Anh chị em thân mến

Hôm nay chúng ta cùng với Giáo hội mừng lễ Chúa Giêsu lên trời. Nói một cách văn vẻ hơn một chút thì chúng ta gọi là Chúa Giêsu thăng thiên. Việc lên trời hay Thăng Thiên của Chúa phải được hiểu như thế nào?

1. Chc chn chúng ta không được hiu theo nghĩa hoàn toàn vt cht.

Tôi nhớ đến một câu chuyện xảy ra cách đây cũng đã khá lâu: ngày 5-9-1961. Sau khi Nga sô đã đưa được người đầu tiên lên không gian, trong một cuộc phỏng vấn, Tổng Bí thư Krouchev của Nga đã nói với ký giả của tờ New York Time lúc đó rằng: “ Để điều tra trên trời có Thiên Đàng thật như người ta nói hay không, chúng tôi đã gửi một thám tử lên không trung: Youri Gararine. Anh đã đi vòng quanh quả địa cầu mà chỉ trông thấy những bóng đen dày đặc, không có chi giống như Thiên Đàng cả. Sau đó chúng tôi đã suy nghĩ và chúng tôi lại gửi một thám tử khác lên: German Titov. Chúng tôi đã bảo anh rằng: “Hãy bay lâu hơn một chút nữa. Có lẽ Gagarine chưa thấy Thiên Đàng vì chàng chỉ mới bay có một tiếng rưỡi thôi. Vậy chuyến này anh hãy nhìn cho kỹ”

Titov đã trẩy đi, rồi trở về và anh xác nhận lời tuyên bố của Gagarine: “Hư vô! Chỉ có Hư vô!”

Rồi Krouchev kết luận: “Cho nên người cộng sản chúng tôi không tin có đời sau”.

 

Đó là cái nhìn của một người cộng sản, một cái nhìn hoàn toàn duy vật. Đúng hay không thì chúng ta không cần phải xét những chắc chắn đó không phải là cái nhìn của chúng ta.

2. Với biến cố lên trời hôm nay chúng ta thấy cuộc đời trần thế của Chúa được khép lại và một sứ mệnh mới được mở ra, mở ra cho các tông đồ thuở xưa và mở ra cho chúng ta hôm nay. Chính sự đan kết ý nghĩa này, mời gọi chúng ta suy niệm mầu nhiệm Thăng Thiên của Chúa một cách nghiêm chỉnh hơn và đồng thời chúng ta cũng phải lưu tâm đến trách nhiệm thừa sai của chúng ta.

Thăng thiên là mu nhim Chúa Giêsu được tôn vinh cách công khai.

– Thực ra thì Chúa Giêsu đã được tôn vinh ngay từ khi Phục sinh những tầm nhìn của các môn đệ chưa vươn tới.

– Phải cần một thời gian với sự hiện ra của Chúa các môn đệ mới được sáng mắt ra và sau đó bằng màu nhiệm Thăng thiên, các tông đồ mới thực sự thấy Chúa Giêsu được Thiên Chúa Cha tôn vinh như thế nào.

Như vậy việc thăng thiên chỉ là sự chia tay vắng mặt bằng con người các môn đệ có thể nhìn bằng mắt, bắt bằng tay chứ không phải là hoàn toàn vắng mặt bởi vì ngay trước khi về trời Chúa Giêsu đã khẳng định một cách hết sức rõ rệt với các tông đồ: “Thy s vi anh em mi ngày cho đến tn thế”(Mt 28,20).

Chúa ở như thế nào?

Chắc không phải là như trước đó. Suốt ba năm trời Chúa đã hiện diện giữa các môn đệ của Ngài. Hiện diện gần gũi, xương thịt, đến nỗi tông đồ Gioan đã phải nói lên: “Chúng tôi đã sờ thấy Ngôi Lời hằng sống”. Phêrô cũng phải xác nhận trước cộng đoàn những người Do thái: “Chúng tôi đã được cùng ăn cùng uống với Người”. Sự hiện diện như thế quả là rất cụ thể. Lịch sử cũng đã xác nhận. Đây không còn phải là một vấn đề phải tranh cãi.

Những với sự việc lên trời hôm nay, chúng ta thấy rõ, sự hiện diện cụ thể như thế không còn hay nói đúng hơn: không cn na.

Rõ ràng với việc được tôn vinh trong biến cố lên trời Chúa đã đổi cách thức hiện diện của Chúa: Đổi từ hữu hình sang vô hình. Đổi từ cuộc sống xác thịt sang cuộc sống thần linh, đổi để Người có thể hiện diện rộng lớn hơn, phổ quát hơn. Cha Teilhard de Chardin gọi sự hiện diện này là sự hin din tràn lan, tràn lan khắp địa cầu.

Lúc đầu các môn đệ chưa có thể chấp nhận được điều đó. Chính vì thế mà Chúa đã phải để một thời gian tương đối dài: 40 ngày sau Phục Sinh để tập cho các môn đệ làm quen với sự hiện diện đó bằng những lần hiện ra với các ông, cá nhân cũng như với tập thể, để rồi sau đó các ngài dám sống cuộc sống chứng nhân một cách triệt để hơn, mạnh dạn hơn, bất chấp những thách đố, bắt bớ và kể cả sự chết vì có Chúa luôn ở với các ngài.

Vâng! Nhờ có Chúa ở cùng mà cuộc sống của các tông đồ sau đó đã hoàn toàn đổi mới.

Cộng thêm với sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các ngài đã trở thành những chứng nhân không biết mệt mỏi trên con đường rao giảng và làm chứng. Kết quả các ngài để lại đã làm cho Voltaire một trong những nhà văn hào lớn của nhân loại đã phải ghen tức mà nói lên: “Ông Giêsu với 13 môn đệ của mình đã thay đổi cả bộ mặt của thế giới”.

3. Bây gi đến lượt chúng ta.

Như anh chị em biết, đền thờ Thánh Phêrô ở Roma là một trong 8 kỳ công lớn của Thế giới. Dịp năm thánh trước đây tin tức cho biết đã có 3.000.000 người hành hương về đây. Trong ngôi đền thờ này có một nhà nguyện nhỏ: Đó là nhà nguyện Sixtina rất nổi tiếng. Nguyện đường này đã được Đức giáo hoàng Sixto thứ 4 cho xây cất vào cuối thế kỷ thứ 15. Không những là nơi các vị hồng y tụ tập để bầu giáo hoàng hay còn là nơi để tổ chức những buổi họp quan trọng khác có tính cách thượng đỉnh, nguyện đường Sixtina còn là một bảo tàng viện với những tác phẩm nghệ thuật bất hủ, nhất là những bức bích họa của Michelangelo.

Bất cứ du khách nào đến Roma cũng tìm đủ mọi cách để được một lần chiêm ngắm các bức tranh được vẽ trên tường và trên trần nhà này. Người thưởng lãm không những chỉ ngắm nghía dưới khía cạnh lịch sử, nghệ thuật, văn hóa, nhưng còn để hồn hòa nhập vào niềm tin sâu sắc của nhà nghệ sĩ. Thật thế, tất cả những bức tranh mà Michelangelo đã thực hiện trong nhà nguyện Sixtina đều được cảm hứng từ Kinh thánh.

Nhà danh họa của chúng ta đã phải nằm ngửa trên một sàn gỗ hướng mặt về trần ròng rã không biết bao nhiêu năm trời. Truyền thuyết thuật lại rằng lúc đang xây dựng, một hôm Đức Thánh Cha Sixtô thứ IV vào tham quan công trình, thấy Michel Ange đang nằm ngửa lên để tô vẽ bức ảnh, Đức Thánh Cha có hỏi ông:

– Ông Michelangelo, chừng nào ông mới hoàn thành công việc đây?

Từ trên giàn gỗ, nhà danh họa đáp lại:

– Chừng nào còn có thể!

Vị giáo hoàng đường như mất hết kiên nhẫn:

– Thế ông có biết là ông đã bắt đầu mấy năm rồi chưa? Thế mà tôi vẫn chưa thấy gì hết…!

Một cách điềm tĩnh, Michelangelo trả lời:

– Thưa Đức thánh cha, con không làm việc cho đời tạm này, mà cho đời sau…

Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã yêu trái đất này,
và đã sống trọn phận người ở đó.
Chúa đã nếm biết
nỗi khổ đau và hạnh phúc,
sự bi đát và cao cả của phận người.

Xin dạy chúng con biết đường lên trời,
nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.

Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu,
chúng con thấy mình được thêm sức mạnh
để xây dựng trái đất này,
và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.

Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa,
xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời
không làm chúng con quên trời cao;
và những vẻ đẹp của trần gian
không ngăn bước chân chúng con tiến về bên Chúa.

Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con,
mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện.

Thiếu nhi chúng con yêu quý, Cha đố chúng con hôm nay là lễ gì ?

  • Lễ Thăng Thiên.
  • Thăng Thiên là làm sao ? Có phải là được đưa lên trời giống như người ta phóng hỏa tiễn lên không ?
  • Thưa cha không.
  • Vậy thì nghĩa là làm sao ? Cha xin mượn lời trong Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo để trả lời cho chúng con. Sách Giáo Lý bảo rằng: “Cuộc Thăng Thiên của Đức Kitô đánh dấu việc nhân tính của Chúa Giêsu vĩnh viễn tiến vào quyền năng thiên giới của Thiên Chúa, từ đó Người sẽ lại đến, nhưng trong khoảng thời gian đó, việc Thăng Thiên đã che giấu Người khỏi mắt người ta”. (GLHTCG 665).

Cha xin cắt nghĩa đơn sơ một chút cho dễ hiểu: Chúa Giêsu thăng thiên hay về trời là việc Chúa không còn có mặt ở trần gian này như một con người bằng xương bằng thịt như Chúa đã từng sống với loài người chúng ta suốt hơn ba mươi năm trời như trước đây nữa. Nay với việc thăng thiên Chúa bước vào cuộc sống mới, cuộc sống vinh quang của Thiên Chúa. Và như thế, tuy con người không thấy được một Chúa Giêsu sống động như trước đây như con người đã từng thấy, dầu vậy đức tin dạy chúng ta rằng dù không thấy được Chúa nhưng chúng ta vẫn tin Chúa luôn có mặt với chúng ta như lời Chúa đã hứa: “Thầy sẽ ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Cho đến tận thế có nghĩa là ngày Chúa lại đến trong vinh quang.

Bây giờ cha hỏi tiếp: Nếu việc Thăng Thiên là như thế thì qua sự việc này, Chúa muốn nhắn nhủ gì với mọi người chúng ta ?

Cha tưởng Chúa muốn nói với mọi người rằng:

1. Trước hết: Cuộc sống mai sau, cuộc sống đàng sau cuộc sống hôm nay của chúng ta là có thật.

Trong Tin Mừng có mấy trường hợp được Chúa cho sống lại từ cõi chết: Người con gái ông Giairô, người thanh niên con một bà góa thành Naim và nhất là Lazarô, người đã chết bốn ngày mà Chúa đã cho sống lại… Nhưng tất cả những người ấy chẳng có người nào để lại cho thế hệ mai sau một chút kinh nghiệm gì về cuộc sống họ đã đi vào sau cái chết của họ cả. Nhưng không phải như thế là cuộc sống đời sau không có như có nhiều người tưởng.

Thánh Gioan Maria Vianney một lần kia đã nói thật lớn với các bổn đạo của Ngài rằng: “Sự chết có thật chứ không phải Thiên Chúa bày đặt ra để hù dọa anh chị em đâu” – Vâng sự chết là có thật. Bao nhiêu cái chết của những người đã ra đi trước chúng ta nói cho chúng ta điều đó. Nhưng đàng sau cái chết là cái gì thì chẳng ai trong chúng ta có kinh nghiệm.

Chính thánh Augustinô vị thánh tiến sĩ của Hội Thánh, khi đứng trước cái chết, Ngài cũng cảm thấy bất lực.

Chỉ có Chúa Giêsu, bằng cái chết và sự phục sinh của Người, Người đã hé mở cho chúng ta thấy và hiểu một phần nào về cuộc sống đàng sau cái chết là gì để rồi đối với chúng ta là những người có niềm tin thì chúng ta ít ra cũng thấy được rằng cuộc sống không phải là con đường cụt mà nó đã có một lối ra.

2. Thứ đến việc Chúa lên trời đem đến cho chúng ta một niềm hy vọng và chính niềm hy vọng này đem lại cho những người tin vào cuộc sống mai sau một sự nâng đỡ lớn lao trên con đường xây dựng cho mình một cuộc sống cao cả và có ý nghĩa trong cõi đời này.

* Không thể sống mà không có hy vọng.

Một vở kịch đã được các sinh viên Y khoa diễn cách đây khá lâu, nhưng mỗi khi nhớ lại cha vẫn cảm thấy thấm thía. Vở kịch có tên là “Vì những bước đi”. Kịch diễn lại cảnh một cô nữ điều dưỡng giúp một chàng thanh niên vì một tai nạn nên chân anh đã bị liệt. Bây giờ phải tập luyện để trả lại những bước đi cho đôi bàn chân. Trong một lần tập cho người thanh niên tàn tật này, cô Kim Loan, tên của cô nữ điều dưỡng trong vở kịch đó đã khích lệ người thanh niên bằng những lời rất đẹp như thế này:

“Cố gắng một chút nữa anh ạ.

Mỗi bước đi hôm nay là cả một đường dài ngày mai.

Vịn vào vai em mà đi.

Em hát cho anh nghe nhé.

Anh thích nhất là bài ca hy vọng phải không?”

*Ai trong chúng ta cũng muốn sống một cuộc sống cao cả và thánh thiện. Nhưng từ ước muốn đến thực tế của cuộc sống là cả một con đường thật dài. Thực tế đã cho chúng ta thấy điều đó. Chúng ta không dễ dàng gì mà thành đạt được những ước muốn thánh thiện của chúng ta. Chính thánh Phaolô, một con người thật vĩ đại, cũng đã có lần phải thốt lên như thế này: “điều tôi muốn làm tôi lại không làm – Điều tôi không muốn làm thì tôi lại làm”.

Còn Chúa… Chúa đã hứa gì với chúng ta. Chúa không hứa cho chúng ta một cuộc sống dễ dãi đầy ắp những tiện nghi, không thiếu một thứ gì. Không! Chúa không hứa những điều như thế mà Chúa hứa cho chúng ta Nước Trời… Muốn vào nước đó phải qua con đường hẹp. Muốn chiếm được nước đó phải dùng tới sức mạnh: “Nước Trời phải dùng sức mạnh mà chiếm lấy” (Mt 11,13).

* Chính vì những khó khăn như thế mà chúng ta cần tới một sự nâng đỡ, cần tới một niềm hy vọng.

Thánh Antôn sống một cuộc sống thật khắc khổ trong rừng. Một ngày kia có mấy người đạo đức đến thăm ngài. Thấy ngài sống như thế mà vẫn tươi vui. Họ thắc mắc hỏi ngài về cái bí quyết làm sao mà ngài có thể sống tươi vui được như thế, thì Ngài dẫn họ đi vào sâu trong một cái hang, tới một chỗ có cái lỗ có thể nhìn lên trời được, ngài dừng lại và chỉ cho họ biết: “Đó là tất cả bí mật về cuộc sống mà ngài đang sống: Bầu trời… niềm hy vọng của ngày mai”.

3. Vấn đề còn lại: Trong khi chờ đợi niềm hy vọng vào cuộc sống vĩnh cửu trở thành sự thật chúng ta phải làm gì?

Hãy sống Thiên Đàng mai sau bằng chính Thiên Đàng hôm nay. Đó là cách chuẩn bị chắc ăn nhất. Nhưng chuẩn bị bằng cách nào? Bằng cách can đảm sống noi gương Chúa Giêsu nhất là đối với giới luật yêu thương. Trong Luca 17,20 Chúa Giêsu đã nói: “Thiên Đàng ở ngay trong lòng của các ngươi”.

Ngày nọ có một hiệp sĩ Samurai thô lỗ hung bạo tìm đến với một vị thiền sư. Chàng nói với thiền sư.

– Xin ngài chỉ dạy cho tôi biết Thiên Đàng và Hỏa Ngục là gì?

Vị thiền sư đưa mắt nhìn con người thô bạo từ bàn chân đến đỉnh đầu rồi thất vọng trả lời:

+ Dạy cho ngươi biết thế nào là Thiên Đàng, thế nào là Hỏa Ngục ư? Ta không thể dạy cho ngươi bất cứ điều gì cả. Ngươi là một con người hung bạo thô lỗ. Ngươi là nỗi nhục cho chàng hiệp sĩ Samurai. Hãy cút khỏi mặt ta, ta không thể chịu đựng được ngươi nữa.

Nghe những lời sỉ vả ấy, chàng hiệp sĩ liền rút gươm và định chém đầu vị thiền sư. Nhưng vị thiền sư đã giơ tay cản lại và nói:

+ Hỏa Ngục là thế đó!

Chợt nhận ra bài học thực tiễn của nhà tu hành, chàng hiệp sĩ dừng tay lại. Sự hối hận và thương cảm bỗng trào dâng trong tâm hồn, chàng hiệp sĩ mới hiểu ra rằng vị thiền sư muốn hy sinh cả mạng sống của mình để dạy cho chàng bài học về Hỏa Ngục. Từ từ hạ gươm xuống, cho vào vỏ, rồi chàng đến quỳ gối trước mặt vị thiền sư với tất cả thành tâm, sám hối. Đỡ chàng dậy, vị thiền sư nhìn sâu vào đôi mắt của chàng và nói nhỏ:

– Thiên Đàng là thế đó.

Thánh Phaolô bảo: Trên Thiên Đàng sẽ chỉ còn một điều duy nhất: Đó là Tình Yêu. Sống tình yêu thương tức là sống Thiên Đàng hôm nay để chuẩn bị cho Thiên Đàng vĩnh cửu mai sau vậy. Amen.

Tâm tình của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay là tâm tình của một người sắp ra đi.

A. Chỉ còn một ít nữa thế gian sẽ không còn thấy thầy.(Ga 14,19)

Thời gian sống ở trên trần thế của Chúa sắp chấm dứt.

Lời tuyên bố của Chúa quả thực làm cho các môn đệ của Ngài phải hoang mang.

Thế nhưng đây mới chỉ là một vế trong sự bộc lộ về tương lai của Chúa chứ chưa phải là tất cả.

Vế thứ hai quan trọng hơn, an ủi hơn “Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi. Thầy sẽ đến với các con. Các con sẽ thấy Thầy vì Thầy vẫn sống và các con cũng sẽ sống”(Ga 14,18)

Đây là những lời rất thật của Chúa và những lời này sẽ được cụ thể hóa sau khi Chúa từ cõi chết sống lại.

Chắc hẳn anh chị em hãy còn nhớ cách thức sinh hoạt của Chúa sau biến cố Phục Sinh như thế nào. Thánh Phaolô bảo là cuộc sống đó đã được biến đổi. Biến đổi để có thể, nói theo kiểu của cha Teihard de Chardin “tràn ngập, tràn lan, phủ đầy” khắp nơi một cách cụ thể còn hơn cả khi Chúa chưa về trời như chính lời Chúa đã xác nhận: “Thầy sẽ ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế”.

Bằng cách nào?

a/ Trước hết bằng Bí tích Thánh Thể.

Với Bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu hiện diện tràn lan khắp địa cầu, qua đó con người có thể nhận ra Chúa đang thật gần gũi với mình.

Đây là câu chuyện của nhạc sĩ Hermann Cohn,

Là người Do thái và thần đồng đàn dương cầm, Hermann Cohn trở nên một học trò cưng của nhạc sĩ Franz Liszt. Ông đã lập một nhóm văn nghệ sĩ, đi biểu diễn khắp nơi, sống bê tha trụy lạc, duy hưởng thụ.

Ngày kia, có người ca trưởng nhờ Cohn chơi đàn phong cầm vào tháng hoa Đức Mẹ. Khi chầu phép lành, Cohn cảm thấy mình bị một lực nào đó cúi đầu thờ lạy, sự bắt buộc không thể giải thích được, mặc dầu ông không hiểu gì và không tin điều mình làm. Ông đến nhà thờ nhiều lần, luôn cảm nghiệm một sự hiện diện mà ông không thể giải thích được, mặc dầu ông không hiểu gì và không tin điều mình làm. Ông hỏi thăm người bạn công giáo về phép Thánh Thể; người bạn biếu ông quyển sách kinh. Ông đọc đi đọc lại nhiều lần, nhất là những kinh nguyện Thánh Thể. Có lần ông đã suy nghĩ về phép Thánh Thể suốt đêm không ngủ. Ông dự Thánh lễ nhiều ngày và đã nói về kinh nghiệm của ông như sau: “Thời thơ ấu, tôi đã khóc nhiều lần, nhưng chưa bao giờ nước mắt tôi chảy nhiều như vầy. Bỗng chốc, tôi nhìn rõ mọi tội lỗi của tôi, cuộc đời xấu xa, ghê tởm, hèn hạ của tôi. Cuộc đời ấy đáng sa hỏa ngục. Nhưng tôi đã tìm thấy sự bình an lạ lùng. Chúa nhân từ đã tha tha thứ tội lỗi của tôi, đã chấp nhận lòng quyết tâm của tôi là yêu mến Ngài trên hết mọi sự”.

Sau đó, ông đã trở lại đạo và đi tu dòng Carmêlô, làm linh mục. Nhờ ông khuyên nhủ, Franz Liszt, nhà đại nhạc sĩ và 10 người bà con đã trở về với Giáo Hội.

b/ Qua hoạt động của Đấng phù trợ: Câu truyện Phêrô và Gioan chữa một anh què cho chúng ta thấy điều đó. Chúa Thánh Thần vẫn tiếp tục công việc mà Chúa Giêsu đã khởi sự.

c/ Và mỗi khi một cộng đoàn yêu thương được hình thành “Ở đâu có hai ba người họp nhau lại để cầu nguyện thì có Thầy ở giữa”

Một bà nọ thuật lại trong cuốn sách nhan đề “Où Dieu pleure” rằng: bà cùng với một số người Đức khác bị đưa đi lưu đày xa quê hương từ giữa lòng Thế chiến Thứ hai. Tất cả đều là người Công giáo và cùng lao động tại một nông trường. Nơi ấy không có nhà thờ cũng chẳng có Linh mục. Nhưng họ được phép tụ họp mỗi chiều Chúa nhật tại một nghĩa địa cũ để cầu nguyện với nhau. Khi biết cách đó một nghìn cây số có Linh mục, anh chị em Kitô hữu bèn quyết định hằng tháng góp tay nhau một ít tiền để mua vé xe cho một bà già đi về nơi ấy mang Mình Thánh Chúa đến cho họ. Thế rồi từ đó, mỗi chiều Chúa nhật, họ đều gặp nhau trong nghĩa địa với tâm hồn hân hoan vui sướng vì biết rằng có Chúa Thánh Thể, mà bà kia mang trong mình, đang ở cùng họ. Họ sốt sắng cầu nguyện, suy niệm Lời Chúa… Những ai yếu liệt đều được trao tặng của ăn đi đàng quý giá ấy trước khi qua đời.

Nhờ đó trong suốt mấy mươi năm trời, cộng đoàn Kitô hữu ấy vẫn sống với niềm tin kiên vững, đùm bọc yêu thương nhau trong tình bác ái huynh đệ.

Năm 1972, được trả tự do, bà già ấy đã thuật lại câu chuyện cảm động cho tác giả cuốn sách. Bà cũng cho biết mình chính là người đã điều khiển cộng đoàn cầu nguyện vào những chiều Chúa nhật tại nghĩa địa. Bà nói: “Tôi ra đi với tất cả niềm lưu luyến, nhớ thương, với biết bao kỷ niệm về cộng đoàn cầu nguyện và cộng đoàn huynh đệ Thánh Thể ấy”

B. Vấn đề còn lại là làm sao chúng ta có thể nhận ra được sự có mặt của Chúa trong cuộc đời của chúng ta?

Đây là cách thức chính Chúa đã chỉ cho chúng ta: “Ai đón nhận luật Thầy truyền và giữ các luật đó thì người ấy sẽ là kẻ mến Thầy và ai mến Thầy sẽ được Cha Thầy yêu mến và Thầy sẻ tỏ mình ra cho người ấy”.

Như vậy là bằng cách sống Lời của Chúa, chúng ta sẽ gặp được Chúa. Chúa sẽ tỏ mình ra cho chúng ta.

Như vậy là bằng cách sống Lời của Chúa, chúng ta sẽ gặp được Chúa. Chúa sẽ tỏ mình ra cho chúng ta.

Cách đây không lâu, một bác sĩ giải phẫu người Mỹ đã vâng theo tiếng gọi của Chúa Giêsu, yêu thương tha nhân bằng cách ban tặng chính bản thân mình cho họ. Ông đã trở nên một nhà truyền giáo phục vụ trong ngành y khoa. Từ bỏ quê hương, ông đi tới một hòn đảo xa xôi trên biển Thái Bình dương, nơi dân chúng sống nghèo khổ, bệnh tật vì thiếu thuốc. Sau một thời gian, để tạo sự bất ngờ cho bác sĩ, vị mục sư ở Mỹ đã đến thăm ông mà không báo trước. Khi mục sư đến, ông bác sĩ đang sửa soạn giải phẫu cặp mắt cho một em bé gái 8 tuổi. Vị mục sư đã quan sát cuộc giải phẫu xảy ra qua cái cửa sổ của một căn chòi nhỏ. Sau ba giờ đồng hồ, bác sĩ đi ra khỏi phòng mổ và nói:

– Đôi mắt của cô bé rất tốt. Em sẽ mau khỏi bệnh.

Rồi ông đi ra gặp mục sư của mình. Khi bàn về cuộc giải phẫu vừa mới xảy ra, mục sư hỏi:

– Ông sẽ được trả bao nhiêu tiền cho cuộc giải phẫu đó nếu ông giải phẫu ở Mỹ?

– Chừng 3000 dollars, tôi đoán như vậy, bác sĩ trả lời.

– Vậy ở đây người ta trả ông bao nhiêu?. Mục sư hỏi.

– Tôi không biết nữa, chỉ vài xu với nụ cười của Thiên Chúa. Ông bác sĩ nói. Rồi đặt tay lên vai mục sư, ông lay nhẹ và nói:

– Nhưng lạy Chúa, cuộc sống ở đây thật tuyệt vời!

Món quà tình yêu của Thiên Chúa ban nhưng không cho ta qua Đức Giêsu Kitô, mặc dù là vô giá, nhưng không phải là không có điều kiện. Giống như tất cả các loại tình yêu, Tình Yêu Thiên Chúa cũng có những đòi hỏi. Và một trong những đòi hỏi nặng nề nhất của Người, đó là chia sẻ tình yêu thương đó cho tha nhân. Khi chúng ta đáp lại lời mời gọi: “Hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu thương các con”, chúng ta sẽ có được cái cảm giác hoan lạc giống như vị bác sĩ: “Nhưng lạy Chúa, cuộc sống ở đây thật tuyệt vời!”.

Lạy Chúa Giêsu phục sinh,

Xin ban cho con sự sống của Chúa, sự sống làm đời con mãi mãi xanh tươi.

Xin ban cho con bình an của Chúa, bình an làm con vững tâm giữa sóng gió cuộc đời.

Xin ban cho con niềm vui của Chúa, niềm vui làm khuôn mặt con luôn tươi tắn.

Xin ban cho con hy vọng của Chúa, hy vọng làm con lại hăng hái lên đường.

Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa, Thánh Thần mỗi ngày làm mới lại đời con.

Thiếu nhi chúng con yêu quí,

Chúng ta vừa nghe một đoạn Tin Mừng trong đó có những lời Chúa Giêsu nói thật khó hiểu. Chúa nói làm sao?

– Chúa bảo với các môn đệ: “Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy.” (Ga14,19)

– Chúa có ý nói gì khi Chúa bảo như thế?

– Thưa Chúa muốn cho các môn đệ của Chúa biết ngày Chúa về với Chúa Cha sắp xảy ra rồi. Lúc đó thì chẳng ai có thế thấy Chúa nữa.

Nhưng Chúa lại nói tiếp:

– Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống.

Khó hiểu không chúng con? Người ta thì không được thấy, còn các môn đệ thì lại được thấy. Và Chúa giải thích lý do: Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống. Ngày đó anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em. Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy.(Ga 14,20-21)

Chúng con có hiểu Lời Chúa vừa giải thích không?

Khó quá phải không chúng con? Đúng là khó thật. Bây giờ đến lượt cha, cha giải thích là để chúng con hiểu.

Chúng con biết, sau khi Chúa về trời rồi thì không còn ai được thấy Chúa như người ta vẫn thấy nữa. Nhưng như Chúa nói Chúa vẫn ở với loài người: Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.(Mt 28,20)

Chúa vẫn ở với loài người nhưng làm sao để thấy được Chúa đây?

Thì đây là cách thức chính Chúa chỉ: “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy.”(Ga 14,20-21)

Vâng…bằng cách sống Lời của Chúa, Chúa sẽ tỏ mình ra cho chúng ta. Chính Chúa sẽ tỏ mình ra cho chúng ta được thấy.

Cha kể cho chúng con câu chuyện này. Câu chuyện do nhà văn hào Lev Tolstoy, tác giả của bộ sách nổi tiếng “Chiến tranh và hòa bình” kể, một câu chuyện rất cảm động về một ông già nhà quê mà ông quen biết. Tên ông ấy là Martin Avdiéitch. Bác Martin làm nghề đóng giày trong làng. Cả làng ai cũng quí mến Bác. Bác sống một cuộc đời rất hạnh phúc bên vợ con. Nhưng thật là không may cho Bác. Ngoại trừ đứa con trai nhỏ, còn tất cả vợ con bác đã bị chết trong một tai nạn bất ngờ. Chúng ta có thể thấy được nỗi đau khổ của bác to lớn như thế nào. Tuy đau xót nhưng cũng may là còn một đứa sống sót an ủi bác. Thế nhưng như người đời thường nói: “Họa vô đơn chí”. Đứa con trai duy nhất của bác sau đó lâm bệnh và cuối cùng đã vội bước vào thế giới bên kia.

Bác Martin thất vọng…tuyệt vọng về cuộc sống. Bác trách Thiên Chúa. Bác muốn kết thúc cuộc đời của mình cho rồi. Những nỗi bất hạnh đổ xuống trên đầu của bác sao mà kinh khủng quá. Bác không muốn sống nữa.

Nhưng rất may là vào ngày lễ Chúa Thánh Thần năm đó, một người bạn thân trên đường đi hành hương ghé qua thăm bác. Bác đem câu chuyện đau buồn của gia đình ra kể. Sau khi nghe xong người bạn đã nói với bác:

– Chúng ta không có quyền xét đoán Thiên Chúa về những gì Ngài làm. Việc đó vượt quá trí khôn của con người chúng ta. Ngài đã định cho vợ con anh chết. Còn anh thì anh phải sống và như thế thì tốt hơn. Sở dĩ anh thất vọng và muốn chết như thế là bởi vì anh chỉ muốn sống cho bản thân của anh, cho hạnh phúc riêng tư của anh thôi!

– Vậy thì tại sao người ta phải sống?

+ Chính cho Thiên Chúa mà người ta phải sống. Khi anh bắt đầu sống cho Ngài, anh sẽ không còn buồn phiền và anh sẽ có sức mạnh để vượt qua tất cả một cách dễ dàng.

Martin im lặng một lúc rồi hỏi:

– Làm thế nào để sống cho Thiên Chúa?

+ À thì chính Chúa đã chỉ – Anh biết đọc chứ? Anh hãy mua một cuốn Thánh Kinh và hãy đọc ở trong đó, anh sẽ biết cách phải sống cho Thiên Chúa như thế nào. Ở đó anh sẽ tìm thấy câu trả lời cho tất cả những gì anh hỏi tôi.

Không đợi lâu, Bác đi mua ngay một cuốn Kinh Thánh Tân Ước và mỗi ngày bác đọc. Càng đọc, bác càng cảm thấy thấm thía. Bác đọc đi đọc lại những lời Chúa nói ở trong Tin Mừng.

Một buổi tối kia sau khi đọc xong, bác miên man suy nghĩ về những gì mình mới đọc. Suy nghĩ được một lúc thì tự nhiên bác cảm thấy thiu thiu muốn chợp mắt đi. Vừa thiu thiu muốn chợp mắt đi như thế thì tự nhiên bác nghe thấy như có ai gọi mình:

– Martin!

Bác giật mình đứng dậy hỏi thật lớn:

– Ai đó?

Nhìn ra ngoài bác chẳng thấy ai. Rồi bác lại tiếp tục suy nghĩ trong tình trạng như vừa ngủ vừa thức. Đột nhiên bác lại nghe thấy có tiếng bảo:

– Martin ơi! Ngày mai hãy nhìn ra đường. Ta sẽ đến thăm ngươi.

Sáng hôm sau bác dậy sớm hơn mọi ngày. Bác chuẩn bị nhà cửa gọn gàng khang trang hơn rồi vừa làm việc vừa ngó ra đường qua tấm cửa kính đã được chùi sạch.

Mãi mà không thấy ai gõ cửa, mặc dầu có rất nhiều người qua đường.

Đến khoảng 9 giờ thì bác thấy một người bạn cũ. Đó là bác Nicolai. Bác khá già. Không vợ con. Bác phải làm nghề dọn tuyết để tự nuôi sống mình. Thấy Bác mệt nhọc mà trời lại quá lạnh. Martin mời bác vào trong nhà. Chính tay Martin pha trà mời bác Nicôlai dùng. Cả hai sống với nhau những giờ phút thật ấm cúng và đầy tình thương.

Sau đó Bác từ giã rồi ra đi, còn Martin thì lại tiếp tục công việc nhưng đôi mắt không quên nhìn ra cửa.

Một người đàn bà còn trẻ, ăn mặc rách rưới ẵm con đi qua. Bác Martin nghe thấy tiếng đứa trẻ khóc và mẹ nó tìm cách dỗ nó nhưng không thành công. Bác vội vàng đứng dậy mở cửa lớn tiếng gọi:

– Bà kia! Tại sao ẵm con ở ngoài trời lạnh thế? Vào đây..Hãy lại ngồi gần lò sưởi và cho con bú.

– Thưa bác cháu không còn sữa vì từ chiều hôm qua đến giờ cháu không có gì ăn.

Bác Martin đi vào bếp, đem tất cả những gì bác có, đưa đến cho người đàn bà.

Chị kể cho bác nghe tất cả những sự vất vả mà chị phải chịu.

Sau khi đã chuẩn bị đủ đồ lạnh cho hai mẹ con. Bác tiễn hai mẹ con ra đi và không quên dúi vào tay người đàn bà một tờ giấy bạc 20 đồng để khi cần chị có thể dùng.

Chiều đến một bà già bán táo đi ngang qua. Lưng bà còn đeo theo một bó củi có lẽ bà đã kiếm được ở đâu đó. Tình cờ một thằng bé xuất hiện, lấm la lấm lét chộp lấy một quả táo và định tháo chạy nhưng không may cho nó, bà già đã nhanh tay hơn và nắm được nó. Hai người ở trong một thế phải đấu tranh.

Martin phải ra can thiệp. Cuối cùng thì ông xin bà già cho ông được trả tiền quả táo và ông trao quả táo cho thằng bé trước sự ngỡ ngàng của nó.

Trời đã tối nhưng ông cũng vẫn còn chờ.

– Bác Martin này, bác có nhận ra tôi không?

– Nhưng người là ai vậy?. Bác hỏi.

Một bóng người vụt qua mắt bác. Đó là bác Nicôlai, người dọn tuyết.

Và một tiếng khác: “và cũng chính là Ta đây”. Rồi từ góc nhà hiện ra khuôn mặt của bà mẹ và đứa con. Bà mẹ mỉm cười và đứa bé cũng mỉm cười. Rồi hình họ cũng biến mất. “Và cũng chính là ta”. Lại một tiếng nói nữa. Đó là bà già bán táo và thằng bé. Cả hai đều cười và rồi cũng biến đi.

Martin cảm thấy sung sướng. Ông làm dấu Thánh Giá, đeo kính vào và đọc tiếp đoạn Kinh Thánh ông đang đọc dở dang: “Ta đói, các người đã cho Ta ăn. Ta khát….

Ở cuối trang ông dừng lại thật lâu ở những dòng chữ này: “Những gì các ngươi làm cho một một người bé nhỏ trong các anh em của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta” (Mt 25,40).

Ông tự nghĩ trong lòng: Giấc mơ đã không đánh lừa ông. Và ông đã không lầm khi nghĩ rằng chính Chúa đã đến nhà ông và ông đã được đón tiếp Ngài. Amen.

A. Chúa nhật trước Chúa tự xưng : “Ta là cái cửa” (Ga 10,9)

Hôm nay Chúa tự xưng: “Thầy là con đường” (Ga 14,6)

Cửa là lối ra vào. Còn con đường là lối đi. Khi mở đường, người ta khai mở một lối đi. Và một lối đi thì thường phải có một điểm tới.

Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa bảo: “Thầy là đường” (Ga 14,6) nhưng Chúa lại không xác định rõ điểm tới hay nói một cách khác: Chúa có nói nhưng cách nói của Chúa chưa rõ nên các Tông đồ thắc mắc: “Chúng con không biết Thầy đi đâu thì làm sao chúng con biết đường đi” (Ga 14,5)

Thắc của các tông đồ rất  đúng.

Trước khi nói những lời tâm huyết như trong bài Tin Mừng hôm nay ghi lại, Chúa Giêsu có nói là Ngài sẽ lên Jêrusalem. Hãy tạm coi Jêrusalem là điểm tới. Nhưng tới đó như lời Chúa nói thì chẳng làm sao các tông đồ có thể hiểu nổi.

Tại sao? Tại vì Chúa bảo lên Jêrusalem để bị bắt, bị tra tấn, và cuối cùng bị giết chết. Làm sao mà có thể tin là những việc như thế có thể xảy ra, nhất là đối với một con người như Chúa.

* Bao nhiêu năm trời theo Chúa, các tông đồ đã có dịp thấy Chúa là một con người thật là vĩ đại và kỳ diệu. Chưa hề bao giờ các ông ấy thấy Chúa có vẻ là một người chiến bại. Hơn nữa cuộc đời của Chúa hãy còn quá sung mãn. Với tuổi đời mới chỉ ngoài 30, cứ lẽ thường mà nói thì cuộc đời đó sẽ còn dài. Với biết bao nhiêu việc lạ lùng Chúa đã thực hiện trong quá khứ, thì tương lai chắc là còn phải huy hoàng và rực rỡ hơn…Vậy mà đột nhiên Chúa lại nói đến cái chết vậy thì làm sao mà tin cho nổi.

Và nếu câu chuyện kết thúc bằng cái chết như thế thì quả thực là không thể nào chấp nhận được.

Vâng quả đúng như vậy. Rõ rệt là Chúa không dừng lại ở cái chết. Sau khi chết người ta đã cẩn thận niêm phong Ngài trong huyệt đá. Người ta đã cắt lính canh chừng. Họ tưởng như thế là đã thành công trong việc kết thúc cuộc đời của một đối thủ mà họ đã cay cú muốn loại trừ từ bao nhiêu năm trời.

Thế nhưng họ đã lầm. Đúng như lời Ngài đã nói. Sau khi từ cõi chết sống lại, Ngài đã cho các tông đồ thấy cuộc sống đích thực của Ngài là cuộc sống vượt lên trên lằn mức của không gian và vượt ra ngoài giới hạn của thời gian để trở thành vĩnh cửu, trở thành đời đời – điều mà các tông đồ chưa hề bao giờ được thấy.

Như vậy đích điểm con đường Ngài đi không phải là cái chết nhưng là ở một chỗ khác. Đó là nhà của Cha (Ga 14,2). Vâng…nhà của Cha mới là đích điểm cuối cùng Ngài dẫn những kẻ tin Ngài đi tới để ở đó Ngài cho họ điều mà trong suốt cuộc đời công khai Ngài đã nhiều lần đoan hứa với những ai tin Ngài.

B. Vậy bổn phận của con người hôm nay là phải biết tìm đến con đường mang GIÊ-SU để đi. Ngài chính là con đường và Ngài cũng là đích tới.

Hãy nhớ lại: Suốt cuộc đời trần thế, ngoại trừ những năm ẩn dật tại Nazareth, còn thì chúng ta thấy Ngài sống ở ngoài đường hơn là ở trong nhà: “Con chim có tổ, con cáo có hang, Con Người không có chỗ tựa đầu.” (Mt 8,20)

– Chúa đã khởi sự cuộc đời của Ngài ở ngoài đường. Hang Belem không phải là một mái nhà.

– Ngài sống ở ngoài đường. Có vào nhà ai thì cũng chỉ là tạt qua chứ không phải là để cư trú

– Ngài chết cũng ở giữa đường chỗ có nhiều người qua lại.

– Và hầu như những cuộc gặp gỡ giữa Ngài với mọi người cũng được diễn ra ở ngoài đường. Gặp rồi lại đi chứ không dừng lại.

Tại sao Ngài làm thế?

* Trước hết Ngài muốn nhắn nhủ cho mọi người: Trần thế này không phải là chỗ lập cư vĩnh viễn. Nó không phải là quê hương. Một câu mà người ta coi như một châm ngôn được tìm thấy trên cổng của một ngôi thành cổ: “Thế gian như một chiếc cầu, bạn hãy đi qua mà đừng dừng chân lại”

Một Kitô-hữu già cả sắp chết. Một người đến nói:

– Con đọc cho cụ nghe một câu Thánh Kinh ngọt ngào nhất nhé!

– Vâng.

– Trong nhà Cha có nhiều chỗ. Ta đi dọn chỗ cho các con.

– Không, đó không phải là câu ngọt ngào nhất. Đọc tiếp đi.

– …Ta sẽ trở lại để Ta ở đâu các con cũng ở đó với Ta.

– Đó mới là câu ngọt ngào nhất. Điều tôi cần, không phải là một chỗ, mà là chính Chúa. (Góp nhặt)

* Thứ hai: Trần thế đã không phải là quê hương thì ta phải đi. Muốn đi tới đích thì phải đi trên con đường Chúa đã chỉ, theo lối mà Chúa đã vạch cho.

Trong tập truyện “Thiên đàng là thế đó” tôi được thấy một câu chuyện vui. Câu chuyện như thế này: Có một vị tu sĩ già nọ một đêm kia khi đi vào nhà nguyện để viếng Chúa thì tình cờ gặp thấy một thiên thần đang quì và hí hoáy viết vào một cuốn sổ vàng đặt trước bàn thờ. Với tâm hồn tràn ngập hân hoan vị tu sĩ rón rén đến gần thiên thần và hỏi:

– Ngài đang viết gì trong cuốn sổ vàng này vậy?

Không cần ngước mắt nhìn lên vị tu sĩ, thiên thần trả lời ngay:

– Ta đang viết danh sách những ai yêu mến Chúa.

Vừa lo lắng, lại vừa hồi hộp, vị tu sĩ hỏi thiên thần xem có tên mình trong cuốn sổ vàng đó không. Thiên thần chăm chú mở từng trang, đọc từng dòng nhưng không thấy tên ông đâu cả. Dầu sao thì câu trả lời của thiên thần cũng không làm cho vị tu sĩ già thất vọng bởi vì ông đã nghĩ ra cách khuyến dụ thiên thần để tên của ông được ghi vào sổ vàng. Ông nài nỉ, nói với thiên thần:

– Xin Ngài cứ vui lòng ghi tên tôi vào sổ như là một thầy dòng lúc nào cũng yêu mến người khác vậy.

Thiên thần chiều ý vị tu sĩ. Thế là tên ông được ghi vào sổ vàng.

Tối hôm sau, ông lại gặp thiên thần một lần nữa….Vừa khi gặp lại vị tu sĩ già, thiên thần đã kêu ông lại, mở cuốn sổ vàng cho ông coi. Vừa liếc mắt nhìn, vị tu sĩ già đã vô cùng bỡ ngỡ vì tên của ông được ghi ngay ở đầu danh sách những người yêu Chúa. Ông thầm cảm tạ ơn Chúa đã nhớ đến ông. Sau một thời gian thì vị tu sĩ già đó qua đời.

Sau khi ông chết, anh em trong dòng tìm được cuốn nhật ký của ông. Vừa mở ra họ đã gặp thấy dòng chữ này: “Nếu ai nói mình yêu mến Chúa mà lại thù ghét anh em thì người đó là kẻ nói dối. Ai không yêu mến người anh em mà mình thấy trước mắt thì cũng không thể yêu mến Thiên Chúa là Đấng mình không thấy được”.(1Ga 4,20)

Đó là lời ông trích từ thư của Thánh Gioan.

Tiếp theo các tu sĩ  ấy còn đọc thấy những lời chú giải này: “Tôi đi tìm kiếm linh hồn tôi nhưng tôi không thấy. Tôi đi tìm kiếm Chúa nhưng Chúa vượt khỏi tầm tay của tôi. Tôi đi tìm người anh em của tôi thì tôi lại gặp được Chúa và gặp được cả Linh hồn tôi”

Vâng kính thưa anh chị em

Con đường yêu thương chính là con đường của Chúa. Tên của Ngài là tình yêu. Tình yêu đem lại sức sống và tình yêu làm cho người thực thi lòng yêu thương có được sự sống đời đời. Amen.

Thiếu nhi chúng con yêu quí,

1. Chúng con vừa nghe một bài Tin Mừng rất hay. Cha đố chúng con trong bài Tin Mừng này Chúa tự ví mình là gì nào?

– Thưa cha Chúa bảo Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống.

– Chúng con rất giỏi.

– Thế chúng con còn nhớ Chúa Nhật trước Chúa xưng mình là gì không?

– Dạ thưa cha, Chúa xưng mình là cái cửa.

– Rất đúng, chúng con nhớ rất giỏi. Và lần trước cha đã nói với chúng con về cái cửa. Cha đã nói cửa là lối ra vào. Còn hôm nay Chúa bảo mình là con đường thì Chúa muốn nói gì nào?

-…….

– Người ta làm đường để làm gì chúng con.

– Thưa để đi.

– Vậy thì khi Chúa bảo mình là đường thì Chúa muốn nói Chúa là lối đi. Chúng con thấy mỗi lối đi phải có một điểm tới.

Khi Chúa nói mình là con đường thì Chúa nói cho mọi người biết Ngài là lối đi dẫn con người tới một điểm mà Chúa nói: “Thầy đi để dọn chỗ cha các con, để rồi Thầy ở đâu chúng con cũng sẽ ở đấy với Thầy”(Ga 14,1-2).

Vậy thì nơi Chúa bảo sẽ dẫn những ai tin yêu Chúa đến đó là ở đâu vậy chúng con.

– Thưa đó là Thiên Đàng.

Thiên Đàng là nơi Chúa muốn dẫn những người tin yêu Chúa tới đó. Đó là đích điểm của mọi người nếu họ biết sống như Chúa đã sống. Và sống ở Thiên Đàng mới là cuộc sống thật, cuộc sống đời đời, cuộc sống vĩnh cữu, cuộc sống hạnh phúc, cuộc sống không còn đau khổ, cuộc sống không còn đổi thay…Đó là cuộc sống của Chúa. Sống ở Thiên Đàng là được tham dự vào cuộc sống của Chúa.

2. Vậy muốn có được cuộc sống đó thì ta phải làm gì chúng con?

Thưa phải đặt chân vào con đường mang tên GIÊSU. Con đường mang tên Giêsu còn có tên là gì nữa chúng con. Đó là con đường yêu thương.

Như vậy là cha đã có câu trả lời cho chúng con rồi. Muốn được về trời với Chúa sau khi kết thúc cuộc sống ở dưới trần gian này chúng ta chỉ có một con đường duy nhất đó là sống yêu thương như Chúa đã sống.

Vậy sống yêu thương như Chúa là sống như thế nào?

Nhìn vào cuộc sống của Chúa Giêsu cha thấy Chúa đã sống yêu thương thật như thế này.

a. Trước hết Chúa đã chọn cuộc sống nghèo. Nghèo ở đây không phải là nghèo khổ, nghèo không có gì để ăn, không có gì để mặc mà là sống tin tưởng và phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa Cha.

Chúng con thấy, suốt cuộc đời trần thế, ngoại trừ những năm ẩn dật tại Nazareth, còn thì chúng ta thấy Chúa sống ở ngoài đường hơn là ở trong nhà: “Con chim có tổ, con chồn có hang, Con Người không có chỗ tựa đầu.”

Người ta bảo: “Đức Phật nghèo nhưng hãy còn giàu hơn Chúa vì ít ra Đức Phật cũng còn có một gốc cây bồ đề để làm chỗ trú chân”. Còn Chúa, Chúa đã sống như một con người không có chỗ tựa nương.

– Chúa đã khởi sự cuộc đời của Ngài ở ngoài đường. Hang Belem không phải là một mái nhà.

– Ngài sống ở ngoài đường. Có vào nhà ai thì cũng chỉ là tạt qua chứ không phải là để cư trú ở đó lâu ngày.

– Ngài chết cũng ở giữa đường chỗ có nhiều người qua lại.

– Và hầu như những cuộc gặp gỡ giữa Ngài với mọi người cũng được diễn ra ở ngoài đường. Gặp rồi lại đi chứ không dừng lại.

Tại sao Ngài làm thế?

Tại vì Chúa muốn cảm thông với kiếp sống nghèo của con người.

Hơn nữa vì Chúa nghèo cho nên những người nghèo dễ gần gũi với Chúa hơn.

b. Thứ đến cha thấy Chúa biết quan tâm đến mọi người.

Chẳng hạn Chúa quan tâm đến nỗi khổ của một người mẹ mất con ở thành Naim, Chúa quan tâm đến người mù cứ phải đợi mãi bên hồ mà không có ai giúp đỡ. Hay….

Chúng con hãy tập cho mình biết quan tâm đến người khác như Chúa.

Đây là một câu chuyện có thật:

Ông Leo Buscaglia lần kia có kể về cho mọi người về một cuộc thi mà ông là giám khảo. Mục đích của cuộc thi này là tìm ra đứa trẻ biết quan tâm đến người khác nhất. Người thắng cuộc là một em bé 4 tuổi.

Người hàng xóm của em là một ông lão vừa mất vợ. Nhìn thấy ông khóc, cậu bé đến sân nhà ông, lại gần, rồi leo lên ngồi vào lòng ông và cứ ngồi lâu như thế. Khi mẹ em hỏi em đã trò chuyện những gì với ông ấy, cậu bé trả lời:

– Không có gì mẹ ạ. Con chỉ để ông khóc!

Việc làm của em bé này khó hay dễ chúng con. Chúng con có thể làm được những việc tương tự như vậy hay không?

c. Cuối cùng cha thấy Chúa luôn sống tốt với mọi người. Có lần sau khi Chúa giảng, có một người đã lớn tiếng ca tụng Chúa rằng: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được.”(Mc 7,37)

Chúng con cũng hãy bắt chước Chúa luôn sống tốt với mọi người, đừng làm điều gì xấu đối với bất cứ ai, đừng cư xử không đẹp với bất cứ một người nào. Nhưng đối với ai mình cũng cố gắng sống thật tốt.

Hôm đó khi món kem trái cây đã giảm giá, một cậu bé bước vào quán cà phê và ngồi vào một chiếc bàn. Cô phục vụ đặt ly nước mát trước mặt cậu.

– Một ly kem trái cây giá bao nhiêu vậy thưa cô? Cậu bé hỏi.

– 50 xu. Cô trả lời.

Cậu bé rút tay ra khỏi túi quần và cẩn thận đếm những đồng tiền xu mình đang có.

– Thế còn một ly kem loại thường giá bao nhiêu vậy cô? Cậu hỏi tiếp.

Nhìn khách vào quán đang còn đợi chỗ, cô phục vụ trở nên mất kiên nhẫn:

– 35 xu. Cô trả lời có vẻ khó chịu.

Cậu bé đếm đi đếm lại những đồng xu của mình một lần nữa rồi nói:

– Thế thì cháu chọn ly kem loại thường thôi!

Cô phục vụ mang kem đến và quay đi. Cậu bé ăn xong, đến quầy trả tiền rồi đi khỏi. Khi quay lại, cô phục vụ bất chợt nghẹn ngào trước những gì cô nhìn thấy. Trên bàn, bên cạnh ly kem đã ăn hết là số tiền 15 xu đặt ngay ngắn – tiền thưởng phục vụ dành cho cô.

Có bao giờ chúng con tốt với người khác như vậy chưa. Cha chúc chúng con biết sống như Chúa và như lời Chúa hứa, những ai biết sống như Chúa thì mai mốt có phải chết đi thì Chúa cũng đón đưa người đó vào Thiên Đàng với Chúa để Chúa ở đâu thì người ấy cũng ở đó với Ngài. Amen.

Anh chị em thân mến,

Chúng ta vừa nghe một đoạn Tin Mừng của Thánh Gioan. Đây là một trong những đoạn Tin Mừng khó cắt nghĩa. Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa chúng ta đã dùng kiểu nói “Ta Là” để nói về mình. Trong Tin Mừng của Gioan, Chúa dùng tới tám lần như vậy. Chúa nhật hôm nay và Chúa nhật tuần sau chúng ta sẽ suy niệm dựa trên kiểu nói như thế. Hôm nay Chúa tự xưng là cửa: “ Ta là cái cửa” (Ga 10,9). Chúng ta tự hỏi: Chúa có ý muốn nói gì khi Ngài tuyên bố như thế ?.

1. Muốn hiểu được lời tuyên bố của Chúa, thiết tưởng chúng ta phải trở về với hoàn cảnh của lời tuyên bố này. Vậy hoàn cảnh nào Chúa đã tuyên bố như vậy ?

a/ Theo Tin Mừng kể lại thì trước khi tuyên bố như trên Chúa có chữa một người mù từ khi mới sinh.

Lúc đầu khi chữa cho anh ta thì Chúa chưa cho anh ta biết Ngài là ai. Sau khi hòa nước miếng với đất thành bùn sức vào mắt anh ta, Chúa bảo anh đi tới suối Siloe mà rửa. Anh đã làm y như Chúa nói và anh ta đã được sáng mắt.

Sự việc anh ta được sáng mắt đã gây ra nhiều cuộc bàn tán xôn xao. Lúc đầu thì người ta tưởng rằng mọi việc rồi cũng lại đâu vào đó như là những lần khác, nhưng rồi sự việc lại diễn ra không như người ta tưởng. Càng ngày vấn đề càng trở thành nghiêm trọng. Vì công việc Chúa chữa người mù lại xảy ra vào ngày Sabbat. Chính vì thế mà nhà cầm quyền tôn giáo lúc đó đã phải triệu tập một cuộc hội họp bất thường và mở một cuộc điều tra đặc biệt về vấn đề này. Cha mẹ của anh mù được mời tới…rồi sau đó chính người mù được chữa khỏi cũng được mời tới. Cuộc thẩm vấn đã diễn ra một cách hết sức căng thẳng gây cấn vì mỗi bên đều tỏ ra nhất định không khoan nhượng trong lập trường của mình:

b/ Phía những người Biệt phái thì nhất định phủ nhận phép lạ của Chúa Giêsu.

Ngược lại anh mù cũng không kém phần gan dạ. Anh ta tỏ ra can đảm khác thường. Không những anh ta không phủ nhận mà còn can đảm bênh vực cho sự thật. Và kết quả là anh bị trục xuất ra khỏi Hội đường. Đây là một sự trừng phạt của những người có quyền có thế dành cho anh. Chúng ta không thể tưởng tượng nổi nỗi thất vọng của anh lúc đó như thế nào. Anh ta hoàn toàn không còn một chút tin tưởng gì đối với những người lãnh đạo tôn giáo lúc đó nữa

c/ Nhưng rồi trong cái rủi lại có cái may. Đúng lúc xã hội loài người trục xuất anh, không còn thừa nhận anh là thành phần của cộng đoàn, thì chính lúc đó Chúa lại mở thật rộng bàn tay để đón nhận anh, đưa anh vào một cộng đoàn mới, cộng đoàn của những người tin Chúa. Chính vì thế mà khi vừa hay tin anh bị trục xuất ra khỏi Hội đường thì Chúa đến gặp anh và đúng lúc anh vừa kịp đối diện với Ngài thì Ngài đã hỏi ngay:

“Anh có tin con Thiên Chúa không ?” (Ga 9,35)

Anh thưa lại: “Thưa Ngài, Ngài là ai để tôi tin ?” (Ga 9,36)

Câu nói của anh tràn đầy sự xúc động.

Chúa trả lời: “Anh đang thấy Người và Người đang nói với Anh” (Ga 9,37). Chúng ta không thể tưởng tượng lúc đó anh ngỡ ngàng đến mức độ như thế nào. Anh cứ tưởng Ngài ở đâu thật xa. Có dè đâu Ngài đang ở thật gần. Anh nhìn thẳng vào mắt Chúa. Và tự đáy lòng Anh nói lên niềm tin của Anh: “Lạy Ngài, con tin” và Tin Mừng ghi lại một chi tiết thật cảm động này: “Anh sấp mình xuống phục lạy Ngài” (Ga 9,38)

d/ Qua câu chuyện trên chúng ta có thể thấy được hai bức tranh hầu như hoàn toàn tương phản nhau một cách thật rõ rệt.

Một bên là nhà cầm quyền đạo Do Thái. Họ đã làm một việc hết sức bất nhân đối với người mù vừa được chữa khỏi.

Một bên là Chúa. Giữa lúc người ta trục xuất thì Chúa lại mở rộng vòng tay để đón nhận anh. Ngài đã dẫn anh vào một xã hội mới, xã hội của những người tin Chúa.         Và chính trong hoàn cảnh đó mà Chúa đã tự xưng: “Ta là cái cửa”.(Ga 10,9)

  Cửa là lối vào. Qua Chúa người ta có thể bước vào một xã hội mới.

2/ Ta là cửa chuồng chiên.(Ga 10,7)

a/- Chuồng chiên bên Đông phương là một khu đất rộng, chung quang có tường hoặc rào bao bọc. Không bao giờ có mái che ở trên.

– Thường thì mỗi chuồng chiên chỉ có một cửa duy nhất. Đó là lối ra vào của chiên. Không bao giờ chiên trèo tường hay leo rào để ra.

– Cửa chuồng chiên chỉ là một khoảng cách giữa hai bên bờ tường hay bờ rào. Nó chỉ là một khoảng trống. Nó khác hẳn với hình ảnh về một cái cửa mà chúng ta thường thấy trong xã hội hôm nay.

– Khi Chúa tự ví mình như cái cửa, Chúa đã muốn nói với mọi người về lối vào cho một xã hội mới của Ngài. Xã hội như một đàn chiên. Bất cứ ai muốn gia nhập thì phải qua Ngài. Ngài là cửa dẫn vào đoàn chiên. Không qua Ngài mà vào thì là kẻ cướp.

b/ Nhưng làm thế nào để có thể gọi là “qua Ngài”. Chúng ta hãy đặt mình vào hoàn cảnh của người mù mới được Chúa chữa khỏi. Khi được sáng mắt chắc là anh đã vui mừng. Nhưng niềm vui của anh chưa được bao lâu thì nó đã biến thành nỗi sầu. Chỉ vì bênh vực cho sự thật mà anh bị loại trừ. Nhưng rất may cho anh, Chúa đã đón nhận anh. Bằng một lời tuyên xưng, anh đã bước vào xã hội mới của Chúa. Vâng đó là cách chúng ta “qua Chúa” để vào xã hội của Chúa. Mỗi người chúng ta đã làm như thế ngày chúng ta được chịu phép Rửa tội. Giờ đây chúng ta đang ở trong xã hội đó. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì hồng ân cao cả này.

3. Tới đây tôi chợt nhớ tới một câu chuyện của hầu tước (Sir) George Adam Smith. Một hôm ông đi du lịch ở đông phương, ông thấy mảnh đất có tường bao quanh như tôi vừa nói. Nhưng ông không dám nghĩ đó là một chuồng chiên. Rất may là lúc đó có một người chăn chiên đang ở gần đó.

Ông hỏi anh ta: “Cái đó có phải là chuồng chiên không ?”.

Người chăn chiên xác nhận: “Dạ phải”.

Ông thắc mắc: “Sao, tôi thấy chỉ có một lối đi vào”

Người chăn chiên giải thích: “Vâng, chỗ đó là cái cửa”

Ông ngạc nhiên thắc mắc tiếp: “Nhưng chỗ đó tôi có thấy cửa đâu ?”

Chẳng cần phải suy nghĩ gì. Người chăn chiên trả lời ngay: “Ta là cái cửa”

Ông càng ngạc nhiên hơn nữa, Ông hỏi tiếp: “Anh muốn nói gì khi anh bảo anh là cái cửa ?”

Người chăn chiên đáp: “Khi chiên vào chuồng rồi thì tôi đến nằm ngang chỗ đó. Không một con chiên nào có thể đi ra và cũng không một con sói nào có thể đi vào mà không phải qua con người của tôi”.

Hay quá chúng con. Người mục tử là như thế. Chúng ta hãy cầu nguyện để Chúa cũng ban cho Giáo Hội có được những mục tử tốt như thế để lo cho đoàn chiên chúng ta.

Năm 1870 chính phủ Hawai ra lệnh bắt những người mắc bệnh phong hủi, phải ở riêng biệt tại cù lao Molokai, mà tàu của chính phủ mỗi tuần chỉ tiếp tế cho một lần. Ở đó, thiếu thuốc thang, thiếu săn sóc, nhất là thiếu an ủi và nâng đỡ về phương diện tôn giáo. Nghe tin này, được lòng mến Chúa thúc đẩy, cha Damien dòng Thánh Tâm người nước Bỉ, đã tình nguyện xin Đức Giám mục giáo phận cho phép mình được ra sống chung với những người xấu số đó. thấy đức giám mục lưỡng lự, cha Damien đã quì xuống đất thưa rằng:

– Thân đức cha, mặc dầu con còn trẻ, nhưng khi mặc chiếc áo dòng đen nhà tu, con đã trở nên những người của Chúa, con đã sẵn sàng chết cho các linh hồn theo gương Chúa Giêsu. Vậy sau khi được phép Đức Giám mục giáo phận, cha Damien đã đến sống chung với anh em phong hủi. Cha đã sống với họ 16 năm: ra vào thăm nom, tập cho họ nghề nghiệp, dạy họ đọc và chữ viết, rửa tội, giải tội, xức dầu thánh. Do đó cha đã lây bệnh. Bác sĩ Woons viết rằng: cha Damien đã khác hẳn mười năm trước đây, mặt mũi rộp và sưng lên, hai tay dày cộm và xệ xuống, các ngón tay đang lần lượt co quắp lại… cha đã trở nên giống các con chiên của cha: da trán sưng lên ghê tởm; hai tai phồng ra to; mũi, má, cổ tay đều bị hủi ăn đỏ hoẻn. Đây là vị linh mục công giáo đang sống ở địa ngục phong cùi, giữa những người đang sống dở, chết dở, để đem lại cho họ một đôi chút an ủi. Sau 16 năm sống trong hy sinh và bệnh nạn, cha Damien bị những vi trùng cùi đêm ngày tấn công, và sau hết phải ngã gục và chết giữa con chiên (3,98)

Vậy cha Damien đã chết giữa những con chiên mắc bệnh phong cùi của cha, để một phần nào bắt chước gương Chúa đã được ghi trong bài phúc âm hôm nay: “Cha là mục tử tốt lành đã liều mạng sống vì con chiên”. Nghĩa là Chúa đã chịu chết trên thánh giá để chuộc tội loài người cách riêng là cho anh chị em chúng ta. đọc lại bài phúc âm này, Chúa cũng dạy chúng ta, nếu chưa dám hy sinh mạng sống vì người khác, thì chúng ta cũng cố gắng giúp đỡ người khác trong những việc nhỏ mọn, nhiều chừng nào, tốt chừng nấy.

Xin Chúa cho chúng ta được tìm thấy hạnh phúc khi chúng ta được ở trong Giáo Hội tức là đoàn chiên của Chúa. Trong Giáo Hội chúng ta có Chúa bảo vệ chúng ta. Trong Giáo Hội, bằng các Bí Tích Chúa lo lắng cho chúng ta. Cũng chính trong Giáo Hội mà chúng ta nhận được lương thực hằng sống là Mình và Máu Thánh Chúa hằng ngày. Amen.

Thiếu nhi chúng con yêu quí,

Chúng ta vừa nghe một đoạn Tin Mừng với kiểu nói hơi lạ của Chúa Giêsu. Chúa nói thế nào mà cha bảo là hơi lạ ? Chúng con thấy Chúa bảo Chúa là gì không ? Chúa bảo Chúa là cái “Cửa”.

Chúng con đã thấy cái cửa bao giờ chưa ?

– Dạ thấy.

– Thấy ở đâu nào ?

– Ở nhà, ở nhà thờ, ở nhiêu nơi lắm.

– Đúng vậy…Có nhiều nơi có cửa lắm.

– Thế cha hỏi chúng con: Cửa để làm gì nào ?

– Cửa để ra vào…ra vào của một căn phòng… ra vào của một lớp học, ra vào của nhà thờ….

– Ngoài ra cửa còn để làm gì nữa ?

– Thưa để gìn giữ an toàn cho những nơi những chỗ cần phải được giữ an toàn….

– Rất đúng! Chúng con giỏi.

Vậy khi Chúa ví mình như cái cửa, Chúa muốn nói với chúng ta điều gì nào ?

Để hiểu được Lời của Chúa, chúng ta phải nhìn vào xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu lúc đó.

Khi Chúa nói: “Ta là cửa chuồng chiên” thì chúng ta phải nghĩ đến sinh hoạt chăn chiên của người Do Thái thời đó. Có như vậy chúng ta mới hiểu Chúa muốn nói gì.

Cha thấy thời đó người Do Thái có hai loại chuồng chiên. Thứ nhất là loại chuồng chiên ở các làng mạc và thị trấn. Đây là loại chuồng chiên cộng đồng. Người ta gọi là chuồng chiên cộng đồng vì những đàn chiên của những người trong làng hay thị trấn đều có thể sử dụng chung khi người ta đưa chiên trở về sau một ngày đem chúng đi ăn, vào mỗi buổi tối.

Chắc chúng con sẽ hỏi cha rằng nhốt chung như thế thì sao mà phân biệt được ?

Cha xin trả lời ngay: Con chiên có một đức tính rất đặc biệt. Chúng chỉ nghe tiếng của chủ chứ không nghe tiếng của người lạ. Bởi vậy khi chủ lên tiếng gọi là chúng tụ tập lại bên chủ ngay.

Các chuồng chiên này được bảo vệ bằng một khung cửa thật chắc chắn mà chỉ có người canh cửa mới được giữ chìa khóa mà thôi. Đó là loại chuồng chiên mà Chúa đề cập đến trong câu Tin Mừng hôm nay (2,3).

Loại thứ hai là loại được làm ngay ở những nơi người ta chăn chiên vào mùa nắng ấm. Vào mùa này thì người ta thường thả chiên trên núi, cho nên khi đêm về những người chăn chiên không lùa chiên về làng. Thay vào đó thì chiên được giữ chung trong các chuồng ở sườn đồi. Các chuồng chiên này chỉ là một khoảng đất trống có rào chung quanh, có một chỗ trống cho chiên ra vào, không có cửa nẻo gì cả. Đêm đến sau khi đã cho chiên vào thì người chăn chiên đến nằm ngay tại khoảng đất trống làm chỗ ra vào đó. Không một con chiên nào có thể ra vào được, trừ phi nó nhảy qua người chăn chiên.

Cha kể cho chúng con câu chuyện này. Câu chuyện này do Ông George Smith kể. Một hôm ông đi du lịch tại Đông Phương, ông thấy một loại chuồng chiên như cha kể trên.

Khi gặp một người chăn ở đó, ông hỏi:

– Có phải đó là chuồng chiên không ?

Người ấy đáp:

– Dạ, đúng

Rồi George nói:

– Tôi thấy chỉ có một lối đi vào.

Người chăn chiên giơ tay chỉ vào khoảng trống, và nói:

– Đó là cái cửa.

Ông George rất ngạc nhiên, bảo:

– Nhưng tôi có thấy cửa đâu.

Lúc đó người chăn chiên mới vội đáp:

– Dạ, tôi là cái cửa.

Ông George chợt nhớ lại câu chuyện trong Tin Mừng Gioan kể rồi nói với người chăn chiên:

– Anh muốn nói gì khi bảo chính anh là cái cửa ?

Người chăn chiên giải thích:

– Khi chiên vào chuồng xong, tôi đến nằm ngay ở đó. Không một con chiên nào có thể đi ra hoặc con chó sói nào có thể vào chuồng trừ phi phải nhảy qua người tôi.

Câu chuyện thật tuyệt vời. Người chăn chiên đã trở thành cửa để canh giữ chuồng chiên. Không một con chiên nào có thể tự do ra vào, ngoại trừ phải nhảy qua chính người chăn chiên.

Tới đây cha chắc chúng con đã hiểu được phần nào câu nói của Chúa Giêsu khi Ngài ví mình như là cái cửa: “Ta là cửa chuồng chiên”.

Khi nói như thế Chúa muốn nói với mọi người rằng: Chỉ nhờ Ngài và chỉ qua Ngài, loài người mới có thể đến với Thiên Chúa và Ngài chính là người bảo vệ đoàn chiên. Ai sống dưới sự che chở hướng dẫn của Ngài thì kẻ ấy sẽ được an toàn và hạnh phúc bằng không thì cuộc đời của họ sẽ bất hạnh.

Năm 2008 trong một chuyến đi diễn thuyết ở Hawaii, tôi đã gặp vận động viên lướt sóng đẳng cấp thế giới Bethany Hamilton. Bạn biết không, cô gái ấy bị mất cánh tay trái do cá mập tấn công vào năm 2003 trong khi đang lướt sóng tại một vùng biển ở Hawaii. Tai nạn xảy ra khi cô mới 13 tuổi. Trước khi bị cá mập tấn công, Bethany là một vận động viên lướt sóng nổi tiếng, nhưng sau khi thoát chết trong vụ tấn công đó và kiên cường quay trở lại với môn thể thao mà cô yêu thích, ngợi ca và tạ ơn Chúa đã che chở cho mình, cô trở nên nổi tiếng thế giới nhờ tinh thần dũng cảm và niềm tin phi thường. Giờ đây, giống như tôi, cô đi khắp thế giới, khích lệ mọi người vượt lên nghịch cảnh và chia sẻ niềm tin của cô với họ.

Bethany tâm sự rằng mục đích của cô là “nói với mọi người về niềm tin của tôi đối với Chúa để mọi người biết rằng Người luôn yêu thương họ và để giải thích cho mọi người biết ngày hôm đó Chúa đã quan tâm, che chở cho tôi như thế nào. Bị cá mập tấn công, tôi đã mất 70% lượng máu trong cơ thể. Nếu ngày hôm đó Chúa không che chở thì tôi đã không có mặt ở đây ngày hôm nay”.

Trước khi gặp Bethany, tôi chưa biết tường tận về tai nạn đó, và tôi không hiểu được cô gái trẻ ấy đã cận kề cái chết như thế nào. Cô nói cho tôi biết cô đã không ngừng cầu nguyện khi người ta đưa cô tới một bệnh viện cách bờ biển bốn mươi lăm phút đi xe hơi và người phụ giúp công việc y tế đã thì thầm vào tai cô những lời động viên như sau: “Chúa sẽ không bao giờ bỏ rơi hoặc từ bỏ em đâu!”.

Tình hình lúc đó thật gay go. Khi đưa cô tới được bệnh viện và khẩn trương chuẩn bị phẫu thuật, người ta phát hiện ra rằng tất cả các phòng mổ của bệnh viện đều bận. Bethany lịm dần. Nhưng rồi vào phút chót, một bệnh nhân đã hủy bỏ cuộc phẫu thuật đầu gối sắp sửa được tiến hành, vậy nên bác sĩ của ông ấy có thể phẫu thuật cho Bethany. Hãy đoán xem người hủy bỏ cuộc phẫu thuật đầu gối là ai ?

Đó chính là bố của Bethany!

Không thể ngờ được, đúng không bạn ? Tất cả mọi thứ cho một cuộc phẫu thuật đã được chuẩn bị sẵn sàng, vậy nên họ chỉ việc đưa cô con gái vào thay chỗ của người bố trên bàn mổ và tiến hành phẫu thuật. Cuộc phẫu thuật đó đã cứu sống cô.

Trong cuộc gặp, Bethany cho biết niềm tin vào Chúa đã khiến cô đi đến kết luận rằng việc mất cánh tay là một phần trong kế hoạch của Chúa dành cho cuộc đời cô. Thay vì cảm thấy buồn cho bản thân, cô chấp nhận điều đó và tiếp tục vươn lên. Trong cuộc thi lướt sóng với những nữ vận động viên hàng đầu thế giới, cô giành vị trí thứ ba – với chỉ một cánh tay! Cô nói rằng mất cánh tay không phải là một điều rủi mà là một sự may mắn bởi mỗi lần cô đạt thành tích cao, sự kiện đó lại khích lệ những người khác tin rằng cuộc sống của họ không có giới hạn!

“Chúa đã đáp lại lời cầu nguyện của tôi, đã sử dụng tôi. Khi mọi người nghe câu chuyện của tôi chính là khi Chúa nói với mọi người”, cô nói. “Nhiều người nói rằng qua câu chuyện của tôi họ thấy mình được đến gần Chúa hơn, bắt đầu tin ở Chúa và tìm được niềm hy vọng cho cuộc sống của chính họ, hoặc được động viên, khích lệ để vượt qua nghịch cảnh. Khi nghe họ nói như thế, tôi tạ ơn Chúa bởi không phải là tôi làm được gì cho họ – mà chính Chúa là người đang giúp họ. Tôi cảm thấy rất vui bởi Chúa đã cho phép tôi trở thành một phần trong kế hoạch của Người”.(nguồn Internet)

Đó chúng con thấy, người biết tin tưởng vào Chúa thì sống hạnh phúc như thế nào. Amen.

Câu chuyện chúng ta vừa nghe là một trong những câu chuyện hay nhất ở trong Tin Mừng. Hay không phải ở bối cảnh cũng không phải hay ở trong tình tiết mà là ở chỗ nó có một ý nghĩa đặc biệt, nó gói ghém một sứ điệp Chúa muốn gửi đến cho mỗi người chúng ta.

1/ Như anh chị em đã biết ngay sáng ngày thứ nhất trong tuần, Tin Mừng Phục sinh đã được loan báo cho nhóm 11 và một số người khác trong đó có cả hai môn đệ được Tin Mừng hôm nay nhắc tới – thì ngay chiều hôm đó hai ông này đã rời bỏ Jêrusalem để đi về Emmau một địa danh cách Jêrusalem khoảng chừng 11 cây số.

Tin Mừng không cho chúng ta biết lý do tại sao họ lại bỏ Jêrusalem vào lúc sự việc còn tranh tối tranh sáng như thế. Cứ theo những lời họ nói thì ta phải kết luận là họ thất vọng. Hoàn toàn thất vọng. Họ muốn bỏ cuộc. Bây giờ thì họ đang ở trên đường con đường, với một tâm hồn nặng trĩu một nỗi u buồn và những bước chân thật nặng nề và chậm chạp. Cha Thành Tâm gọi là “lê bước chân buồn đường dài”.

Họ vừa đi vừa nói chuyện với nhau. Những chuyện họ nói cũng chẳng có gì là hào hứng. Toàn là một màu ảm đạm và u buồn.

Rồi khi Chúa hiện ra nhập bọn cùng đi với họ…sự việc đó cũng chẳng làm cho họ thay đổi gì. Khi Chúa hỏi họ: “Các bạn có chuyện gì vừa đi vừa đàm đạo với nhau mà buồn thế… ?” thì họ sẵn sàng bộc lộ tất cả những gì họ đang nghĩ “Sự việc liên can đến Ông Giêsu thành Nazareth..”.. Họ kể cho người khách lạ khá rõ và khá chi tiết về ý nghĩ của họ đối với Ngài và về những sự việc có liên quan đến Ngài mới xảy ra. Họ cũng chẳng sợ hãi mà dấu diếm cả những mong đợi thầm kín nhất mà họ đã đặt ở nơi Ngài: “Phần chúng tôi, chúng tôi vẫn hy vọng Ngài sẽ cứu Israel” (Lc 24,21) và bây giờ thì chấm dứt tất cả. Trước kia họ có hy vọng. Bây giờ thì không…thậm chí có thể còn là thất vọng. Cái chết của Đấng mà họ đặt niềm hy vọng giờ thì đã làm thay đổi tất cả. Ánh sáng mới loé ra bây giờ đã vụt tắt. Hy vọng mới ló dạng giờ đây đã tiêu tan và trước mắt chẳng có gì sáng sủa. Tương lai lại trở về với mù tối, u buồn và chán nản. Kiếp sống nô lệ tủi nhục chưa tìm được lối ra. Tất cả những gì mà người ta đồn về Ngài chẳng có gì đáng tin….Thế là hết . Đổ vỡ tất cả. Tan tành tất cả.

2/ Đứng trước thái độ thất vọng như thế, Chúa xử trí ra sao ?

Lúc đầu xem ra có vẻ Chúa hơi buồn: “Ôi những người khờ dại sao mà chậm tin những điều các tin tiên tri đã nói như thế ?”. Lúc sinh thời cũng đã có lần Chúa phàn nàn về sự chậm tin của các Tông đồ như vậy. Thế nhưng đó chỉ là những phản ứng rất chóng qua.

– Sau đó Chúa kiên nhẫn giúp các ông tìm lại niềm tin của mình. Thánh Luca đã cho chúng ta một chi tiết rất nhỏ nhưng khá thú vị. Đó là Chúa “bắt đầu từ Môsê đến tất cả các tiên tri giải thích cho các ông tất cả các lời Thánh Kinh ám chỉ về Ngài” (Lc 24,27). Luca bảo Chúa dùng “Tất cả những lời Kinh Thánh có liên hệ đến Ngài … để giải thích cho hai môn đệ mà Ngài gọi là chậm tin. Chúa không hề nhắc tới bất cứ một chứng cớ nào vừa mới xảy ra. Chúa chỉ dùng Thánh kinh. Đó là công việc Chúa làm cho hai môn đệ đang lúc đi đường.

Sau đó Chúa còn dùng thêm một gợi ý khác và chính nhờ công việc này mà hai môn đệ đã nhận ra Thầy chí Thánh của mình dễ dàng hơn. Tin Mừng kể sau khi cả ba đã vào quán trọ, trong khi bẻ bánh, Chúa đã làm lại một cử chỉ mà trước đó Chúa đã làm trong những giờ phút cảm động nhất cuối cuộc đời của Ngài. “Ngài cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai Ông”.(Lc 24,30)..y như Chúa đã trao cho các Tông đồ trong bữa tiệc ly lúc Chúa lập Bí tích yêu thương. Và như Tin Mừng ghi lại “Lập tức hai Ông nhận ra Chúa. Nhưng ngay sau đó thì Chúa biến đi”. (Lc 24,31)

Dù Chúa đã biến đi, nhưng chúng ta thấy hai môn đệ đã tỏ ra hết sức vui mừng. Và ngay trong đêm tối các ông đã hối hả gấp rút trở về Jêrusalem để báo tin vui cho các tông đồ. Thật là một niềm vui không thể không chia sẻ với người khác. Tin Mừng không cho chúng ta biết gì về cuộc sống của hai môn đệ sau đó. Nhưng chúng ta có quyền mà nói rằng chắc chắn họ sẽ nhìn cuộc sống với một cặp mắt khác hơn…không u ám xám xịt như trước, không còn thất vọng như trước nhưng tràn đầy niềm tin, ngập tràn hy vọng. Vì cuộc sống đã có Chúa.

3/ Nói tới đây tự nhiên tôi nhớ đến một câu chuyện rất hay mà mỗi khi đọc bài Tin Mừng này người ta hay nhắc đến. Chuyện kể rằng có một người thanh niên kia phải thực hiện một chuyến đi dài. Trong chuyến đi này có lúc anh phải đi ngang qua rất nhiều nơi. Một ngày kia anh phải băng qua một bãi biển có nhiều nguy hiểm. Dầu vậy anh cũng rất an tâm vì Chúa hứa cùng đi với anh. Tuy Chúa không hiện hình như một người bình thường anh vẫn có thể nhận ra Ngài qua những dấu chân được in trên cát. Hai dấu chân của anh và hai dấu chân của Chúa. Nhưng rồi tới một đoạn đường nọ anh gặp một cơn thử thách rất nặng nề. Nhìn xuống anh chỉ thấy có hai bàn chân in trên cát. Dầu sao thì anh vẫn dồn hết sức can đảm để tiến lên. Khi cơn thử thách đã qua, nhìn xuống anh lại thấy đủ bốn dấu chân in trên cát như trước. Anh có vẻ hơi buồn với Chúa cho nên anh đánh bạo hỏi Ngài:

“Thưa Thầy, lúc đó Thấy ở đâu ? Sao lại để con đi có một mình ?”

Chúa nhỏ nhẹ nói với anh: “Con hãy quay lại nhìn kỹ xem…đó là vết chân của ai ?”

Nhìn kỹ lại thì anh thì thấy đó không phải là vết chân của mình mà là vết chân của Chúa.

Thắc mắc anh hỏi Chúa: “Vậy lạy Thầy, lúc đó con ở đâu ?”

Chúa nhìn anh với cặp mắt đầy lòng yêu thương và trả lời: “Con ạ. Lúc con gặp khó khăn. Thầy biết con không đủ sức chịu đựng. Vì thế Thầy đã cõng con trên lưng của Thầy”

Câu chuyện phát xuất từ nước Brazil tận Nam Mỹ nhưng nội dung của nó cũng thật gần gũi với chúng ta.

Hai câu chuyện: một là câu chuyện hai môn đệ đi làng Emmau và hai là câu chuyện của một chàng thanh niên. Hoàn cảnh, không gian, thời gian tuy có khác nhau nhưng ý nghĩa của nó sao mà giống nhau quá.

Đời sống mãi mãi là cuộc hành hương. Trên con đường hành hương ấy chẳng thiếu gì những khó khăn, nhiều khi còn có cả ngã quỵ và đổ vỡ. Đừng tìm cách lẩn trốn những khó khăn. Cũng đừng quá quan trọng hóa những ngã quỵ và đổ vỡ. Cuộc đời làm sao tránh được những thất bại, làm sao tránh được những khổ đau, làm sao tránh được những lúc buồn lòng. Điều cần là tin vào Chúa. Không phải một Thiên Chúa xa vời chẳng ăn nhằm gì tới cuộc sống mà là một Thiên Chúa luôn đồng hành với chúng ta trong những bước đi của cuộc sống làm người. Không phải vô tình mà khi cắt nghĩa cho hai môn đệ đi đàng Emmau, Chúa đã dùng Kinh Thánh và dấu chỉ Bí tích Thánh thể để giúp họ nhận ra Chúa. Qua câu chuyện hai môn đệ đi đàng Emmau Chúa cũng muốn nói với mỗi người chúng ta rằng: Chúa cũng đang ở thật gần chúng ta. Vô hình vô tượng nhưng đầy tình thương. Ngài luôn đồng hành với chúng ta. Hãy tin tưởng ở Ngài và hãy can đảm bước đi những bước vững vàng và thanh thản trên con đường phục vụ để làm nên ý nghĩa cao cả cho cuộc đời và xứng đáng là môn đệ của Chúa Phục Sinh. Amen.