– Con chó con này bị làm sao thế hả bác?

Ông chủ trả lời ra vẻ tiếc rẻ:

– À, bác sĩ thú y bảo rằng xương chậu của nó bị dị tật nên phải què quặt suốt đời thôi!

Cậu bé tỏ ra mừng rỡ:

– Ồ, nếu vậy thì đây chính là con chó cháu muốn mua…

Ông chủ tốt bụng tròn xoe mắt nhìn cậu bé ngạc nhiên:

– Con chó bác không có ý bán, vì có bán cũng chẳng ai mua. Nhưng nếu cháu thật sự thích nó thì bác tặng luôn cho cháu đấy!

Cậu bé hơi bối rối, nhìn thẳng vào mắt ông chủ cửa hàng:

– Thưa bác, cháu không hề muốn bác cho không cháu con chó nhỏ này đâu. Nó cũng đáng giá y như những con chó khác. Cháu sẽ trả đủ tiền cho ông. Đây là 2 đô-la 37 xu, và cháu sẽ đưa thêm cho bác 50 xu mỗi tháng cho đến khi đủ số tiền cháu thiếu bác hôm nay…

Ông chủ vẫn tỏ ra ái ngại can ngăn:

– Cháu không nên mua con chó này chút nào… Nó đâu có thể chạy nhảy vui đùa với cháu như những chú chó lành lặn khác!

Cậu bé lặng lẽ đưa tay xuống kéo ống quần lên để lộ chiếc chân trái bị teo cơ đang được nâng giữ bằng một cái khung bằng nhôm. Cậu ngước mắt nhìn ông chủ cửa hàng và nhỏ nhẹ nói:

– Bác ơi, cháu cũng đâu có thể chạy nhảy vui đùa, và… cháu nghĩ… chú chó bé con này cũng cần được một ai đó cảm thông cho nó, bác ạ!

Đúng là trái tim của em bé này có mắt. Em biết quan tâm đến cả chú chó tật nguyền.

Thế cha hỏi chúng con, chúng con có thấy Chúa Giêsu quan tâm đến ai không? Có chứ.

  1. Trước hết là quan tâm đến các môn đệ.

Sự quan tâm nói lên tấm lòng yêu thương của Chúa đối với các môn đệ. Sau chuyến đi thực tập truyền giáo, các môn đệ đã thấm mệt. Họ cần phải được nghỉ ngơi.

Chúng con có thấy người ta làm việc triền miên mà không nghỉ ngơi không?

Sự nghỉ ngơi sau những ngày làm việc vất vả mệt nhọc là điều Chúa quan tâm. Các môn đệ dường như không để ý tới. Thế nhưng Chúa thì khác. Sau khi các môn đệ đi truyền giáo về Chúa bảo: “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.” Nghỉ ngơi để lấy sức. Nghỉ ngơi để bồi dưỡng hầu sau đó có thể làm việc tốt hơn.

Chúng con cũng hãy bắt chước Chúa quan tâm đến nhau để làm cho cuộc sống chúng ta đang sống có được nhiều niềm vui và cuộc sống đáng sống hơn. Đây là câu chuyện có thật đã xảy ra ở một trường đào tạo nghiệp vụ y tá.

Vào tháng thứ hai của một khóa học tại trường, giảng viên cho chúng tôi làm một bài kiểm tra về kiến thức phổ thông.

Tôi vốn là một sinh viên chăm chỉ nên dễ dàng trả lời mọi câu hỏi trong bài kiểm tra, trừ câu hỏi cuối: “Chị tạp vụ ở trường tên là gì?”Tôi nghĩ đó chỉ là một câu hỏi cho vui. Tôi đã trông thấy chị ta vài lần. Chị có dáng người cao, mái tóc nâu sâm và khoảng 50 tuổi, nhưng làm thế nào mà tôi có thể biết tên chị được kia chứ? Tôi đã nộp bài và bỏ trống không trả lời câu hỏi đó.

Trước khi tan học, một sinh viên đứng lên hỏi giảng viên về cách tính điểm câu hỏi cuối trong bài kiểm tra vừa làm. Giáo sư bộ môn trả lời:

– Tất nhiên là có tính điểm. Trong mọi ngành nghề, các anh chị luôn phải gặp gỡ và tiếp xúc với nhiều người. Tất cả những con người đó đều có ý nghĩaHọ đáng được các anh chị quan tâm chú ý đến, cho dù tất cả những gì ta có thể làm cho họ chỉ là một lời chào hỏi và một nụ cười.

Tôi đã không quên bài nọc đó trong suốt cuộc đời mình. Tôi cũng đã biết được tên của chị tạp vụ trong trường. Chị ta tên là Dorothy.

  2. Tiếp đến Chúa quan tâm đến nhu cầu của quần chúng.

Chúng con thấy Chúa và các môn đệ đã không tìm được sự nghỉ ngơi như mình mong muốn. Đám đông thấy Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài ra đi. Họ không muốn xa Chúa. Họ cũng đi theo và họ tới nơi trước cả khi Chúa và các môn đệ tới.

Lúc Chúa Giêsu và các môn đệ bước ra khỏi thuyền, thì đã thấy đoàn dân mà Chúa cũng như các môn đệ muốn lánh mặt, để tìm thời giờ nghỉ ngơi, đã chờ sẵn đó rồi. Họ đang nóng lòng chờ đợi những điều Chúa dạy dỗ họ.

Thật là rất dễ bực bội với đám đông.Họ đã gây phiền toái cho Chúa. Họ đâu có quyền xâm phạm vào đời sống riêng tư của Chúa bằng những đòi hỏi liên tục như vậy? Chúa không có quyền được nghỉ ngơi yên tịnh và có thời giờ dành riêng cho mình sao? Vậy mà như Tin Mừng ghi lại, Chúa không màng tới điều đó. Chẳng những Chúa không cảm thấy họ gây phiền hà mà ngược lại còn động lòng trắc ẩn xót thương họ.

Ông Premanand là một Kitô hữu có thế giá, thuộc giới thượng lưu Ấn Độ, đã viết lại trong tập tự thuật của ông những lời như thế này: “Từ xưa và cho đến mãi bây giờ, có một sứ điệp chúng ta phải cho rao giảng cho thế giới chưa tin Chúa, đó là: Thiên Chúa quan tâm đến mọi người.”

Vâng! Thiên Chúa quan tâm đến mọi người.

Đó là điều con người cần đón nhận và bắt chước nếu con người muốn có hạnh phúc.

Kenneth là một học sinh lớp 6. Cậu rất vui và hồi hộp khi được chọn tham dự ngày hội thao của trường. Cậu bé đã vượt qua các bạn và về nhất trong lần thi chạy đầu tiên. Phần thưởng là dải ruy băng choàng chéo vai và sự hoan hô của khán giả khiến cậu rất hãnh diện – với bố mẹ và với các bạn cùng lớp.

Cậu bé tiếp tục thi lần chạy thứ hai. Ngay khi gần đến đích, chỉ cần thêm vài bước nữa thì Kenneth sẽ lại là người chiến thắng, nhưng cậu bé bỗng chạy chậm lại và bước ra khỏi đường đua. Bố mẹ cậu vô cùng thắc mắc:

– Tại sao con lại làm như vậy, Kenneth? Nếu con tiếp tục chạy, chắc chắn con sẽ giành chiến thắng nữa đấy.

Kenneth ngước đôi mắt trong veo nhìn bố mẹ và trả lời:

– Nhưng, mẹ ơi, con đã có phần thưởng rồi, còn bạn Billy của con thì chưa có.(First news)

Câu chuyện đẹp quá! Ai mà chẳng muốn những điều tốt lành cho mình. Nhưng nếu biết quan tâm làm cho những người khác cũng được như thế thì thật là đáng khâm phục. Amen.