Chủ đề học hỏi và suy niệm tháng 9 năm 2020

Các bạn trẻ thân mến,

Tháng Tám vừa qua, chúng ta đã suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô – Đường Thánh Thiện. Tháng Chín này, chúng ta cùng nhau suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô – Đường Thinh Lặng. Hành trình dương thế của Đức Giê-su cho chúng ta nhận thức rằng Người vừa là Thiên Chúa, Đấng Thinh Lặng, vừa là Lời Thiên Chúa và là Đường Thinh Lặng của Thiên Chúa giữa dòng đời. Sự thinh lặng mà chúng ta đề cập trong bài viết này chủ yếu không phải là sự thinh lặng môi miệng, mà là sự thinh lặng tâm hồn, đặc biệt, tâm hồn hiệp thông với Thiên Chúa.

Trong Kinh Thánh Cựu Ước, tác giả Thánh Vịnh thốt lên: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Người làm” (Tv 19,2). Quả thật, thế giới thụ tạo và mặc khải Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng thinh lặng là một cách nói của Thiên Chúa hay ngôn ngữ của Người là ngôn ngữ thinh lặng. Từ buổi ban đầu Thiên Chúa sáng tạo cho đến hôm nay và tới thời cánh chung, Thiên Chúa nói bằng lời quá ít so với Thiên Chúa nói bằng sự thinh lặng. Như thế, sự thinh lặng của Thiên Chúa cũng có giá trị như Thiên Chúa nói bằng lời vậy. Do đó, con người không chỉ quan tâm đến cách truyền thông của Thiên Chúa qua những gì Thiên Chúa nói và làm trong dòng lịch sử, mà còn qua sự thinh lặng của Người nữa.

Nhiều lúc, con người cảm thấy Thiên Chúa thinh lặng như thể ‘ngoảnh mặt làm ngơ’ trước những thảm họa thiên nhiên, đặc biệt, trước đau khổ, bất công, bạo lực, chết chóc của con người. Thực ra, Thiên Chúa không thinh lặng như con người lầm tưởng. Người luôn tỉnh thức, bởi vì, Người ‘không bao giờ ngủ’, “Đấng gìn giữ Ít-ra-en, lẽ nào chợp mắt ngủ quên cho đành” (Tv 121,4). Người thinh lặng không có nghĩa Người không hiện diện, không hoạt động. Người luôn hiện diện, luôn hoạt động theo ‘thì’ của Người chứ không theo ‘thì’ của chúng ta. Con người thường mong muốn đường lối của Thiên Chúa giống đường lối của mình. Tuy nhiên, để hòa nhịp được với chương trình Thiên Chúa, đúng hơn, con người cần uốn nắn đường lối của mình theo đường lối của Thiên Chúa.

Hình ảnh Dân Do-thái rong ruổi bốn mươi năm trong sa mạc là bài học lớn cho chúng ta về sự thinh lặng, hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa. Đối với sự hiểu biết của con người, sa mạc là nơi không ai muốn đến, bởi vì, sa mạc thiếu nguồn nước, bóng cây, sức sống. Thế nhưng, từ sa mạc, Thiên Chúa đã biểu dương quyền năng và tình yêu đối với Dân Người. Sa mạc là nơi cằn cỗi, chết chóc, lại là nơi Thiên Chúa hiện diện và hoạt động cách mãnh liệt nhất. Điều đó cho chúng ta nhận thức rằng nơi con người bị yếu thế nhất, bất lực nhất, khổ đau nhất lại là nơi Thiên Chúa biểu dương tình yêu và quyền năng của Người. Nơi con người cho rằng ‘vắng bóng Thiên Chúa’ lại là nơi Thiên Chúa hiện diện để cứu giúp họ.

Nhờ tin tưởng vào Thiên Chúa và trung thành với sứ mệnh Người giao phó, trong cơn hoạn nạn, ngôn sứ Ê-li-a phải chạy trốn vua A-kháp và những người của vua. Ê-li-a đi bốn mươi đêm ngày lên núi Khô-rếp, núi của Thiên Chúa và nghỉ lại trong một cái hang. Nhiều biến cố ồn ào xảy ra trên núi, chẳng hạn như gió to, bão lớn, động đất, lửa cháy, nhưng Thiên Chúa không xuất hiện trong các biến cố đó. Tuy nhiên, khi có ‘tiếng gió hiu hiu’ hay ‘tiếng thì thào êm nhẹ’, Ê-li-a đã được ‘diện kiến’ Thiên Chúa và được trao sứ mệnh tiếp tục chương trình của Người. Điều này ngược với nhãn quan chung của các dân tộc Trung Đông thời đó cho rằng thần thánh hiện diện trong những biến cố ồn ào, náo động. Qua sự gặp gỡ với Thiên Chúa, Ê-li-a nhận ra rằng sứ mệnh của mình còn gặp nhiều bất trắc, đau khổ, nhưng luôn được sự nâng đỡ, phù trì của Người.

Trong Cựu Ước, tác giả sách Khôn Ngoan viết: “Khi vạn vật chìm sâu trong thinh lặng, lúc đêm trường chừng như điểm canh ba, thì từ trời cao thẳm, lời toàn năng của Ngài đã rời bỏ ngôi báu, ví tựa người chiến sĩ can trường xông vào giữa miền đất bị tru diệt, mang theo bản án không thể hủy của Ngài như lưỡi gươm sắc bén” (Kn 18,14-15). Thiên Chúa thinh lặng, trong môi trường vĩnh cửu, Thiên Chúa chỉ có một Lời thôi, Lời đó chính là Đức Giê-su Ki-tô. Nhờ Người và trong Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa tạo dựng muôn vật muôn loài và khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã ‘nói Lời đó’ trong môi trường thế giới thụ tạo. Lời đã làm người và ở giữa chúng ta (Is 7,14; Ga 1,1-18).

Giáng Sinh là biến cố thinh lặng. Ngôi Lời đến thế gian trong đêm tối, trong thinh lặng. Người đã không xuất hiện ‘ồn ào’ ở Giê-ru-sa-lem hay nơi phố phường đông đúc, nhộn nhịp, vội vã nào đó của đất nước Do-thái, nhưng đã xuất hiện ‘kín tiếng’ ở Bê-lem quê mùa. Lời bài hát nổi tiếng nhất trong dịp Giáng Sinh diễn tả rất đúng về Biến Cố này: Đêm thinh lặng, đêm thánh thiện, tất cả an bình (silent night, holy night, all is calm). Sự thinh lặng của Biến Cố Giáng Sinh là sự thinh lặng linh thiêng, sự thinh lặng nhiệm mầu, sự thinh lặng ban ơn cứu độ. Sự thinh lặng này giúp cho những ai thao thức tìm Người có thể nghe được lời chỉ dẫn để đến gặp Người.

Chúng ta nhận thức rằng đặc tính chung của mọi người trong Gia Đình Na-da-rét là thinh lặng. Thánh Giu-se thinh lặng, Đức Ma-ri-a thinh lặng, Đức Giê-su thinh lặng. Sự thinh lặng của Thánh Gia diễn tả sự thinh lặng của Gia Đình Thiên Chúa. Kinh Thánh Tân Ước chỉ có ‘7 lời’ của Đức Ma-ri-a (Lc 1,34; Lc 1,38; Lc 1,40; Lc 1,46-55; Lc 2,48; Ga 2,3; Ga 2,5). Còn thánh Giu-se thì các tác giả Kinh Thánh Tân Ước không ghi lại lời nói trực tiếp nào của ngài. Đặc tính duy nhất diễn tả thánh Giu-se là ‘công chính’. Trong bối cảnh Kinh Thánh, người công chính cũng chính là người thánh thiện, người thinh lặng, người luôn kết hợp với Thiên Chúa và thực thi thánh ý Người.

Đức Ma-ri-a không chỉ thinh lặng, mà còn ‘ghi nhớ những điều đó và suy đi nghĩ lại trong lòng’, nghĩa là trong môi trường thinh lặng (Lc 2,19.51). Sự thinh lặng của Đức Ma-ri-a chính là ‘sự thinh lặng cộng tác vào chương trình của Thiên Chúa’. Đức Ma-ri-a đã học được ngôn ngữ Thiên Chúa và nói chuyện với Người bằng ngôn ngữ này. Sự thinh lặng của Đức Ma-ri-a là sự thinh lặng thánh thiện, bởi vì sự thinh lặng của Đức Ma-ri-a đồng nghĩa với việc suy niệm Lời Chúa, yêu mến Thiên Chúa, phụng thờ Thiên Chúa, tin tưởng vào Thiên Chúa, hy vọng vào Thiên Chúa, phó thác đường đời cho Thiên Chúa và ngạc nhiên trước mặc khải của Thiên Chúa trong công trình sáng tạo, cứu chuộc và thánh hóa.

Thánh Giu-se là người có đời sống thinh lặng đặc biệt. Khi được tin Đức Ma-ri-a, bạn đời của mình mang thai và chắc chắn rằng đó không phải là con ruột của mình, ngài có ý định lìa bỏ Đức Ma-ri-a cách kín đáo, cách thinh lặng. Tuy nhiên, trong giấc mơ, sứ thần truyền tin cho thánh Giu-se và trao ban sứ mệnh đón Đức Ma-ri-a về nhà mình. Không như những trường hợp khác, chẳng hạn, việc truyền tin cho Đức Ma-ri-a hay truyền tin cho Da-ca-ri-a đều diễn ra khi các ngài thức tỉnh, còn thánh Giu-se thì được truyền tin trong giấc mơ, trong thinh lặng. Tuy nhiên, thánh nhân đã trung tín thực thi thánh ý Thiên Chúa. Đức Giê-su được sinh ra và lớn lên với sự chăm sóc âm thầm và cần mẫn của thánh Giu-se. Như Đức Ma-ri-a, thánh Giu-se luôn ở lại với Thiên Chúa, lắng nghe Lời Thiên Chúa, tin tưởng vào Lời Thiên Chúa, hiệp thông với Lời Thiên Chúa và thực thi Lời Thiên Chúa cách trung tín nhất. Đặc biệt, thánh nhân đắm chìm trong mầu nhiệm Con Thiên Chúa xuống thế làm người và giữ vai trò quan trọng trong chương trình kỳ diệu này.

Người ta thường nói rằng ‘con nhà tông không giống lông cũng giống cánh’. Đức Giê-su là Thiên Chúa, Đấng Thinh Lặng, tuy nhiên, trong thân phận con người, Đức Giê-su cũng học hỏi được đời sống thinh lặng từ Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se. Cuộc đời trần thế của Đức Giê-su là cuộc đời thinh lặng. Ngoại trừ Biến Cố Giáng Sinh và sự việc xảy ra lúc Người mười hai tuổi ở Giê-ru-sa-lem, chúng ta không biết gì nữa về thời thơ ấu của Người cho đến khi Người bắt đầu sứ mệnh loan báo Tin Mừng. Trước các biến cố lớn trong hành trình loan báo Tin Mừng, Đức Giê-su luôn dành thời gian thinh lặng và cầu nguyện. Người đã vào sa mạc ăn chay, cầu nguyện và chịu ma quỉ cám dỗ bốn mươi đêm ngày. Sự kiện này gợi lên cho chúng ta biến cố Dân Do-thái rong ruổi trong sa mạc bốn mươi năm. Thay vì thinh lặng để đón nhận và thực thi thánh ý Thiên Chúa, họ đã nhiều lần to tiếng, than trách và phản nghịch chương trình Thiên Chúa. Trong khi đó, Đức Giê-su thinh lặng để gặp gỡ Thiên Chúa Cha, thinh lặng để nhận ra sứ mệnh của mình, thinh lặng để đón nhận sức mạnh chống trả ma quỉ, thinh lặng để cảm nhận sự đau khổ của thân phận con người, thinh lặng để nhận ra những bất cập gây nên bởi ‘sự ô nhiễm tiếng ồn’ trong xã hội loài người do tội lỗi gây nên.

Không nơi nào trong Tin Mừng cho thấy rằng Đức Giê-su dùng ‘quá nhiều lời’ khi giảng dạy dân chúng. Người dùng lời vừa đủ cho người nghe. Có những điều Người không giải thích dài dòng, nhưng dùng dụ ngôn để có thể giảm thiểu lời nói. Thánh Mác-cô trình thuật: “Người dùng nhiều dụ ngôn tương tự mà rao giảng lời cho họ, tùy theo mức họ có thể nghe. Người không bao giờ rao giảng cho họ mà không dùng dụ ngôn” (Mc 4,33-34). Có những lúc sau khi giải thích, Đức Giê-su nói với những người lắng nghe: “Ai hiểu được thì hiểu” (Mt 19,12). Rõ ràng, trong hành trình rao giảng, Đức Giê-su đề cao việc thinh lặng, lắng nghe và phân định của thính giả.

Khi Đức Giê-su chữa người vừa điếc vừa ngọng ở miền Thập Tỉnh, Người truyền cho những người chứng kiến không được kể lại chuyện đó (Mc 7,31-36). Tương tự như vậy, sau khi biến hình trên núi Ta-bo, từ trên núi xuống, Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy” (Mt 17,1-8). Câu hỏi đặt ra là tại sao Đức Giê-su lại nói với các môn đệ như vậy? Thưa, tại vì Đức Giê-su muốn con người hiểu đúng hơn về sứ mệnh của Người giữa lòng nhân thế. Người muốn tất cả đều thinh lặng cho đến khi toàn bộ sự thật về chương trình dương thế của Người được biểu lộ cách trọn vẹn trong khổ nạn, chịu chết và phục sinh của Người. Người cũng muốn các môn đệ hiểu rằng một lời nói mà không hiểu được ý nghĩa, một lời tuyên xưng đức tin mà không đi kèm hành động và lối sống phù hợp, thì đó chỉ là những tiếng kêu trống rỗng, không chuyển tải sự thật.

Thánh Mát-thêu trình thuật rằng khi Đức Giê-su đi về miền dân ngoại (địa hạt Tia và Xi-đôn, ngày nay ở phía Nam đất nước Li-băng), một người phụ nữ Ca-na-an xuất hiện và xin Đức Giê-su trừ quỉ cho con gái của bà. Tuy nhiên, ban đầu, Đức Giê-su thinh lặng, không trả lời sự khẩn cầu của người phụ nữ. Sau đó là cuộc đối thoại ngắn và Đức Giê-su đã tán dương bà: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy” (Mt 15,28). Niềm tin và sự kiên nhẫn của bà đã được đền đáp bằng việc con bà được chữa khỏi. Như vậy, sự thinh lặng của Đức Giê-su đã đem lại hiệu quả lớn lao, đó là lòng thương xót của Thiên Chúa được biểu lộ và niềm tín thác của người phụ nữ được củng cố. Đọc Tân Ước, chúng ta có được nhận thức chung rằng, sau sự thinh lặng, Đức Giê-su thường mặc khải những điều lớn lao, kỳ diệu để cứu giúp mọi người.

Câu chuyện Đức Giê-su cho La-da-rô hồi sinh đáng để chúng ta quan tâm. Khi nghe tin La-da-rô, người được Đức Giê-su thương mến bị đau nặng, Người đã không trực tiếp đến thăm viếng ngay. Người đã thinh lặng trước cái chết của La-da-rô, còn La-da-rô thì thinh lặng trong mộ. Khi Người tới thì La-da-rô đã được chôn trong mộ bốn ngày, đã ‘nặng mùi’ rồi. Tuy nhiên, Đức Giê-su đã làm cho La-da-rô hồi sinh trước sự ngỡ ngàng của hai chị em Mác-ta và Ma-ri-a cũng như những người thân thuộc. Sự thinh lặng, sự chậm trễ của Đức Giê-su được xem như chuẩn bị cho mặc khải lớn lao là hồi sinh kẻ chết. Trong biến cố này có bốn điểm quan trọng đáng để chúng ta quan tâm: (1) tình yêu của Đức Giê-su, (2) quyền năng của Đức Giê-su, (3) căn tính của Đức Giê-su là ‘sự sống lại và là sự sống’ (Ga 11,25), và (4) niềm hy vọng vào sự sống vĩnh cửu của mọi người được diễn tả và củng cố.

Trong vườn Ghết-sê-ma-ni, chúng ta thấy hai cảnh thinh lặng: (1) Đức Giê-su và (2) các môn đệ. Đức Giê-su ‘thinh lặng cầu nguyện’, còn các môn đệ thì ‘thinh lặng ngủ nghỉ’. Chúng ta có thể gọi hai hình thức thinh lặng này là ‘thinh lặng siêu nhiên’ (Đức Giê-su) và ‘thinh lặng tự nhiên’ (các môn đệ). Cũng trong vườn Ghết-sê-ma-ni, thinh lặng siêu nhiên đưa đến sự tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa Cha và kết hợp với Người. Đức Giê-su đã thưa lên với Thiên Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà làm theo ý Cha” (Lc 22,42). Quả thật, trong thân phận con người, Đức Giê-su cảm nhận được sự cô đơn, đau khổ tột bậc. Nhưng Người luôn tin tưởng và vâng phục thánh ý Thiên Chúa Cha và đã trở nên căn nguyên cứu độ tất cả mọi người.

Thánh Lu-ca trình thuật rằng trong cuộc khổ nạn, khi Đức Giê-su bị bắt, “một người tớ gái nhìn Phê-rô chòng chọc và nói: Cả bác này cũng đã ở với ông ấy đấy! Ông liền chối: Tôi có biết ông ấy đâu, chị!” (Lc 22,56-57). Sau đó, một người khác nữa cũng quả quyết rằng Phê-rô ở với Đức Giê-su, Phê-rô chối phăng. Khi người thứ ba khẳng định Phê-rô ở với Đức Giê-su, Phê-rô vừa chối xong thì gà gáy. Đó là hệ quả của sự ‘thinh lặng tự nhiên’ từ phía các môn đệ trong vườn Ghết-sê-ma-ni. Sau đó, Đức Giê-su quay lại nhìn Phê-rô và Phê-rô nhớ lại lời Đức Giê-su: “Hôm nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần” (Lc 22,61). Phê-rô đã ăn năn hối cải. Thánh Lu-ca không cho chúng ta biết ánh mắt của hai người sau có nhìn Phê-rô ‘chòng chọc’ như người tớ gái đầu tiên hay không, nhưng ánh mắt của những người đó đã làm cho trái tim của Phê-rô loạn nhịp và Phê-rô đã chối Thầy mình. Tuy nhiên, khi ánh mắt thinh lặng, ánh mắt nhân từ, ánh mắt tha thứ, ánh mắt trái tim của Đức Giê-su hướng về Phê-rô, vị tông đồ đã ăn năn hối cải. Từ đây, Phê-rô đã trung thành với ơn gọi và sứ mệnh của mình cho đến lúc bị treo ngược trên thập giá và tử đạo tại Rô-ma. Đây là hệ quả của sự ‘thinh lặng siêu nhiên’ xuất phát từ sự kết hiệp mật thiết với Đức Giê-su.

Tam Nhật Vượt Qua luôn là thời gian đặc biệt, thời gian quan trọng nhất, thời gian đỉnh điểm, thời gian trung tâm diễn tả tương quan giữa Thiên Chúa và con người. Trước cái chết, Đức Giê-su cảm nhận được sự thinh lặng nhiệm mầu của Thiên Chúa. Đức Giê-su đã thốt lên: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27,43). Với cái chết, Đức Giê-su đã xuống vực thẳm thinh lặng rùng rợn nhất của thân phận con người. Đức Giê-su đã tham dự vào sự thinh lặng đau thương của tất cả mọi người trong gia đình nhân loại. Người thông phần với sự thinh lặng này để ban ơn cứu độ cho tất cả mọi người. Như vậy, sự thinh lặng kỳ diệu nhất của Đức Giê-su trong hành trình nhân thế là sự thinh lặng trong nấm mộ. ‘Vị Thiên Chúa chết’, đó là sự kiện không những không thể tưởng tượng nổi đối với những người Hy-lạp hay Do-thái, mà còn không thể tưởng tượng nổi đối với tất cả mọi người trong các nền văn hóa từ cổ chí kim. Hôm nay, ‘Vị Thiên Chúa chết’ vẫn còn là nỗi ám ảnh cho biết bao người. Quả thực, nếu cuộc đời Đức Giê-su chỉ tới đó thì không còn gì để nói nữa. Tuy nhiên, Người đã tiêu diệt sự chết, Người đã sống lại. Sự chết mạnh, nhưng sự thinh lặng của Đức Giê-su trong sự chết còn mạnh hơn. Sự chết mạnh, nhưng tình yêu Thiên Chúa được thực hiện nơi Đức Giê-su còn mạnh hơn. Sự chết mạnh, nhưng sự sống lại của Đức Giê-su còn mạnh hơn. Sự chết mạnh, nhưng tiếng nói cuối cùng của con người và muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo không phải là tiếng nói của sự chết, nhưng là tiếng nói của Đấng Phục Sinh, Đấng Thinh Lặng, Đấng Hằng Sống.

Những gì Đức Giê-su nói và làm trong hành trình dương thế minh chứng rằng Người từ Thiên Chúa mà đến, Người là Thiên Chúa. Tuy nhiên, con người thường quan tâm đến nhân tính của Đức Giê-su hơn là thần tính của Người. Thần tính của Người hầu như ‘thinh lặng’, ẩn dấu, bởi vì trong mọi sự, Đức Giê-su đều qui hướng về Thiên Chúa Cha, chứ không phải bản thân mình. Giáo Hội sơ khai cần đến gần năm thế kỷ để có được định tín cách đầy đủ hơn về Đức Giê-su, Thiên Chúa thật và con người thật với Công Đồng Can-xê-đô-ni-a (Chalcedon, 451). Những khai triển và học hỏi về Đức Giê-su vẫn tiếp tục trong khi Đức Giê-su vẫn thinh lặng.

Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta ngạc nhiên trước những gì mắt chúng ta thấy được, tai chúng ta nghe được và lòng chúng ta cảm nghiệm được. Chúng ta ngạc nhiên trước những khám phá của con người về những qui luật trong vũ trụ. Chúng ta ngạc nhiên trước những gì mà thế giới tự nhiên ban tặng để con người sống xứng đáng với phẩm giá của mình. Tuy nhiên, những gì mắt chúng ta không thấy, trí và tâm chúng ta không thể đụng chạm hay cảm nghiệm được lại còn kỳ diệu hơn. Chẳng hạn, có những hình thức tồn tại khác trong thế giới thụ tạo này mà con người không thể nào vươn tới hay giải thích được trong điều kiện hiện tại, chẳng hạn như năng lượng tối (dark energy) hay vật chất tối (dark matter). Bản chất đích thực của ‘năng lượng tối là gì?’ hay ‘vật chất tối là gì?’, chưa ai có thể biết và diễn tả cách đầy đủ được. Điều mà con người biết được là: Nếu không có năng lượng tối và vật chất tối thì vũ trụ khả giác, vũ trụ vật chất, vũ trụ cấu tạo bằng những ‘viên gạch nguyên tử’ không thể tồn tại được. Quả thật, những gì ‘vô hình trong thế giới thụ tạo’ luôn dồi dào và kỳ diệu hơn những gì hữu hình mà con người có thể cân đong đo đếm hay giải thích. Nói cách khác, ‘những gì thinh lặng’ thì kỳ diệu hơn, mạnh mẽ hơn, siêu việt hơn ‘những gì ồn ào’. Trong thế giới thụ tạo, con người có thể cảm nghiệm được rằng ‘thinh lặng là đỉnh cao của âm thanh’. Trong thinh lặng của tâm hồn và không gian, con người có thể nghe được tiếng nói của lương tâm, tiếng nói của vũ hoàn và tiếng nói của Đấng Sáng Tạo.

Trong lĩnh vực khoa học, nhiều trường hợp cho thấy những khám phá về các quy luật thiên nhiên, hoặc các phát minh kỳ diệu, lại là hệ quả của tiến trình thinh lặng. Câu chuyện Isaac Newton thấy trái táo rơi và đã khám phá ra định luật vạn vật hấp dẫn là câu chuyện giúp chúng ta hiểu được tầm quan trọng của thinh lặng. Chắc rằng Newton đã thinh lặng, đã tìm hiểu, đã ưu tư nhiều về sự thinh lặng của muôn vật muôn loài trong vũ trụ. Việc Newton khám phá ra định luật vạn vật hấp dẫn là hiệu quả, là hoa trái của tiến trình lâu dài, chứ không chỉ là sản phẩm của ngạc nhiên, may rủi. Nếu Newton không thinh lặng, không chú tâm đủ thì không bao giờ có được hoa trái mỹ mãn như vậy. Nhìn chung, những khám phá, sáng chế từ các nhà khoa học thuộc các lĩnh vực khác nhau đều đến từ những người có khả năng đi vào thế giới thinh lặng. Như vậy, những người biết thinh lặng, biết chuẩn bị mới có thể đọc được những gì xảy đến cách bất ngờ.

Chúng ta không chỉ được mời gọi lắng nghe tiếng nói của người này, người kia mà còn được mời gọi lắng nghe ‘tiếng nói của thinh lặng’. Đặc điểm của các thánh trong lịch sử Giáo Hội là thực thi đời sống thinh lặng. Nói cách khác: Những người thánh thiện cũng là những người thinh lặng [sự thinh lặng của tâm hồn hiệp thông với Thiên Chúa] và ngược lại. Nhờ thinh lặng, các ngài có được kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa và diễn tả kinh nghiệm gặp gỡ đó bằng lời nói và hành động thánh thiện của mình. Đọc hạnh các thánh tử đạo, ai cũng ngạc nhiên về sự thinh lặng, sự bình an của các ngài khi phải đối diện với cái chết. Chúng ta cần ý thức rằng để có được sự thinh lặng, sự bình an như vậy, các ngài đã thực thi đời sống thinh lặng, đời sống bình an. Nói cách khác, các ngài đã chuẩn bị cho sự thinh lặng, sự bình an trước cái chết bằng cuộc đời thinh lặng, cuộc đời bình an gắn kết mật thiết với Đức Giê-su, Đường Thinh Lặng, Đường Bình An, được Thiên Chúa gửi đến cho nhân loại.

Theo gương Đức Giê-su, các nhà thần bí (mystics) là những người có kinh nghiệm đặc biệt về môi trường thinh lặng. Họ nhận ra rằng đời sống thinh lặng là đời sống lý tưởng để họ gặp gỡ Thiên Chúa và thỉnh vấn ý Người. Các ngài đã trở nên mẫu gương sống động cho chúng ta về sự hoán cải và qui hướng về Thiên Chúa, chẳng hạn như thánh Gio-an Tẩy Giả, Tê-rê-xa A-vi-la, Gio-an Thánh Giá. Họ là những nhân chứng mạnh mẽ nhất cho sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa, cũng như tình yêu của Người. Mẹ Tê-rê-xa Can-cút-ta nói: “Hoa trái của thinh lặng là cầu nguyện, hoa trái của cầu nguyện là niềm tin, hoa trái của niềm tin là tình yêu, hoa trái của tình yêu là phục vụ, hoa trái của phục vụ là bình an.” Như vậy, thinh lặng là khởi đầu cho những hiệu quả tốt lành: Cầu nguyện, đức tin, tình yêu, phục vụ, bình an. Thực ra, theo một nghĩa nào đó thì ‘bình an’ cũng có nghĩa là ‘thinh lặng’ hay nói cách khác, môi trường bình an cũng là môi trường thinh lặng và ngược lại. Như vậy, ‘thinh lặng’ vừa là khởi đầu, vừa là kết thúc, vừa là khởi đầu mới.

Thinh lặng là điều kiện cần thiết để chúng ta nhận ra Thiên Chúa, nhận ra bản thân mình. Trong tác phẩm Tự Thuật, thánh Au-gút-ti-nô viết: ‘Thiên Chúa thân mật với tôi hơn tôi với chính mình’ (Deus est intimior intimo meo) hay ‘Thiên Chúa sâu thẳm trong tôi hơn tôi với chính mình và cao cả trong tôi hơn tôi với chính mình’ (Deus est interior intimo meo et superior summo meo). Chắc chắn rằng, nhờ thinh lặng, thánh nhân đã có được kinh nghiệm quí giá đó và ngài đã truyền lại cho tất cả mọi người. Sứ điệp mà ngài muốn gửi đến là: Khi con người càng gần Thiên Chúa bao nhiêu, thì càng gần chính mình bấy nhiêu và ngược lại.

Người ta kể lại rằng trong đại chiến thế giới lần thứ hai (1939-1945), quân lính Đức lùng bắt tất cả những người Do-thái và tống vào các trại tập trung. Ở đây, họ phải chịu nhiều hình thức cực hình cho đến chết. Có một cô gái trẻ Do-thái thoát được và trốn trong một cái hang. Khi người ta tìm thấy xác cô, họ cũng phát hiện trên bức tường của hang đó cô gái viết mấy câu: “Tôi tin có mặt trời, ngay cả khi nó không chiếu sáng. Tôi tin vào tình yêu, ngay cả khi tôi đơn độc. Tôi tin vào Thiên Chúa, ngay cả khi Người thinh lặng.” Với cô gái Do-thái này, khi con người không thấy mặt trời, không có nghĩa là mặt trời không hoạt động. Khi con người đơn độc, không có nghĩa là tình yêu không hiện hữu. Tương tự như thế, khi Thiên Chúa thinh lặng không có nghĩa là Người không hành động.

Thinh lặng, lời nói và hành động được xem là ba cột trụ căn bản trong đời sống con người. Trong đó, thinh lặng đóng vai trò quan trọng nhất. Thinh lặng chính là căn nguyên, là nền tảng và là môi trường khởi xuất lời nói và hành động. Nếu con người không có được sự thinh lặng đúng nghĩa, con người cũng không thể nói năng và hành động đúng được. Như vậy, vấn đề chính yếu mà chúng ta cần quan tâm là luôn tạo sự hòa hợp giữa thinh lặng, lời nói và hành động. Trong trường hợp không thể, ưu tiên phải là thinh lặng. Tuy nhiên, khi sự lên tiếng hay hành động của chúng ta đem lại bình an, sự thật, sự lành thì chúng ta cần phải thực thi. Còn người nào chỉ có nói mà không hành động tốt, thì họ không phải là người môn đệ thực thụ của Đức Giê-su (Mt 7,21-27). Thánh Phao-lô viết: “Hãy rao giảng lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện; hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ” (2 Tm 4,2).

Người Ni-giê-ri-a có câu ngạn ngữ: “Hãy lắng nghe và bạn sẽ nghe được bước chân của những con kiến.” Chúng ta học hành và luyện tập nhiều thứ để chuẩn bị cho cuộc sống. Tuy nhiên, chúng ta ít luyện tập cho mình khả năng thinh lặng. Ai không có khả năng thinh lặng, người đó cũng không có khả năng lắng nghe tiếng lòng mình, và cũng không thể lắng nghe tiếng Thiên Chúa, bởi vì tiếng Thiên Chúa đến với những tâm hồn thinh lặng. Hơn nữa, thinh lặng là điều kiện cần thiết giúp chúng ta phân biệt đâu là tiếng Thiên Chúa và đâu là tiếng của ác thần. Tiếng Thiên Chúa thường là tiếng mời gọi sống bác ái, hoán cải, hướng tới sự lành. Tiếng ma quỉ thường là tiếng xui khiến, rủ rê, chia rẽ, tạo nghi ngờ lẫn nhau, đặc biệt, nghi ngờ về tình yêu Thiên Chúa hay sự hiện diện và hoạt động của Người.

Năng lực thinh lặng diễn tả căn tính, đời sống và sứ mệnh của chúng ta không phải tự nhiên mà có, trái lại, chúng ta cần không ngừng vun đắp mỗi ngày. Chúng ta cần tạo cho mình khả năng thinh lặng hơn là khả năng ồn ào, khả năng lắng nghe hơn là khả năng gào thét, khả năng thông cảm hơn là khả năng chỉ trích, khả năng nhìn nhận những điều tốt nơi người khác hơn là khả năng ‘vạch lá tìm sâu’ nơi họ, khả năng giúp người khác biến đổi hơn là khả năng trù dập, khả năng cởi mở hơn là khả năng đóng kín, khả năng trút bỏ hơn là khả năng sở hữu. Để có được những khả năng đó, chúng ta không có con đường nào khác ngoài Đường Thinh Lặng của Đức Giê-su.

Trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng họ ở giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian (Ga 15,18-19). Câu hỏi đặt ra là làm sao các môn đệ có thể không thuộc về thế gian được? Câu trả lời là các môn đệ ở giữa thế gian với muôn vàn tiếng động, tuy nhiên, các ngài có được sự thinh lặng hay sự bình an của Đức Giê-su, bình an mà thế gian không thể ban tặng (Ga 14,27). Tâm hồn các ngài được liên kết mật thiết với Đức Giê-su. Nhờ đó, các ngài vững tâm giữa muôn vàn bấp bênh, khốn khó và đau khổ của cuộc đời. Đồng thời, các ngài trở nên khí cụ hữu hiệu trong việc loan báo Đức Giê-su và Tin Mừng của Người cho anh chị em đồng loại.

Đường của Đức Giê-su là Đường Thinh Lặng, Đường giúp chúng ta gặp gỡ chính mình, gặp gỡ anh chị em chúng ta, gặp gỡ muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo, đặc biệt, gặp gỡ Thiên Chúa. Để đi Đường đó, chúng ta được mời gọi thinh lặng để chiêm ngắm Đức Giê-su trong máng cỏ, chiêm ngắm Đức Giê-su trong lúc trốn sang Ai-cập, chiêm ngắm Đức Giê-su trong Gia Đình Na-da-rét. Chúng ta được mời gọi thinh lặng để chiêm ngắm Đức Giê-su trong sa mạc bốn mươi đêm ngày, chiêm ngắm Đức Giê-su cúi xuống với những người bệnh tật, bị quỉ ám và muôn hình thức đau khổ khác, chiêm ngắm Đức Giê-su trên núi Ta-bo. Chúng ta được mời gọi để chiêm ngắm Đức Giê-su trên thập giá, chiêm ngắm Đức Giê-su chịu chết và chịu mai táng trong mộ, chiêm ngắm Đức Giê-su phục sinh vinh hiển. Đặc biệt, chúng ta được mời gọi thinh lặng để chiêm ngắm Đức Giê-su Thánh Thể, chiêm ngắm Đức Giê-su khi chia sẻ Lời Chúa, chiêm ngắm Đức Giê-su trong anh chị em mình.

Qua những gì được trình bày trên đây, chúng ta có thể xác quyết rằng Thiên Chúa là Đấng Thinh Lặng và Đức Giê-su đã đi Đường Thinh Lặng để đến với gia đình nhân loại. Cuộc đời Người trong hành trình trần thế đặt nền tảng trên sự thinh lặng. Là Thiên Chúa trong thân phận con người, Đức Giê-su trở nên mẫu gương cho chúng ta về đời sống thinh lặng, cầu nguyện, vâng phục, tin tưởng, lắng nghe và thực thi thánh ý Thiên Chúa. Trong Chúa Thánh Thần, Đức Giê-su luôn hiện diện với tất cả chúng ta. Giữa cảnh ồn ào, náo động của thế sự, Người luôn mời gọi tất cả chúng ta hãy đi Đường Thinh Lặng của Người để chúng ta có thể đạt được sự hòa hợp giữa các yếu tố trong đời sống cá nhân, hòa hợp với anh chị em, hòa hợp với muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo, và đặc biệt, hòa hợp với Thiên Chúa.

Gm. Phêrô Nguyễn Văn Viên
Ủy ban Giới Trẻ và Thiếu Nhi / HĐGM VN

Các chủ đề học hỏi và suy niệm năm 2020:

Chủ đề học hỏi và suy niệm tháng 8 năm 2020

Các bạn trẻ thân mến,

Tháng Bảy vừa qua, chúng ta đã suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô – Đường Mục Tử Nhân Lành. Tháng Tám này, cùng nhau chúng ta suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô – Đường Thánh Thiện. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa là Đấng Thánh và là Nguồn mọi sự thánh thiện. Đức Giê-su, Con Thiên Chúa, đã đi Đường Thánh Thiện để đến với gia đình nhân loại. Đường đó tiếp tục sống động trong Giáo Hội, Thân Thể Mầu Nhiệm của Người, và được diễn tả cách cụ thể nơi đời sống của các Ki-tô hữu qua mọi thời đại.

Thông thường, thánh thiện được hiểu như là tình trạng của thực thể (người hoặc sự vật) được dành riêng cho mục đích tôn giáo hoặc tiến dâng cho Thiên Chúa. Còn theo thánh Tô-ma A-qui-nô, thánh thiện là đức hạnh mà con người diễn tả chính mình cũng như hành động phù hợp với thánh ý Thiên Chúa. Người thánh thiện là người ‘gần với căn tính’ của mình nhất. Kinh nghiệm của các thánh trong dòng lịch sử Giáo Hội cho chúng ta biết như vậy. Đặc biệt, đây cũng là kinh nghiệm của thánh Au-gút-ti-nô và Tô-ma Mơ-tần (Thomas Merton, tu sĩ Dòng Trappist). Nói cách khác, con người càng thánh thiện bao nhiêu, thì càng gần gũi với căn tính của mình bấy nhiêu.

Mặc khải Kinh Thánh cho chúng ta nhận thức rằng Thiên Chúa là Đấng Tự Hữu và là Đấng Thánh. ‘Tên’ của Thiên Chúa là ‘Thánh’ (Ed 36,22-24; Lc 1,49). Trong tiếng Do-thái, hạn từ ‘thánh’ là ‘qadosh’ và được dịch sang tiếng Hy Lạp là ‘hagios’. Hạn từ này có nghĩa nguyên thủy là cắt, tách biệt. Thiên Chúa tách ra khỏi những gì phàm tục. Người siêu việt muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo. Thiên Chúa được tung hô: ‘thánh, thánh, thánh’ (Thiên Chúa ba lần thánh) nhằm diễn tả sự siêu việt với ‘sức mạnh vô song’ và ‘thánh thiện tuyệt đối’ của Người. Cách tung hô này được đề cập hai lần trong bộ Kinh Thánh, một lần trong Cựu Ước và một lần trong Tân Ước (Is 6,3; Kh 4,8). Trong mỗi Thánh Lễ, trước khi bánh và rượu được thánh hiến, cộng đoàn Thánh Thể tung hô ‘thánh, thánh, thánh’. Sự thánh thiện tuyệt đối của Thiên Chúa là đặc tính căn bản nhất, các đặc tính khác liên kết hoặc diễn tả đặc tính thánh thiện của Người.

Thiên Chúa thông truyền sự thánh thiện của Người cho muôn vật muôn loài. Người thông truyền qua việc thánh hiến, tách biệt con người và vật ra khỏi thế giới phàm tục theo ý định của Người. Chẳng hạn, Thiên Chúa đã tách biệt Dân Do-thái khỏi các dân khác và trao ban sứ mệnh cộng tác vào chương trình cứu độ của Người. Trong sách Lê-vi, Thiên Chúa phán: “Các ngươi phải thuộc về Ta, phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Ta là Đấng Thánh, và Ta đã tách biệt các ngươi ra khỏi các dân để các ngươi thuộc về Ta” (Lv 20,26). Ngay trong Dân Do-thái, chi tộc Lê-vi được dành riêng để ‘chuyên lo việc Nhà Chúa’. Một số đồ vật cũng được thánh hiến hay dành riêng cho việc tế tự.

Sự thánh thiện của Thiên Chúa được biểu lộ qua vinh quang của Người. Vinh quang chiếu giãi vào đời sống con người và biến đổi con người thành không gian thánh thiện, nhờ đó, con người diễn tả sự thánh thiện và lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Điều này có nghĩa là con người không chỉ thụ động đón nhận phẩm chất thánh thiện Thiên Chúa trao ban, mà còn được mời gọi cộng tác với Thiên Chúa trong việc thánh hóa bản thân, thánh hóa người khác và cùng nhau làm lành lánh dữ. Sự thánh thiện song hành với thực thi đời sống luân lý tốt đẹp là hệ quả tất yếu của tương quan giữa Thiên Chúa là Đấng Thánh và con người được mời gọi nên thánh.

Trong phụng vụ của Giáo Hội, theo Kinh nguyện Thánh Thể II: Thiên Chúa là ‘nguồn mạch mọi sự thánh thiện’. Điều này có nghĩa rằng sự thánh thiện của Thiên Chúa là sự thánh thiện Gốc, sự thánh thiện Nguồn. Các hình thức thánh thiện trong môi trường thế giới thụ tạo phản chiếu sự thánh thiện của Thiên Chúa. Đặc biệt, sự thánh thiện của Thiên Chúa được biểu lộ cách trọn vẹn nơi sự thánh thiện của Đức Giê-su trong hành trình trần thế.

Là Thiên Chúa trong thân phận con người, sự thánh thiện của Đức Giê-su được diễn tả qua hai hình thức phân biệt nhau: ‘Sự thánh thiện từ trên xuống’ và ‘sự thánh thiện từ dưới lên’. ‘Sự thánh thiện từ trên xuống’ có nghĩa rằng Đức Giê-su diễn tả sự thánh thiện của Thiên Chúa đối với con người, bởi vì Người là Thiên Chúa thật. ‘Sự thánh thiện từ dưới lên’ có nghĩa rằng Đức Giê-su diễn tả sự thánh thiện của con người, bởi vì Đức Giê-su là con người thật. Nhân danh toàn thể nhân loại, Đức Giê-su đã vâng phục đáp lại chương trình của Thiên Chúa và trở nên mẫu gương hoàn hảo cho tất cả mọi người trong gia đình nhân loại. Chúng ta có thể nói rằng hai hình thức thánh thiện này trở nên một nơi Đức Giê-su, Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người. Như vậy, Đức Giê-su là Đường Thánh Thiện hai chiều, từ Thiên Chúa đến con người và từ con người đến Thiên Chúa.

Trong Cựu Ước, sách Sáng Thế cho chúng ta biết sau khi Nguyên Tổ phạm tội, Thiên Chúa đã ban Lời Hứa về chiến thắng của sự thánh thiện trên sự dữ (St 3,15). Khoảng 700 năm trước Biến Cố Giáng Sinh, ngôn sứ I-sai-a loan báo về Đức Giê-su, Đấng gánh tội nhân loại để muôn người được trở nên thánh thiện (Is 53,11). Trong Tân Ước, khi sứ thần Gáp-ri-en truyền tin cho Đức Ma-ri-a rằng ‘bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su’, thì Đức Ma-ri-a rất bối rối. Sứ thần đã trấn an Đức Ma-ri-a rằng người con mà bà cưu mang là bởi Chúa Thánh Thần và quyền năng Đấng Tối Cao. Người con đó là ‘Đấng Thánh’ và là Con Thiên Chúa (Lc 1,30-35).

Sự thánh thiện của Đức Giê-su được diễn tả cách đặc biệt trong hành trình rao giảng của Người. Trong Diễn Từ Bánh Hằng Sống, Đức Giê-su hỏi Nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” (Ga 6,67). Nhân danh các môn đệ, thánh Phê-rô đáp: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,68-69). Chứng kiến sự thánh thiện và quyền năng của Đức Giê-su trước mẻ cá lạ, thánh Phê-rô nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” (Lc 5,8). Với những người Pha-ri-sêu, Đức Giê-su nói: “Ai trong các ông chứng minh được là tôi có tội?” (Ga 8,46). Trong cuộc khổ nạn, sau khi Đức Giê-su trả lời câu hỏi của thượng tế Cai-pha, một tên trong nhóm thuộc hạ của thượng tế đánh Đức Giê-su, thì Người nói: “Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?” (Ga 18,23). Trong thư thứ nhất, thánh Gio-an viết: “Phần anh em, anh em nhận được dầu, do tự Đấng Thánh, và tất cả anh em đều được ơn hiểu biết” (1 Ga 2,20). Cũng trong thư này, thánh nhân viết: “Đức Giê-su đã xuất hiện để xóa bỏ tội lỗi, và nơi Người không có tội lỗi” (1 Ga 3,5). Như thế, Kinh Thánh cho chúng ta bức tranh khá đầy đủ về sự thánh thiện của Đức Giê-su.

Không chỉ các môn đệ hay những ai lắng nghe và tin tưởng vào Đức Giê-su mới nhận ra sự thánh thiện của Người, các thế lực chống đối Người hay ma quỉ cũng nhận ra điều đó. Chẳng hạn, khi Đức Giê-su giảng dạy tại Ca-phác-na-um, ngày sa-bát, Người vào hội đường, có kẻ bị thần ô uế nhập la lên: “Ông Giê-su Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” (Mc 1,24). Chứng kiến cái chết của Đức Giê-su và những sự kiện lạ lùng, viên đại đội trưởng và những người canh giữ Đức Giê-su thốt lên: “Quả thật ông này là Con Thiên Chúa” (Mt 27,54). Như vậy, sự thánh thiện của Đức Giê-su là sự thánh thiện siêu việt và biểu lộ trong mọi hoàn cảnh. Muôn vật hữu hình và vô hình đều nhận biết, kính sợ và thành khẩn tuyên xưng.

Sự thánh thiện của Đức Giê-su là sự thánh thiện trổi vượt trên tất cả các hình thức thánh thiện trong thế giới thụ tạo. Đồng thời, Đức Giê-su chia sẻ sự thánh thiện của Người cho tất cả mọi người để mọi người được ơn cứu độ. Do đó, khi chúng ta nói rằng Đức Giê-su là Đấng cứu độ mọi người cũng tương tự như nói rằng Người là Đấng làm cho mọi người trở nên thánh thiện.

Chúng ta đề cập đến sự thánh thiện của Đức Giê-su trong sự liên kết với Chúa Thánh Thần, vì ‘bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Đức Trinh Nữ Maria đã thụ thai và sinh hạ Đức Giê-su’. Chính Chúa Thánh Thần đồng hành cùng Đức Giê-su trong mọi nơi, mọi lúc, mọi hoàn cảnh. Chẳng hạn, thánh Gio-an Tẩy Giả nói về Phép Rửa trong Chúa Thánh Thần: “Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người [Đức Giê-su], Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần” (Mc 1,8). Sau khi Đức Giê-su lãnh nhận Phép Rửa tại sông Gio-đan và chịu cám dỗ trong sa mạc, Người về Na-da-rét. Ngày sa-bát, Đức Giê-su vào hội đường, người ta trao cho Người sách ngôn sứ I-sai-a, mở sách ra Người gặp đoạn: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,18-19). Đặc biệt, Đức Giê-su mặc khải cho chúng ta Ngôi Vị Chúa Thánh Thần (Ga 14,16.26). Sau khi sống lại và trong Chúa Thánh Thần, Đức Giê-su tiếp tục hiện diện và hoạt động trong môi trường nhân loại để thực thi chương trình của Thiên Chúa qua việc thánh hóa nhân loại.

Ý định của Thiên Chúa là tất cả mọi người trở nên thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa. Trong thư gửi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô viết: “Trong Đức Ki-tô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người” (Ep 1,4). Thánh Phao-lô mời gọi các Ki-tô hữu sống đời thánh thiện bằng cách thực thi những việc tốt lành và lánh xa những điều nguy hại, gây tổn thương hoặc đánh mất sự thánh thiện (Ep 5,1-14). Còn thánh Phê-rô khuyên dạy các tín hữu: “Anh em hãy sống thánh thiện trong cách ăn nết ở, để nên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anh em, vì có lời Kinh Thánh chép: Hãy sống thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh” (1 Pr 1,15-16). Như vậy, trong nhãn quan của thánh Phê-rô và Phao-lô, hiểu biết về sự thánh thiện và thực thi đời sống thánh thiện đi đôi với nhau trong ơn gọi của các Ki-tô hữu.

Đời sống thánh thiện không dành riêng cho cá nhân hay cho cộng đoàn đặc biệt nào trong Giáo Hội. Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội Lumen Gentium của Công Đồng Vatican II (1962-1965) dành một chương về chủ đề thánh thiện (LG 39-42). Công Đồng nhấn mạnh đến sự thánh thiện duy nhất của Thiên Chúa được Đức Giê-su diễn tả và Người trở nên mẫu gương cho con người trên bình diện cá nhân cũng như cộng đoàn. Công Đồng nhấn mạnh tầm quan trọng của thánh thiện theo ‘đấng bậc mình’ và minh định: “Mọi Ki-tô hữu, dù ở địa vị nào, bậc sống nào, đều được Chúa kêu gọi đạt tới sự trọn lành thánh thiện như Chúa Cha trọn lành, tùy theo con đường của mỗi người” (LG 11). Tất cả mọi người được mời gọi không ngừng hoán cải để ngày càng trở nên thánh thiện hơn.

Quả thật, sự thánh thiện của con người là ‘sự thánh thiện hoán cải’. Điều này có nghĩa là con người không ngừng trở về với chính mình và với Thiên Chúa. Đây là đặc điểm chung nhất của các thánh trong lịch sử Giáo Hội. Các ngài không phải là những người ‘sinh ra là thánh thiện’, nhưng là những người không ngừng hoán cải để nhận diện căn tính của mình cách rõ ràng hơn và luôn qui hướng về Thiên Chúa là Đấng Thánh duy nhất. Con người trở nên thánh thiện nhờ đời sống hòa hợp giữa ‘tâm hồn không ngừng hoán cải’ và ‘ân sủng nhưng không’ của Thiên Chúa. Nói cách khác, con người trở nên thánh thiện khi chân thành đáp lại ân sủng của Thiên Chúa bằng trái tim không ngừng hoán cải của mình.

Tác giả thư gửi tín hữu Do-thái viết: “Thiên Chúa sửa dạy là vì lợi ích của chúng ta, để chúng ta được thông phần vào sự thánh thiện của Người” (Dt 12,10). Lịch sử Giáo Hội cho chúng ta biết người thánh thiện không phải là người không bao giờ bị cám dỗ, người không có tội hay người không bao giờ phạm tội. Người thánh thiện là người luôn ý thức rằng chỉ có Thiên Chúa là Đấng Thánh và mình không thể tự làm cho mình trở nên thánh thiện được. Người thánh thiện là người nhận thức rằng mình không ngừng trở về, tìm hiểu, trả lời, thay đổi và tiến tới trong tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa. Người thánh thiện chính là người hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa và để Người sử dụng mình như khí cụ thuận tay Người.

Sự thánh thiện được thể hiện trong các tương quan của đời sống cá nhân, đời sống cộng đoàn, cũng như tương quan với Thiên Chúa và toàn thể thế giới thụ tạo. Các thánh trong lịch sử Giáo Hội khi đang sống trên trần gian không ai nghĩ rằng mình là ‘một vị thánh’. Các ngài không ‘soi gương ngắm sự thánh thiện của mình’, nhưng luôn hướng về Thiên Chúa là Đấng Thánh với tinh thần đơn sơ, phó thác. Các ngài luôn nhận thấy bản thân mình bất xứng, khiếm khuyết và nhiều khi ‘đêm tối bao phủ tâm hồn’. Thánh Tê-rê-xa A-vi-la, Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su, Tê-rê-xa Can-cút-ta là những vị thánh điển hình. Các ngài luôn cảm thấy đời sống mình ‘bất tương hợp’ với danh hiệu và ơn gọi Ki-tô hữu, đặc biệt, ‘bất tương hợp’ với sự thánh thiện và tình yêu vô bờ của Thiên Chúa. Đức Thánh Cha Phan-xi-cô cũng có kinh nghiệm tương tự như vậy. Khi được hỏi: “Ngài là ai?” Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã trả lời: “Tôi là người tội lỗi.”

Với một số người, sự thánh thiện nên ‘dành riêng cho địa hạt tôn giáo’. Tuy nhiên, trong thực tế, sự thánh thiện cần được sống và diễn tả trong bất cứ môi trường nào của thực thể có tên gọi là ‘con người’. Chẳng hạn, để góp phần xây dựng nền văn minh tình thương và văn hóa sự sống mà Giáo Hội hằng khuyến khích, cổ vũ, tất cả mọi người được mời gọi ý thức hơn về đời sống thánh thiện của mình. Tương tự như vậy, trong bối cảnh hôm nay, ‘phát triển con người toàn diện’ trở thành khẩu hiệu chung của gia đình nhân loại. Chúng ta có thể khẳng định rằng bao lâu con người chưa ý thức được tầm quan trọng của đời sống thánh thiện, bấy lâu con người còn xa vời mục tiêu đó. Dưới nhãn quan của một số người, phát triển con người toàn diện được thực hiện chủ yếu dựa trên nồng độ tri thức, đặc biệt trong lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Lịch sử nhân loại minh chứng rằng tri thức con người và những sản phẩm của nó có thể đem lại những hoa trái nhất định chứ không phải là yếu tố then chốt cho sự phát triển con người toàn diện.

Người ta kể lại rằng trong đại chiến thế giới lần thứ hai (1939-1945), có một viên tướng nói: “Nếu tôi có được mười người như Phan-xi-cô Át-xi-di, tôi có thể chinh phục cả thế giới này”. Chúng ta có thể nhận định: Với quãng đời binh nghiệp truân chuyên, viên tướng đó đã nghiệm ra sự thật rằng sức mạnh lý trí, ý chí và súng đạn không phải là giải pháp tối ưu để ‘bình thiên hạ’. Chỉ có sức mạnh thánh thiện, hy sinh, quên mình của những người như thánh Phan-xi-cô Át-xi-di mới có thể thực hiện được. Câu hỏi đặt ra là ‘vì sao vậy?’ Thưa, vì những người thánh thiện luôn ý thức rằng khi con người chỉ cậy dựa vào mình mà không màng quan tâm đến sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa, cũng là khi con người đi đường tăm tối và những hành động của con người không đem lại hạnh phúc thực sự cho mình cũng như anh chị em đồng loại. Các thánh là những người xây dựng đời sống cá nhân, cộng đoàn và gia đình nhân loại bằng những giá trị của Nước Thiên Chúa mà Đức Giê-su đã loan báo và thực thi, chứ không chỉ bằng lý trí, ý chí và những gì thuộc thế gian này.

Mặc khải Ki-tô Giáo cho chúng ta nhận thức rằng sự thánh thiện biến đổi con người, biến đổi xã hội, biến đổi thế giới thụ tạo. Đức Giê-su là Đấng Thánh của Thiên Chúa, đã hiện diện trên trần gian, đã sống trọn thân phận con người, giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi (Dt 4,15; 1 Pr 2,22). Theo lẽ thường, đã thánh thiện thì không phải chịu đau khổ (là hậu quả tội lỗi), tuy nhiên, Đức Giê-su, Đấng Thánh của Thiên Chúa đã mang lấy tội lỗi của chúng ta, của toàn thể gia đình nhân loại để chúng ta được nên thánh. Nhờ Người, vực thẳm ngăn cách giữa Thiên Chúa thánh thiện và nhân loại tội lỗi được bắc cầu và tất cả mọi người trong gia đình nhân loại được mời gọi đi trên Chiếc Cầu này. Trong hành trình dương thế, Người đã thiết lập Giáo Hội để Giáo Hội tiếp tục chương trình của Người.

Là Ki-tô hữu nghĩa là môn đệ và tông đồ của Đức Giê-su. Cuộc đời Ki-tô hữu chính là cuộc đời học hỏi và theo Đường Đức Giê-su, Đường Thánh Thiện. Tuy nhiên, trong khi theo Đường Thánh Thiện của Đức Giê-su, chúng ta không tránh khỏi những chông gai, cạm bẫy của thế giới bóng đêm và bao hình thức bấp bênh, bất cập khác vì sự yếu đuối của chính mình. Tự bản thân, chúng ta không thể nào vững vàng, kiên định trên Đường Thánh Thiện, nhưng nhờ Chúa Thánh Thần dẫn dắt, chúng ta sẽ vượt qua tất cả những thách đố và chướng ngại. Bao lâu con mắt đức tin của chúng ta còn dõi theo Đường Thánh Thiện của Đức Giê-su, bấy lâu chúng ta còn có cơ hội đạt tới sự thánh thiện như lòng Người mong muốn.

Hoa trái của sự thánh thiện gia tăng niềm tin, tình yêu và niềm hy vọng của chúng ta vào Thiên Chúa. Hoa trái của sự thánh thiện giúp chúng ta sống liên đới với anh chị em chúng ta. Hoa trái của sự thánh thiện tăng thêm sức mạnh để chúng ta có thể đương đầu với muôn thách đố trong cuộc sống. Đặc biệt, hoa trái của sự thánh thiện cho chúng ta sức mạnh để chống lại muôn hình thức cám dỗ của các thế lực sự dữ đang hoành hành trong thế giới thụ tạo. Tắt một lời, hoa trái của sự thánh thiện giúp chúng ta thực thi thánh ý Thiên Chúa trong tư tưởng, lời nói và hành động.

Chúng ta thường xem sự thánh thiện như là một ‘thực tại tĩnh’ hay ‘thực tại thường hằng bất biến’ nơi người nào đó. Thực ra, sự thánh thiện không thể hoàn thành tại một thời điểm nào đó trong đời sống chúng ta, trong lịch sử nhân loại hay trong lịch sử thế giới thụ tạo. Sự thánh thiện luôn là một hướng đi, một lộ trình, một dự án dang dở. Do đó, bao lâu con người còn hiện diện trên dương gian, bấy lâu con người còn phải không ngừng cố gắng sống đời thánh thiện. Mặc khải Ki-tô Giáo cho chúng ta nhận thức rằng không ai thánh thiện đến mức không cần phải biến đổi, bởi vì, tất cả mọi người đều sống trong môi trường ô nhiễm vì Tội Nguyên Tổ và hậu quả của Tội này vẫn tiếp diễn cho đến tận thế.

Người thánh thiện có thể trở thành người tội lỗi và ngược lại. Biên giới giữa người thánh thiện và người tội lỗi mỏng manh như làn sương khói vậy. Tên trộm hoán cải trong biến cố Đức Giê-su chịu đóng đinh trên thập giá là ví dụ điển hình (Lc 23,39-43). Chúng ta có thể noi gương tên trộm về tinh thần hoán cải, chứ không phải là quá khứ trộm cắp. Đời sống của tên trộm không thể được xem là ‘mô hình chuẩn’ cho đời sống chúng ta, bởi vì, tương quan giữa chúng ta và Thiên Chúa là tương quan tình yêu và tình yêu luôn ở thì hiện tại. Không có tình yêu đích thật nào lại vắng bóng sự thánh thiện. Do đó, chúng ta không thể sống trong tình trạng tội lỗi và ăn năn hối cải vào phút chót như tên trộm để được tham dự sự sống, hạnh phúc và bình an vĩnh cửu của Nước Thiên Chúa mà không phải đau khổ, hy sinh, quên mình trong hành trình trần thế. Thông thường, cây nghiêng bên nào thì ngả bên đó. Đích đến của người sống đời thánh thiện và người sống đời tội lỗi khác nhau (Mt 25,31-46). Hơn nữa, trong Nhà Thiên Chúa có nhiều chỗ ở (Ga 14,2).

Kinh nghiệm lịch sử cho chúng ta nhận thức rằng ‘khoảng cách’ từ người thánh thiện đến người tội lỗi là ‘khoảng cách gần’, còn từ người tội lỗi đến người thánh thiện là ‘khoảng cách xa’. Bởi vì, sự thánh thiện của con người trong hành trình trần thế dễ bị tổn thương. Để có được sự thánh thiện, con người phải hy sinh, quên mình và cố gắng không ngừng, cho đến khi ‘nhắm mắt xuôi tay’. Chúng ta có thể dùng hình ảnh chiếc cầu để minh họa cho người đang sống thánh thiện có thể trở thành người tội lỗi. Để có chiếc cầu, người ta phải dày công vất vả hàng năm mới có thể hoàn thành được. Tuy nhiên, để phá chiếc cầu, người ta chỉ cần ít thuốc nổ là nó sẽ bị sập tan tành trong giây lát.

Chúng ta là những người tội lỗi, yếu đuối và giới hạn trăm chiều. Tuy nhiên, chúng ta được mời gọi cộng tác với Thiên Chúa trong việc thánh hóa bản thân và thánh hóa những người khác nữa. Nếu chúng ta không cộng tác với Thiên Chúa để thánh hóa bản thân hay không ý thức và cố gắng để ngày càng được biến đổi hơn, làm sao chúng ta có thể cộng tác với Thiên Chúa để thánh hóa người khác được? Sẽ ngượng ngùng và giả hình biết bao khi chúng ta nói về Thiên Chúa, về Đức Giê-su, về Đường Thánh Thiện của Người mà chúng ta lại đắm chìm trong những tư tưởng, lời nói và hành động không chút âm hưởng hay hơi hướng nào của sự thánh thiện.

Sự thánh thiện không chỉ là chủ đề để chúng ta suy tư, học hỏi mà còn là ‘đường đi’ của chúng ta, là ‘lối sống’ của chúng ta và là ‘hành động’ của chúng ta trong hành trình trần thế này. Đời sống của người thánh thiện không phải là đời sống tách biệt khỏi những gì mà chúng ta gán nhãn ‘trần tục’, ‘sự đời’ hay ‘ngoại lai’ nhưng là đời sống phản chiếu sự thánh thiện của Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh của thế giới thụ tạo. Đường thánh thiện luôn là ‘đường hai chiều’. Đời sống của người thánh thiện là đời sống kết hiệp mật thiết với Đức Giê-su là Đường Thánh Thiện. Đồng thời, đời sống của người thánh thiện là đời sống liên đới với anh chị em mình để không ngừng biến đổi bản thân và môi trường sống sao cho môi trường đó ngày càng được thánh hóa, hầu tất cả mọi người sống xứng hợp hơn với phẩm giá của mình.

Chúng ta trở lại với khái niệm chung ‘thông thường, thánh thiện được hiểu như là tình trạng của thực thể được dành riêng cho mục đích tôn giáo hoặc tiến dâng cho Thiên Chúa’ để so sánh với sự thánh thiện theo mặc khải Ki-tô Giáo. Biến Cố Đức Giê-su trong hành trình trần thế cho chúng ta nhận thức rằng thánh thiện cần thiết cho ‘môi trường phàm tục’. Bởi vì, Đức Giê-su đã đi Đường Thánh Thiện để đến với nhân loại, đến với ‘môi trường phàm tục’. Chúng ta ý thức rằng nơi sự sống sung mãn cũng chính là nơi của sự thánh thiện tuyệt đối và nơi sự chết được hiểu là nơi vắng bóng sự thánh thiện. Thế mà, Đức Giê-su đã tới vực thẳm sự chết. Người đến chia sẻ sự thánh thiện của Người để con người được chung hưởng sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa.

Sống đời Ki-tô hữu không gì khác hơn là sống đời thánh thiện theo khuôn mẫu Đức Giê-su. Chúng ta có thể nhận định rằng ‘người ngoại thánh thiện’ thì hơn ‘Ki-tô hữu tội lỗi’. Đối với các tôn giáo ngoài Ki-tô Giáo, chẳng hạn như Ấn Giáo, Phật Giáo, Công Đồng Vatican II nhấn mạnh: “Giáo Hội Công Giáo không hề phủ nhận những gì là chân thật và thánh thiện nơi các tôn giáo đó” (NA 2). Điều này không có nghĩa rằng các tôn giáo đều như nhau, cũng không có nghĩa rằng các tôn giáo là khác nhau. Sự nhìn nhận những điều tốt lành, thánh thiện nơi các tôn giáo không giảm thiểu sự cần thiết để loan báo Đức Giê-su là Đấng cứu độ duy nhất và Tin Mừng của Người dành cho tất cả mọi người trong gia đình nhân loại. Đức Giê-su đã đi Đường Thánh Thiện đến với gia đình nhân loại và người thiết lập Giáo Hội để Giáo Hội tiếp tục là dấu chỉ hay khí cụ của Người trong việc thánh hóa muôn dân (LG 1).

Như đã được đề cập ở trên, sự thánh thiện Ki-tô Giáo không chỉ được diễn tả trong các tương quan nội tại của đời sống cá nhân, tương quan với tha nhân, tương quan với Thiên Chúa mà còn được diễn tả trong tương quan với môi trường thế giới thụ tạo. Điều này có nghĩa rằng các tín hữu được mời gọi sống đời thánh thiện trong việc chăm sóc, quản lý và bảo vệ muôn vật muôn loài. Ai yêu mến Thiên Chúa, người đó cũng yêu mến những gì được Thiên Chúa dựng nên. Trong thư gửi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô viết: “Người [Thiên Chúa] cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu: Thiên ý này là kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Ki-tô. Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Ki-tô” (Ep 1,9-10). Sự thánh thiện Ki-tô Giáo mời gọi các tín hữu ‘mắt hướng về trời, chân tiến bước trên đất’. Điều này có nghĩa là sự thánh thiện không chỉ giới hạn trong việc tôn giáo hay văn hóa, xã hội mà còn lan tỏa đến muôn vật muôn loài. Chúng ta được mời gọi quan tâm và góp phần biến đổi môi trường thế giới thụ tạo bằng chính đời sống của mình.

Đức Giê-su nói: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48). Đức Giê-su là Thiên Chúa, là Đấng Thánh, tuy nhiên, Người không nói rằng ‘anh em hãy nên hoàn thiện như tôi đây là Đấng hoàn thiện’. Trong hành trình dương thế, Người không bao giờ qui hướng về mình, nhưng luôn qui hướng về Thiên Chúa Cha. Đức Giê-su cho chúng ta biết sự thánh thiện của con người trong hành trình trần thế luôn là sự thánh thiện có hướng, sự thánh thiện tiếp tục trên đường về với Quê Hương Vĩnh Cửu. Là Thiên Chúa trong thân phận con người, Đức Giê-su trở nên Đường Thánh Thiện cho tất cả mọi người trong gia đình nhân loại.

Từ những điểm trình bày trên đây, chúng ta có thể khái quát rằng sự thánh thiện thuộc về Thiên Chúa, Người là Đấng Thánh, là Nguồn Gốc và Đích Đến của các hình thức thánh thiện. Đức Giê-su đã đi Đường Thánh Thiện để đến với thế giới thụ tạo. Người vừa diễn tả sự thánh thiện của Thiên Chúa, vừa diễn tả sự thánh thiện của con người. Đặc biệt, sự thánh thiện của Người được diễn tả trong ba năm loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Người đã chịu nhiều đau khổ, chịu chết, sống lại và lên trời, tuy nhiên, trong Chúa Thánh Thần, Người vẫn luôn hiện diện trong gia đình nhân loại. Người đã thiết lập Giáo Hội để Giáo Hội tiếp tục Đường Thánh Thiện của Người bằng việc chia sẻ Lời Chúa, cử hành các bí tích, nhất là Bí Tích Thánh Thể và thực thi bác ái. Tất cả mọi người được mời gọi suy niệm, học hỏi và thực hành Đường Thánh Thiện của Đức Giê-su trong hành trình trần thế của mình.

Gm. Phêrô Nguyễn Văn Viên
Ủy ban Giới Trẻ và Thiếu Nhi / HĐGM VN

Các chủ đề học hỏi và suy niệm năm 2020:

Chủ đề học hỏi và suy niệm tháng 7 năm 2020

Các bạn trẻ thân mến,

Tháng Sáu vừa qua, chúng ta đã suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô – Đường Trái Tim. Tháng Bảy này, chúng ta cùng nhau suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô – Đường Mục Tử Nhân Lành. Hình ảnh mục tử và đoàn chiên là hình ảnh phổ biến diễn tả nội dung đức tin Ki-tô Giáo. Trong Cựu Ước, hình ảnh này chủ yếu diễn tả tương quan giữa Thiên Chúa và Dân Do-thái, Dân Riêng của Người. Trong Tân Ước, hình ảnh này diễn tả tương quan giữa Đức Giê-su và toàn thể mọi người trong gia đình nhân loại. Đây cũng là hình ảnh được sử dụng để diễn tả tương quan giữa các vị lãnh đạo trong Giáo Hội và những người mà các vị được ủy thác chăm sóc.

Hai bên tường các Hang Toại Đạo (Catacombs: Đất Thánh hay Nghĩa Trang dưới lòng đất) ở ngoại thành Rô-ma, được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ hai và thứ ba sau Chúa Giáng Sinh, người ta khắc vẽ nhiều hình ảnh, trong đó nổi bật nhất là hình ảnh Đức Giê-su, Mục Tử Nhân Lành vác con chiên trên vai. Câu hỏi đặt ra là tại sao người ta lại khắc vẽ hình ảnh này? Thưa, bởi vì, đây là hình ảnh diễn tả căn tính, đời sống và sứ mệnh của Đức Giê-su cách đơn sơ và thân mật nhất. Các tín hữu luôn tin tưởng rằng Đức Giê-su đến trần gian để qui tụ và dẫn dắt đoàn chiên tản mát vì tội lỗi và sự chết về cho Thiên Chúa.

Sách Sáng Thế, cuốn sách đầu tiên của bộ Kinh Thánh, cho chúng ta biết rằng A-ben, Áp-ra-ham, I-sa-ác, Gia-cóp là những người chăn chiên. Tất cả 12 con trai của Gia-cóp đều là những người chăn chiên. Còn Mô-sê, một người Do-thái, sau khi được vớt lên từ sông Nin đã sống ở cung điện nhà vua Ai-cập. Tuy nhiên, trong cơn nguy khốn, Mô-sê đã vào sa mạc và trở thành người chăn chiên. Đa-vít cũng vậy, là một người chăn chiên, được Thiên Chúa tuyển chọn để trở thành vị vua lừng lẫy nhất của dân tộc Do-thái. Việc dùng hình ảnh chủ chăn và đoàn chiên để diễn tả tương quan giữa Thiên Chúa và Dân Do-thái, được đề cập khá nhiều trong Cựu Ước, chẳng hạn như trong sách Dân Số, Giê-rê-mi-a, Ê-dê-ki-en, Thánh Vịnh, I-sai-a, A-mốt, Da-ca-ri-a.

Tương truyền rằng khi Mô-sê chăn chiên cho bố vợ (trước khi lãnh nhận sứ vụ dẫn dắt Dân Do-thái), thì một con chiên nhỏ tự mình tách khỏi đoàn. Mô-sê theo bước con chiên mà không hiểu lý do tại sao nó lại ra đi như vậy. Đến chỗ có khe nước nhỏ, con chiên dừng lại và uống nước. Mô-sê nói với con chiên một cách âu yếm: “Tao không biết mày khát nước, có lẽ mày rất mệt rồi?” Sau khi nói như vậy, Mô-sê vác con chiên lên vai và đưa về với đoàn chiên. Thiên Chúa nói với Mô-sê: “Vì con đã có hành động hào hiệp như vậy đối với con chiên nhỏ, con xứng đáng là người chăn dắt đoàn chiên của Ta.” Đó là lý do giải thích tại sao Mô-sê được Thiên Chúa tuyển chọn để dẫn dắt Dân Do-thái về Đất Hứa.

Liên hệ giữa người chăn chiên và đoàn chiên ở Pa-lét-tin thời Đức Giê-su khác biệt với nhiều nơi trên thế giới trong bối cảnh hiện tại, chẳng hạn như ở Mỹ, Canada, Anh, Australia, New Zealand. Ở những nước phát triển này, chiên được chăn thả mà không nhất thiết phải có ai bên cạnh. Người ta thường phân vùng cỏ cho đoàn chiên. Chẳng hạn, hôm nay, đoàn chiên ăn cỏ vùng này, ngày mai vùng khác. Ở Pa-lét-tin, người chăn chiên và đoàn chiên rất gần gũi với nhau, người chăn chiên luôn hiện diện với đoàn chiên, biết từng con chiên và đặt tên cho nó.

Trong miền Pa-lét-tin, đất đai cằn cỗi, đoàn chiên luôn cần sự dẫn dắt của người chăn để có thể di chuyển từ nơi này đến nơi khác, hầu có đủ thức ăn qua ngày. Hơn nữa, với nơi hoang mạc như vậy, nguồn nước luôn là thách đố lớn đối với người chăn chiên. Sự bảo đảm cho đoàn chiên có đủ thức ăn, nước uống luôn là vấn đề cấp thiết. Ngoài việc tìm kiếm thức ăn mỗi ngày, đoàn chiên phải đối diện với những hiểm nguy khác, chẳng hạn như sói dữ hay những người trộm cướp. Càng đối diện với nghịch cảnh thiếu thức ăn, nước uống, thú dữ hay những người trộm cướp, đoàn chiên càng lệ thuộc vào người chăn.

Hình ảnh người chăn chiên và đoàn chiên ăn sâu vào truyền thống, văn hóa và tôn giáo Do-thái. Khi diễn tả tương quan giữa Thiên Chúa và Dân Người, tác giả Thánh Vịnh 23 đã viết: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì” (Tv 23,1). Chúng ta tóm lược một số ý tưởng chính yếu của Thánh Vịnh này như sau: Mục tử cung cấp đầy đủ nhu cầu cho đoàn chiên; mục tử cho đoàn chiên nghỉ ngơi; mục tử hướng dẫn đoàn chiên đi trên đường ngay nẻo chính; mục tử trang bị những gì cần thiết để bảo vệ đoàn chiên; mục tử an ủi đoàn chiên; mục tử bồi bổ sức sống đoàn chiên; mục tử ở lại với đoàn chiên luôn mãi. Những nhân vật lãnh đạo quan trọng trong lịch sử dân tộc Do-thái, đặc biệt Áp-ra-ham, Mô-sê và Đa-vít là những hình ảnh tiên báo về Đức Giê-su, Mục Tử Nhân Lành.

Trong Biến Cố Giáng Sinh, những người đầu tiên đến với Đức Giê-su không phải là các chuyên gia Kinh Thánh, những bậc vị vọng trong dân tộc Do-thái hay những người quyền cao chức trọng của đế chế Rô-ma đang cai trị miền đất này, nhưng lại là những mục đồng (những mục tử nhí) đơn sơ hèn mọn. Họ đến với Đức Giê-su bằng cả tâm hồn. Không những thế, giữa đêm đông giá lạnh, đoàn chiên của các mục đồng đã sưởi ấm Đức Giê-su, Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se. Các mục đồng đơn sơ và những con chiên hiền lành rất vui mừng vì đã được tiếp xúc với Người Bạn Lớn là Mục Tử Nhân Lành trong hình hài trẻ thơ. Đức Giê-su có được kinh nghiệm đầu tiên trong đời mình về tương quan giữa người chăn chiên và đoàn chiên. Như vậy, những gì Kinh Thánh Cựu Ước nói về Đức Giê-su đã được ứng nghiệm từ thuở sơ sinh, chứ không phải đến khi Người loan báo Tin Mừng cách công khai.

Không chỉ các mục đồng và đoàn chiên đến với Đức Giê-su, trong Biến Cố Giáng Sinh còn có sự thăm viếng của các đạo sĩ từ phương xa nữa, họ là ‘dân ngoại’ (Mt 2,1-12). Các mục đồng, những người chăm sóc đoàn chiên, luôn sống trong cảnh ‘màn trời chiếu đất’. Họ có cơ hội ‘nhìn trời’ nhiều hơn những người khác và cảm nhận được sự kỳ vĩ của công trình Thiên Chúa sáng tạo với tâm hồn đơn sơ, chất phác của mình. Các đạo sĩ là những người học cao trông rộng, họ là các nhà chiêm tinh, những chuyên gia về bầu trời. Ngôi Sao Giáng Sinh xuất hiện ở Phương Đông, tuy nhiên nhiều người đã không nhận ra, bởi vì họ không có tâm hồn hướng về trời cao. Các đạo sĩ nhìn thấy Ngôi Sao Giáng Sinh xuất hiện lạ thường, phân biệt với các ngôi sao khác trên bầu trời. Các mục đồng và các đạo sĩ, những người ở gần và những người ở xa, những người ‘có đạo’ và những người ‘ngoại đạo’, những người hèn mọn và những người cao sang đại diện cho những nhóm người khác nhau trong xã hội, nhưng lại có cùng tâm thức. Họ rất khiêm tốn và luôn chuẩn bị tâm hồn cho những gì mới mẻ xuất hiện. Đó là l‎ý do giải thích tại sao trong Biến Cố Giáng Sinh, các mục đồng và các đạo sĩ vội vã ra đi, muốn càng sớm gặp gỡ Đức Giê-su càng tốt.

Kinh nghiệm lịch sử Ki-tô Giáo cho chúng ta nhận thức rằng những người biết ngạc nhiên trước công trình kỳ vĩ của thế giới thụ tạo và gần gũi với thế giới thụ tạo, thì cảm nhận được sự hiện diện và hoạt động của Đấng Sáng Tạo. Những người biết ‘nhìn trời’ thì biết lắng nghe ‘‎ý trời’, thấu hiểu ‘ý trời’, đồng hóa ‘ý trời’ và hành động theo ‘ý trời’. Hình ảnh các mục đồng và các đạo sĩ cho chúng ta rút ra hệ luận rằng tâm hồn đơn sơ và l‎ý trí lành mạnh là điều kiện cần thiết để con người nhận ra chương trình của Thiên Chúa. Còn những kẻ lắm chữ như các kinh sư, thượng tế và nhiều quyền như Hê-rô-đê lại không có cơ hội gặp gỡ Đức Giê-su, Mục Tử Nhân Lành, bởi vì tâm họ không lành và trí họ không sáng. Tâm trí họ không hướng về trời cao, nhưng chỉ hướng về lợi lộc trần gian và những gì bảo đảm cho thanh danh mình được người đời biết đến mà thôi.

Trong Tin Mừng Đức Giê-su theo thánh Gio-an (Ga 10,1-18), Đức Giê-su nói rằng Người là Mục Tử Nhân Lành để diễn tả sự khác biệt giữa Người và các vị lãnh đạo Do-thái, đặc biệt những người Pha-ri-sêu trong dấu lạ Người thực hiện để chữa người mù từ lúc mới sinh ở phần trước đó (Ga 9,1-41). Quả thật, các vị lãnh đạo Do-thái, nhất là những người Pha-ri-sêu không có tâm thức đối với dân chúng như Đức Giê-su. Họ là những ‘người lạ’. Đức Giê-su phân biệt giữa Mục Tử Nhân Lành và người lạ như sau: Mục Tử Nhân Lành luôn đi đường chính trực, người lạ đi đường gian trá; Mục Tử Nhân Lành quan tâm đến đoàn chiên, người lạ quan tâm đến mình; Đoàn chiên nhận ra tiếng Mục Tử Nhân Lành, không nhận ra tiếng người lạ; Mục Tử Nhân Lành qui tụ đoàn chiên, người lạ phân tán đoàn chiên; Mục Tử Nhân Lành bảo vệ đoàn chiên trước hiểm nguy, người lạ tìm đường tháo chạy; Mục Tử Nhân Lành thí mạng sống mình vì đoàn chiên, người lạ tìm cách bảo tồn mạng sống mình; Mục Tử Nhân Lành đưa đoàn chiên tới sự sống đời đời, người lạ tìm lợi ích cho mình trong sự sống đời này.

Đức Giê-su còn đề cập đến một số hình ảnh khác nữa, chẳng hạn như hình ảnh người chăn thuê hay hình ảnh người trộm cướp để so sánh với hình ảnh Mục Tử Nhân Lành. Theo đó, trái tim của người chăn thuê không chung nhịp với trái tim của đoàn chiên, trái tim của người trộm cướp luôn lạc nhịp với trái tim của đoàn chiên, trái tim Mục Tử Nhân Lành cùng chung nhịp đập với trái tim của đoàn chiên. Sự chung nhịp của Mục Tử Nhân Lành và đoàn chiên giúp từng con chiên cảm nhận được sự an bình thư thái ngay cả khi đối diện với muôn hình thức hiểm nguy. Mục Tử Nhân Lành không bỏ chạy trước sói dữ, không bỏ chạy trước những người trộm cướp, nhưng luôn sẵn sàng đương đầu với muôn thử thách, thậm chí hy sinh mạng sống mình vì đoàn chiên.

Tương quan giữa người chăn chiên và đoàn chiên rất thân mật, tuy nhiên, có sự khác biệt chính yếu: Bản tính của người chăn chiên khác với bản tính của đoàn chiên. Tương quan giữa Đức Giê-su và con người sâu đậm hơn nhiều, bởi vì Đức Giê-su mang lấy bản tính con người, giống con người mọi sự, ngoại trừ tội lỗi (Dt 4,15). Hơn nữa, Người là Thiên Chúa, do đó, Người biết con người rõ ràng hơn người chăn chiên biết đoàn chiên mình. Người biết bản tính con người, biết những yếu đuối của con người, biết những lầm lỗi của con người, biết những đau khổ của con người, biết những tâm tư, nguyện vọng của con người, biết quá khứ, hiện tại và tương lai của con người.

Đức Giê-su nói: “Tôi chính là Mục Tử Nhân Lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi” (Ga 10,14). Động từ ‘biết’ trong bối cảnh Kinh Thánh nói chung và đặc biệt trong câu này không chỉ diễn tả chức năng của l‎ý trí, mà còn chức năng của trái tim. Đức Giê-su nói rằng Người là Mục Tử Nhân Lành, Người biết chiên của Người, có nghĩa rằng Người yêu thương đoàn chiên và yêu thương từng con chiên trong đoàn. Với Đức Giê-su, ‘biết’ đồng nghĩa với ‘yêu’, ‘biết’ đồng nghĩa với ‘chăm sóc’, ‘biết’ đồng nghĩa với ‘gắn kết’, ‘biết’ đồng nghĩa với ‘hy vọng’ những điều tốt nhất cho đoàn chiên, ‘biết’ đồng nghĩa với ‘giới thiệu’ chân trời mới cho đoàn chiên. Như vậy, động từ ‘biết’ mà Đức Giê-su dùng trong bối cảnh này thật phong phú và nhiều ý nghĩa hơn những gì chúng ta có thể cảm nhận.

Đức Giê-su không chỉ ‘biết’ đoàn chiên, Người còn hy sinh mạng sống vì đoàn chiên. Người nói: “Tôi chính là Mục Tử Nhân Lành. Mục Tử Nhân Lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11). Cuộc đời dương thế của Đức Giê-su là cuộc đời hy sinh. Sự hy sinh của Người không cho một nhóm nào đó, mà cho tất cả mọi người trong gia đình nhân loại. Đây thật là sự hy sinh lớn lao nhất, bởi vì Người đã mang những thương tích và sự chết của tất cả mọi người mà đưa lên cây thập tự. Người đã chịu muôn vàn đau khổ, đã chết và sống lại vì tất cả mọi người (1 Pr 2,22-25).

Chúng ta biết rằng ít khi người chăn chiên chết vì đoàn chiên. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt, vì xả thân bảo vệ đoàn chiên, vì sự sống của đoàn chiên, người chăn chiên phải chết và đoàn chiên tan tác. Trong khi sự chết của người chăn chiên dẫn tới vô số nguy hại cho đoàn chiên, nguy hại từ thú dữ, nguy hại từ những người trộm cướp, sự chết của Đức Giê-su, Mục Tử Nhân Lành đem lại sự sống cho đoàn chiên. Đây là điều điên rồ trong nhãn quan của người trần mắt thịt, nhưng lại là ‘khôn ngoan’ của Thiên Chúa (1 Cr 1,17-31). Người chăn chiên chết, đoàn chiên cũng chết, đó là chuyện thường tình. Với Đức Giê-su, Mục Tử Nhân Lành, Người chết để tiêu diệt sự chết và đem lại sự sống vĩnh cửu cho tất cả mọi người. Đó là l‎ý do tại sao Người nói rằng “tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).

Tâm tình Đức Giê-su, Mục Tử Nhân Lành là tâm tình yêu thương hết thảy mọi người. Thánh Mát-thêu trình thuật rằng: “Đức Giê-su thấy đám đông thì chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt” (Mt 9,36). Đặc biệt, Người quan tâm đến những người tội lỗi, những người sống xa đường ngay nẻo chính, những con chiên lạc. Người nói: “Anh em nghĩ sao? Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao? Và nếu may mà tìm được, thì Thầy bảo thật anh em, người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn là vì chín mươi chín con không bị lạc. Cũng vậy, Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất” (Mt 18,12-14). Đối với Đức Giê-su, tất cả mọi người từ tạo thiên lập địa cho đến tận thế đều là những con chiên lạc, khác nhau chăng cũng chỉ ở mức độ thất lạc mà thôi. Bởi vì, tất cả mọi người đều là con cháu A-đam và E-và, những tội nhân, sống xa Đường Mục Tử Nhân Lành.

Trong hành trình ba năm rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su luôn diễn tả mình là Mục Tử Nhân Lành. Sau khi sống lại và hiện ra với các môn đệ ở Biển Hồ Ti-bê-ri-a, Đức Giê-su hỏi Phê-rô đến ba lần “con có yêu mến Thầy không?” Người lặp đi lặp lại câu hỏi để Phê-rô ý thức hơn tầm quan trọng của tình yêu trong việc chăm sóc đoàn chiên Người giao phó. Điều này có nghĩa rằng tình yêu dành cho Đức Giê-su đồng nghĩa với tình yêu đối với đoàn chiên Người ủy thác chăm sóc. Phê-rô đã trung thành với Đức Giê-su và thực thi chức năng mục tử theo khuôn mẫu Đức Giê-su, Mục Tử Nhân Lành, trong quãng đời còn lại của mình. Đặc biệt, ngài đã chịu chết khi bị treo ngược trên cây thập giá để minh chứng cho tình yêu mà ngài lãnh nhận.

Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng: “Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói” (Mt 10,16). Quả thực, đời sống và sứ mệnh của các môn đệ, của các tông đồ Đức Giê-su không phải là đời sống và sứ mệnh dễ dàng. Họ phải đương đầu với muôn vàn thử thách, gian truân để có thể trung tín với Thầy mình trong việc chăm sóc đoàn chiên được giao phó. Đa số các ngài đã chịu trăm bề thử thách và cuối cùng kết thúc với cái chết chứng tá của mình. Thánh Phao-lô nói với các kỳ mục tại Ê-phê-xô rằng “anh em hãy ân cần lo cho chính mình và toàn thể đoàn chiên mà Thánh Thần đã đặt anh em làm người coi sóc, hãy chăn dắt Hội Thánh của Thiên Chúa, Hội Thánh Người đã mua bằng máu của chính mình” (Cv 20,28) và rằng “phần tôi, tôi biết rằng khi tôi đi rồi, thì sẽ có những sói dữ đột nhập vào anh em, chúng không tha đoàn chiên” (Cv 20,29).

Trong bài chia sẻ ngày 28 tháng 3 năm 2013 tại Đền Thờ Thánh Phê-rô (Lễ Dầu), Đức Thánh Cha Phan-xi-cô nhấn mạnh rằng các linh mục, các mục tử là những người mang lấy mùi chiên và sống với mùi chiên. Ngài muốn các mục tử thực sự gần gũi đoàn chiên của mình, đồng hình đồng dạng với Đức Giê-su, Mục Tử Nhân Lành và đồng hình đồng dạng với tất cả những người mà mình được ủy thác chăm sóc. Các mục tử được mời gọi vui với người vui, đau với người đau, khóc với người khóc. Các mục tử được mời gọi trút bỏ chính mình, ra khỏi chính mình và hy sinh chính mình để có thể hòa mình vào đời sống của tất cả mọi người, đồng hành với họ, hướng dẫn họ vững bước theo Đức Giê-su, Đường Mục Tử Nhân Lành.

Hình ảnh Đức Giê-su, Mục Tử Nhân Lành được áp dụng cho những vị lãnh đạo trong Giáo Hội. Tuy nhiên, theo một nghĩa rộng hơn, tất cả Ki-tô hữu đều được mời gọi sống tinh thần Đức Giê-su, Mục Tử Nhân Lành trong mọi hoàn cảnh. Chúng ta nhận thức rằng Đức Giê-su không chỉ mời gọi một số người trở thành mục tử, mà Người mời gọi tất cả chúng ta trở thành mục tử, sống tinh thần mục tử, bởi vì, mỗi người chúng ta thường vừa là ‘chiên’ trong hoàn cảnh này, vừa là ‘mục tử’ trong hoàn cảnh khác. Ai trong chúng ta cũng được giao phó tác vụ nào đó đối với anh chị em mình. Do vậy, chúng ta được mời gọi theo gương Đức Giê-su, Mục Tử Nhân Lành trong khi thi hành tác vụ của mình, nhất là tác vụ loan báo Tin Mừng.

Đức Giê-su nói: “Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử” (Ga 10,16). Như đã được đề cập ở trên, trong Biến Cố Giáng Sinh không chỉ có sự hiện diện của các mục đồng, mà còn có sự hiện diện của các đạo sĩ từ phương xa tới nữa. Các mục đồng đại diện cho những người Do-thái, các đạo sĩ đại diện cho ‘dân ngoại’. Họ không phải là ‘Dân Chúa’ theo cách hiểu của những người Do-thái. Tuy nhiên, họ trở thành Dân Chúa vì lòng Thiên Chúa xót thương. Sự hiện diện của họ cho chúng ta thấy rằng tất cả mọi người trong gia đình nhân loại đều được mời gọi trở thành Dân Chúa, trở thành thành viên của đoàn chiên duy nhất và Vị Mục Tử duy nhất là Đức Giê-su.

Chiên là loài vật đơn sơ, thiếu tính tự lập và luôn là mồi ngon cho nhiều loài thú. Chiên không có những ‘vũ khí’ cần thiết như sừng dài, răng nhọn, chạy nhanh hay bất cứ hình thức tự vệ nào. Chiên hoàn toàn lệ thuộc vào người chăn từ chuyện ăn uống, ngủ nghỉ đến chuyện bảo toàn mạng sống trước những hiểm nguy. Tương tự như thế, chúng ta hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa, vào Đức Giê-su để hiện hữu, tồn tại, phát triển và hướng tới sự sống muôn đời. Trong hành trình trần thế, chúng ta phải đương đầu với muôn thử thách: Những thử thách trong đời sống thể chất, những thử thách trong đời sống tinh thần, đặc biệt, những thử thách trong đời sống tâm linh. Nếu chúng ta không có mối liên kết chặt chẽ với Đức Giê-su, Mục Tử Nhân Lành, chúng ta sẽ không thể nào vượt qua được những thử thách này.

Đức Giê-su nói: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi” (Ga 10,27). Sự phân định đâu là tiếng của Mục Tử Nhân Lành và đâu là tiếng của ‘người lạ’, ‘người trộm cướp’, ‘người chăn thuê’ ‘hay ‘thú dữ’ không phải là chuyện dễ dàng. Nếu chúng ta không có trái tim nhạy cảm, trái tim khiêm tốn, trái tim yêu thương, trái tim luôn mở ra với Trái Tim Đức Giê-su, Mục Tử Nhân Lành, thì chúng ta khó có thể lắng nghe được tiếng Người. Chúng ta tin tưởng rằng Đức Giê-su, Mục Tử Nhân Lành luôn cung cấp cho chúng ta đủ ánh sáng để bước đi đúng hướng trên hành trình trần thế này. Trong bài giảng về thời cánh chung, Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Sẽ có những Ki-tô giả và ngôn sứ giả xuất hiện, đưa ra những dấu lạ lớn lao và những điềm thiêng, đến nỗi chúng lừa gạt cả những người đã được tuyển chọn” (Mt 24,24). Những lời này của Đức Giê-su không chỉ liên quan đến thời cánh chung theo nghĩa hẹp, mà còn liên quan đến tất cả Ki-tô hữu qua muôn thế hệ. Thực ra, sự hiện diện của Đức Giê-su trong hành trình trần thế cũng chính là sự hiện diện của thời cánh chung rồi. Chúng ta hãy hướng tâm trí về Đức Giê-su, Mục Tử Nhân Lành để được Người nuôi dưỡng đức tin và đời sống luân l‎ý phù hợp với thánh ý Thiên Chúa.

Đề cập đến vị trí của người chăn chiên trong đoàn chiên để diễn tả tương quan giữa Người và chúng ta, Đức Giê-su nói rằng: “Anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh” (Ga 10,4). Câu hỏi đặt ra là ‘tại sao người chăn chiên phải đi trước?’ Thưa, vì người chăn chiên là người bảo vệ đoàn chiên, người chăn chiên đứng mũi chịu sào cho sự an toàn của đoàn chiên. Người chăn chiên chấp nhận những chướng ngại, những bất ngờ, những gian nan vì sự sống còn của đoàn chiên. Như người chăn chiên đi trước đoàn chiên, Đức Giê-su luôn đi trước chúng ta để dọn đường cho chúng ta. Đường Mục Tử Nhân Lành cũng là Đường của mỗi người chúng ta. Bằng không, chúng ta sẽ lạc đường, lạc lối trong hành trình trần thế này. Bổn phận của chúng ta là đặt trọn niềm tin, tình yêu và hi vọng vào Đường Mục Tử Nhân Lành và luôn trung tín với Đường này giữa những khó khăn bấp bênh của thời cuộc, cùng muôn cạm bẫy của thế giới bóng đêm luôn rình rập đợi chờ (Ep 4,26; 1 Pr 5,8).

Không ai trong chúng ta có đủ điều kiện cần thiết để hoạch định chương trình và đường hướng cho cuộc sống mình cách trọn vẹn. Tất cả chúng ta đều mong muốn có vị mục tử luôn trong tình trạng sẵn sàng giúp đỡ chúng ta. Vị đó chính là Đức Giê-su, Người hứa ở cùng các tông đồ, cùng Giáo Hội, cùng tất cả mọi người trong gia đình nhân loại cho đến tận thế. Do đó, câu hỏi đặt ra là ‘chúng ta đang đi đường nào?’ Nếu câu trả lời là chúng ta đang đi Đường Đức Giê-su, Đường Mục Tử Nhân Lành, thì rõ ràng chúng ta đang đi đúng hướng. Bằng không, chúng ta hãy trở về với chính lộ, trở về với Đường Mục Tử Nhân Lành, bởi vì đây là Đường duy nhất cho phép chúng ta sống xứng đáng với phẩm giá mình trong hành trình trần thế này và đây cũng là Đường duy nhất dẫn chúng ta tới sự sống dồi dào trong Nước Thiên Chúa.

Gm. Phêrô Nguyễn Văn Viên
Ủy ban Giới Trẻ và Thiếu Nhi / HĐGM VN

Các chủ đề học hỏi và suy niệm năm 2020:

Tháng Sáu là tháng hướng về Thánh Tâm Chúa Giêsu. Tháng này nằm trong mùa Thường niên, được thể hiện bằng màu xanh lá cây trong phụng vụ. Biểu tượng của niềm hy vọng này là màu của hạt giống nảy mầm và khơi dậy trong tín hữu niềm hy vọng gặt hái trong mùa gặt của thiên đàng vĩnh cửu, đặc biệt là niềm hy vọng về sự sống lại vinh quang.

Ý cầu nguyện của Đức Thánh Cha cho tháng Sáu năm 2020: Con đường của trái tim

Chúng ta cầu nguyện cho tất cả những người đau khổ có thể tìm thấy con đường trong cuộc sống, giúp họ chạm đến Thánh Tâm Chúa Giêsu.

Điểm nổi bật của tháng Sáu

Trong sự nồng ấm của mùa Hè, chúng ta cử hành lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu (19-6) và lễ Trái Tim Vô nhiễm Đức Maria (20-6). Thiên Chúa là Tình yêu, và Thánh Tâm Chúa Giêsu – hiện diện trên trái đất nơi Bí tích Thánh Thể – là biểu hiện nhân tính về Tình yêu Thiên Chúa dành cho con người.

Cũng vào ngày 1-6, chúng ta cử hành lễ Đức Mẹ là Mẹ của Giáo hội. Lễ này được tổ chức hằng năm vào thứ Hai sau Lễ Hiện Xuống.

Các ngày lễ đặc biệt khác trong tháng này là các lễ kính: Thánh Antôn Padua (13-6), Sinh nhật Thánh Gioan Tẩy giả (24-6),  Thánh Phêrô và Thánh Phaolô (29-6) và các Thánh tử đạo đầu tiên của Giáo hội Rôma (30-6).

Thời gian của tình yêu

Sau ngày lễ Ngũ tuần, Giáo hội bắt đầu từ đỉnh cao tuyệt vời của Mùa Phục Sinh để đi xuống những đồng cỏ xanh tươi của Mùa Thường Niên, dài nhất trong các mùa phụng vụ. Giống như sự tăng trưởng của tháng Sáu tươi tốt xung quanh chúng ta, màu xanh của mùa phụng vụ cho thấy ơn Cứu Độ Chúa Giêsu Kitô mang lại cho chúng ta cuộc sống mới, cuộc sống của Tình Thương. Chúa chúng ta đã đến để thắp lên ngọn lửa tình yêu của Ngài trên trái đất, và cuối cùng, đã gửi Thánh Thần của Ngài vào ngày lễ Ngũ tuần dưới hình thức lưỡi lửa.

Tháng Sáu mang ngọn lửa Thánh Thần, lửa đỏ yêu thương của Trái Tim Chúa Giêsu, nhưng lại nằm trong màu xanh của Mùa Thường niên, giống như khi xưa ông Môsê trông thấy lửa cháy trong bụi gai mà bụi gai vẫn nguyên vẹn, không bị thiêu rụi. Tình yêu bốc lửa của Trái Tim Chúa Giêsu cứ làm cho cuộc đời xanh tươi thêm mãi.

Với ngọn lửa Thánh Thần, mùa Thường Niên là lúc đi ra khắp thế giới và loan báo Tin Mừng. Các ngày lễ của tháng Sáu làm nổi bật lên sự phát triển này của Giáo hội. Ít nhất mười lần trong tháng, Giáo hội khoác lên mình màu đỏ của các vị tử đạo với máu đổ ra là hạt giống của sự trưởng thành.

Chúng ta cũng được mời gọi làm chứng nhân như các tông đồ và các vị tử đạo. Xin Trái Tim của Chúa Giêsu thổi bùng lên ngọn lửa trong trái tim của chúng con để chúng con có thể xứng đáng với Ơn gọi phát xuất từ Bí tích Rửa tội. Xin Trái tim vô nhiễm nguyên tội Mẹ Maria cầu cho chúng con.

Nguồn: TGP Sài Gòn
Sách Nhịp Sống Tin Mừng T06/2020

Chủ đề học hỏi và suy niệm tháng 6 năm 2020

Các bạn trẻ thân mến,

Trái tim là biểu tượng diễn tả những cảm xúc của con người, chẳng hạn như niềm vui, nỗi buồn, đau khổ, hạnh phúc. Hơn nữa, trái tim còn là biểu tượng diễn tả sự sống thể l‎ý, sự sống tình cảm, sự sống tâm linh. Đặc biệt, trái tim là biểu tượng diễn tả tình yêu của con người. Tháng Năm vừa qua, chúng ta đã suy niệm chủ đề Đức Giê-su – Đường Chữa Lành. Tháng Sáu là tháng Trái Tim Chúa Giê-su, cùng nhau chúng ta suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô – Đường Trái Tim.

Chúng ta biết rằng bệnh tim là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong trên thế giới. Trong những thập niên gần đây, ghép tim người này cho người khác không phải là việc quá khó khăn, miễn là người hiến tim và người nhận tim có được những thông số sinh học phù hợp. Thông thường, người hiến tim là người đang trong tình trạng bệnh tật hoặc tai nạn không thể cứu chữa, nhưng trái tim còn tốt. Người nhận tim là người có các cơ phận khác tương đối khỏe mạnh, còn tim thì không thể làm việc lâu dài được nữa, nếu không thay tim thì sẽ chết. Ghép tim nhằm kéo dài sự sống thể lý của người nhận tim.

Trái tim thể lý là vậy, còn ‘trái tim tâm linh’ thì sao? Tất cả mọi người trong gia đình nhân loại đều bị ‘bệnh tim tâm linh’ và mọi người đều nhận thức rằng không ai có thể làm cho trái tim mình trở thành tốt được, bởi vì, trái tim của tất cả mọi người đều bị tổn thương vì tội lỗi. Cách đây hơn hai ngàn năm, Thiên Chúa đã ban tặng nhân loại Con Yêu Dấu của Người là Đức Giê-su Ki-tô, để nhờ Người, với Trái Tim Tình Yêu cao cả, trái tim của tất cả mọi người được nối kết, biến đổi và thông phần sự sống Thiên Chúa. Chúng ta biết rằng hành trình trần thế của Đức Giê-su để lại cho chúng ta nhiều biểu tượng đáng nhớ. Tuy nhiên, biểu tượng mà chúng ta quan tâm nhất đó là Trái Tim Người bị đâm thâu, khi Người bị treo trên thập giá.

Sách Sáng Thế cho chúng ta biết rằng con người được Thiên Chúa sáng tạo, và Thiên Chúa hài lòng với con người do chính Người tạo ra ‘rất tốt đẹp’, cả trí lẫn tâm, vì mang ‘hình ảnh của Thiên Chúa và giống như Thiên Chúa’ (St 1,26). Như thế, con người có ‘trái tim tốt lành’ và cùng chung nhịp đập với ‘Trái Tim Thiên Chúa’. Tuy nhiên, con người đã sa chước cám dỗ, đã vô ơn, đã kiêu ngạo, đã phạm tội và hậu quả là trái tim con người trở nên tăm tối, dơ bẩn, lạc nhịp với Trái Tim Thiên Chúa. Lịch sử tương quan giữa Thiên Chúa và con người nói chung và Dân Do Thái nói riêng là lịch sử của việc Thiên Chúa không ngừng điều chỉnh trái tim con người theo Trái Tim Thiên Chúa. Lịch sử đó được diễn tả trong Cựu Ước, chẳng hạn như trong sách tiên tri Ê-dê-ki-en, Thiên Chúa nói với Dân Do-thái, Dân Riêng của Người: “Ta sẽ ban tặng các ngươi một trái tim mới, sẽ đặt Thần Khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi trái tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng các ngươi một trái tim bằng thịt” (Ed 36,26). Lời hứa của Thiên Chúa trở thành hiện thực nhờ Đức Giê-su, Con Thiên Chúa, Người đã đi Đường Trái Tim để đến với con người và muôn vật muôn loài.

Trong hành trình trần thế, Đức Giê-su đã chứng kiến ‘trái tim chai đá’ của Dân Do-thái, cũng như những người thuộc các dân tộc khác. Chẳng hạn, thánh Mát-thêu trình thuật rằng khi Đức Giê-su sinh tại Bê-lem, có ba đạo sĩ từ Phương Đông tới Giê-ru-sa-lem gặp Hê-rô-đê và hỏi thăm về Đức Giê-su, Vua Do-thái mới sinh, thì trái tim Hê-rô-đê đã loạn nhịp, vì ông sợ rằng Vua Do-thái sẽ lật đổ mình. Ông đã triệu tập các thượng tế và kinh sư để dò hỏi và họ cho biết là Đấng Ki-tô sinh tại Bê-lem, miền Giu-đê. Chúng ta thấy rằng những người lãnh đạo Do-thái am hiểu Kinh Thánh, họ giới thiệu cho Hê-rô-đê rằng Vua Do-thái sinh tại Bê-lem, nhưng trái tim của họ không hề lay chuyển, lòng trí họ không hướng về Thiên Chúa. Còn Hê-rô-đê, với trái tim gian ác, sau khi vỡ mộng vì ba đạo sĩ không trở về như dự tính, ông đã tìm cách giết các trẻ nhỏ ở Bê-lem và vùng phụ cận với mưu tính ‘giết nhầm hơn bỏ sót’ và hy vọng rằng Vua Do-thái mới sinh cùng chung số phận với những đứa trẻ xấu số đó (Mt 2,1-18).

Trong cuộc đời dương thế, Đức Giê-su đã đi Đường Trái Tim để đến với tất cả mọi người, đặc biệt, những người đau khổ, nghèo hèn, bị gạt ra bên lề xã hội. Người đã đi Đường Trái Tim đến với những người tội lỗi. Người đã đi Đường Trái Tim đến với những người bị loại trừ vì định kiến văn hóa, truyền thống, tôn giáo. Người đã đi Đường trái Tim đến với muôn dân. Cuối cùng, trên thập giá, Trái Tim Người bị đâm thâu, máu cùng nước chảy ra, phát sinh nguồn ơn cứu độ cho tất cả mọi người. Nhờ Trái Tim Đức Giê-su, con người cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa ngay trong hành trình trần thế của mình.

Hành động người lính lấy đòng đâm cạnh sườn Đức Giê-su xuyên thâu Trái Tim khi Người đã chết trên thập giá gợi lên trong chúng ta hình ảnh E-và được sinh ra từ cạnh sườn A-đam. Như E-và được sinh ra từ cạnh sườn A-đam, chúng ta được sinh ra từ cạnh sườn Đức Giê-su. Nói đúng hơn, chúng ta được sinh ra từ Trái Tim Đức Giê-su vì lưỡi đòng đâm thâu trái tim Người. Như E-và là mẹ các chúng sinh trong buổi đầu sáng tạo, chúng ta là chúng sinh trong chương trình Thiên Chúa tái tạo nhờ Đức Giê-su, với Trái Tim bị đâm thâu. E-và kết hợp với A-đam thế nào, thì chúng ta cũng kết hợp với Đức Giê-su như vậy. Tuy nhiên, sự kết hợp của chúng ta với Đức Giê-su thì mật thiết và trổi vượt hơn, bởi vì Đức Giê-su thì hơn A-đam và hình ảnh trái tim thì hơn hình ảnh xương sườn. Nhờ Đức Giê-su, chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa.

Xét về mặt thể l‎ý, Trái Tim Đức Giê-su cũng như trái tim của mỗi người chúng ta. Tuy nhiên, Trái Tim Đức Giê-su chính là ‘Trái Tim nhân loại của Thiên Chúa’. Trái Tim đó diễn tả tình yêu vô biên, tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa đối với con người. Nói cách khác, Người đã mang lấy trái tim nhân loại, để yêu thương nhân loại bằng tình yêu của Thiên Chúa. Người đã đi Đường Trái Tim để cảm nhận bao nỗi truân chuyên, đau khổ của con người trong môi trường thế giới thụ tạo và hướng dẫn con người về với Thiên Chúa. Từ trái tim đến trái tim, từ Thiên Chúa Cha, qua Đức Giê-su tới nhân loại và theo chiều ngược lại, một ‘dòng máu luôn luân chuyển’, làm cho con người được thông phần sự sống đời đời của Thiên Chúa.

Nhờ Đường Trái Tim Đức Giê-su, chúng ta sẽ không rơi vào đường của ma quỉ, thế gian, xác thịt. Nhờ Đường Trái Tim Đức Giê-su, chúng ta sẽ không rơi vào đường của bóng đêm, tội lỗi, sự chết. Nhờ Đường Trái Tim Đức Giê-su, chúng ta sẽ không rơi vào đường của chủ nghĩa tương đối, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tiêu thụ và nhiều hình thức chủ nghĩa hạ thấp phẩm giá con người đang nảy sinh trong thế giới đương đại. Nhờ Đường Trái Tim Đức Giê-su, chúng ta sẽ không rơi vào đường của những gì chóng qua mà thế giới đương đại cổ vũ, khuyến khích. Nhờ Đường Trái Tim Đức Giê-su, chúng ta sẽ gặp gỡ chính mình cách đúng đắn nhất, gặp gỡ anh chị em mình cách chân thành nhất, gặp gỡ muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo cách phù hợp nhất. Đặc biệt, nhờ Đường Trái Tim Đức Giê-su, chúng ta sẽ gặp gỡ Thiên Chúa cách thâm sâu nhất.

Kinh nghiệm lịch sử cho chúng ta biết rằng con người qua mọi thời đại thường quan tâm đến khả năng của bộ não, khả năng của tri thức, hơn là khả năng của trái tim. Hậu quả là có nhiều người mắc chứng bệnh ‘đầu to tim nhỏ’, cảm thức của trái tim thường vắng bóng trong các tương quan của đời sống mình. Họ thường nhận định, đánh giá con người dựa trên tri thức hơn là trái tim. Trong thực tế, chúng ta thấy rằng nếu có được sự hòa hợp giữa tri thức và trái tim là điều tốt. Bằng không, khi có sự xung khắc nào đó, thì ưu tiên phải dành cho trái tim, nghĩa là để trái tim lên tiếng, để trái tim dẫn dắt, để trái tim hành động, chứ không phải là tri thức.

Người ta ước tính có khoảng hơn 6500 ngôn ngữ khác nhau trên thế giới. Sự bất đồng ngôn ngữ là một trong những cản trở lớn cho tiến trình hấp thụ văn hóa (enculturation) và tiếp biến văn hóa (acculturation) giữa các dân tộc, cũng như nhiều tương quan khác trong đời sống xã hội. Những người thông dịch tài ba nhất cũng không bao giờ chuyển tải cách trọn vẹn những khái niệm, biểu tượng, tập tục từ nền văn hóa này sang nền văn hóa khác. Thế giới có nhiều ngôn ngữ như vậy, tuy nhiên, có một thứ ngôn ngữ chung cho tất cả mọi người, đó là ‘ngôn ngữ trái tim’. Đây là ngôn ngữ tương giao, nối kết và liên đới. Ngôn ngữ trái tim là ngôn ngữ tha thứ, bao dung, quảng đại. Ngôn ngữ trái tim là ngôn ngữ mở ra, mời gọi, đối thoại. Ngôn ngữ trái tim là ngôn ngữ cảm thương, hi sinh và nâng đỡ.

Ngôn ngữ trái tim trở thành ngôn ngữ tự nhiên của con người. Ngôn ngữ trái tim không phân biệt tuổi tác, giàu nghèo, sang hèn hay bất cứ tiêu chuẩn nào mà con người đặt ra. Ngôn ngữ trái tim là ngôn ngữ siêu việt mọi biên giới. Phải, ngôn ngữ trái tim là ngôn ngữ mà ai cũng có thể ‘nói’ hay ‘diễn tả’. Một đứa bé đang hình thành trong lòng mẹ hay một người câm điếc hoàn toàn vẫn có thể cảm nghiệm và diễn tả ngôn ngữ trái tim. Tuy nhiên, để ngôn ngữ trái tim phát huy tác dụng cao nhất, mỗi người cần luyện tập và chuẩn bị cho mình trái tim luôn mở ra và cảm thông với tất cả mọi người.

Chúng ta ai cũng ít nhiều kinh nghiệm về trái tim chai đá của mình và chứng kiến trái tim chai đá nơi nhiều người khác. Những trái tim chai đá trước bất công xã hội. Những trái tim chai đá trước chuẩn mực luân thường đạo l‎ý. Những trái tim chai đá trước nỗi đau khổ của người khác. Những trái tim chai đá trước sự thật và sự lành nơi người khác. Nguyên nhân chính yếu của trái tim chai đá phát xuất từ sự vô cảm đối với Đấng là Nguyên Ủy và Cùng Đích của vạn vật, là Thiên Chúa Tình Yêu mà Đức Giê-su loan báo và minh chứng bằng sự hy sinh từ bỏ, sự đau khổ, sự chết và phục sinh của Người.

Tiến trình toàn cầu hóa (globalisation) và thế giới kỹ thuật số (the digital world) đem đến nhiều điều tốt đẹp cho con người, đặc biệt đời sống vật chất. Tuy nhiên, khi đời sống vật chất của con người được cải thiện, cũng là lúc chủ nghĩa tiêu thụ lên ngôi và dẫn tới hệ lụy nghiêm trọng là làm cho trái tim con người biến dạng. Trong Tông Huấn Hãy Vui Mừng và Hoan Hỷ, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô khẳng định: “Chủ nghĩa tiêu thụ chỉ làm phù nề trái tim. Nó có thể đem lại những lạc thú nhất thời và chóng qua, chứ không phải niềm vui [đích thực]” (Gaudete et Exsultate 128). Theo ý ngài, niềm vui đích thực là niềm vui của trái tim được nối kết với Trái Tim Thiên Chúa, đó là niềm vui dâng hiến, niềm vui trao ban, niềm vui chia sẻ.

Để có được niềm vui đích thực, tất cả chúng ta được mời gọi biến đổi, và câu hỏi đầu tiên là ‘chúng ta bắt đầu từ đâu?’ Thưa, bắt đầu bằng việc biến đổi trái tim mình. Câu hỏi thứ hai ‘đâu là trái tim mẫu giúp chúng ta biến đổi?’ Thưa, đó là Trái Tim Đức Giê-su, Trái Tim bị đâm thâu vì tội lỗi chúng ta. Khi chúng ta phạm tội, cũng là khi chúng ta đóng trái tim mình lại trước tình yêu của Thiên Chúa được diễn tả nơi Trái Tim Đức Giê-su, cắt đứt dòng chảy thông truyền sống được nối kết qua Trái tim Người. Do đó, chúng ta luôn được mời gọi mở rộng trái tim mình để đón nhận sự tha thứ, đón nhận ân sủng và bình an của Thiên Chúa không ngừng tuôn chảy trừ Trái Tim Đức Giê-su bị đâm thâu.

Không có cách nào khác để trái tim của chúng ta luôn được khỏe mạnh ngoài việc được nối kết với Trái Tim Đức Giê-su. Hơn nữa, việc nối kết với Trái Tim Đức Giê-su không phải là hành động nhất thời hay hành động ‘một lần cho tất cả’, mà là hành động luôn mãi, bởi vì chúng ta mang thân phận yếu đuối mỏng dòn và bị bao vây bởi thế giới bóng đêm và muôn hình thức cám dỗ. Chúng ta được mời gọi luôn nối kết và tái nối kết với Trái Tim Đức Giê-su trong cuộc lữ hành trần thế của mình. Khi trái tim chúng ta chung nhịp với Trái Tim Đức Giê-su, chúng ta có thể vượt qua những giới hạn của bản thân mình. Khi trái tim chúng ta chung nhịp với Trái Tim Đức Giê-su, chúng ta có được khả năng mở ra với anh chị em mình, với toàn thể thế giới thụ tạo, đặc biệt, mở ra với môi trường vĩnh cửu của Thiên Chúa.

Ngắm nhìn Trái Tim Đức Giê-su bị đâm thâu, chúng ta cảm nhận được tình yêu vô bờ của Người đối với mỗi người chúng ta. Ngắm nhìn Trái Tim Đức Giê-su bị đâm thâu, chúng ta cảm nhận được sự khiêm tốn, từ bỏ của Người đối với mỗi người chúng ta. Ngắm nhìn Trái Tim Đức Giê-su bị đâm thâu, chúng ta cảm nhận được sự đau khổ của Người vì sự sống vĩnh cửu của chúng ta. Ngắm nhìn Trái Tim Đức Giê-su bị đâm thâu, chúng ta cảm nhận được sức nặng của tội lỗi chúng ta. Ngắm nhìn Trái Tim Đức Giê-su bị đâm thâu, chúng ta cảm nhận được sự cần thiết phải cộng tác với Người trong mọi biến cố của cuộc sống chúng ta.

Thánh Gioan Kim Khẩu (347-407) nói rằng “nếu bạn tìm được  đường vào trái tim mình, bạn tìm được đường về trời”. Ý của ngài là chúng ta càng gần với mình bao nhiêu thì chúng ta càng gần với Thiên Chúa bấy nhiêu và ngược lại. Khi chúng ta biết được lòng mình, khi chúng ta biết được trái tim mình, cũng là khi chúng ta nhận ra sự cần thiết của sức mạnh tình yêu Thiên Chúa, hầu có thể biến đổi lòng mình, biến đổi trái tim mình theo thánh ý Người. Khi chúng ta biết được lòng mình, khi chúng ta biết được trái tim mình, cũng là khi chúng ta nhận ra sự cần thiết phải luôn trở về với Thiên Chúa. Nhờ vậy, lòng chúng ta, trái tim chúng ta không ngừng được bồi dưỡng, tiếp sức bởi Trái Tim Thiên Chúa.

Kinh nghiệm cuộc sống cho chúng ta thấy rằng trái tim thể l‎ý chúng ta yếu, yếu đến nỗi chỉ cần một vật nhỏ cũng có thể đâm thâu. Tuy nhiên, nó cũng rất mạnh, mạnh đến nỗi bắt đầu làm việc ngay từ trong lòng mẹ, cho đến khi kết thúc cuộc hành trình dương gian. Tương tự như thế, trái tim tâm linh chúng ta yếu, yếu đến nỗi chúng ta dễ làm cho nó trở nên tối tăm mê muội. Tuy nhiên, nó cũng rất mạnh, mạnh đến nỗi giúp chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa nhờ Đức Giê-su. Nó rất mạnh, mạnh đến nỗi nhờ tin vào Đức Giê-su, chúng ta có thể làm những việc Đức Giê-su làm, dạy những điều Đức Giê-su dạy, gặp gỡ những người khác như Đức Giê-su gặp gỡ và yêu thương họ như Đức Giê-su đã yêu thương (Ga 13,34; Ga 14,12).

Con người ngày càng quan tâm hơn đến thế giới tự nhiên, đặc biệt, con người quan tâm đến sức mạnh của lực hấp dẫn, lực điện từ, lực hạt nhân. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng tất cả những lực này không thể so sánh với lực của trái tim, lực của tình yêu, được thể hiện trong chương trình của Thiên Chúa, nhất là Biến Cố Đức Giê-su. Lực này cho phép muôn vật muôn loài được tạo thành từ hư vô (nothingness). Lực này cho phép gắn bó thế giới thụ tạo với Đấng Sáng Tạo, gắn bó môi trường nhân loại với Môi Trường Thiên Chúa, gắn bó thời gian với vĩnh cửu, gắn bó hữu hạn với vô hạn. Đặc biệt, lực này cho phép gắn bó bản tính con người với bản tính Thiên Chúa, gắn bó con người tội lỗi với Thiên Chúa thánh thiện. Đồng thời, lực này cho phép gắn bó con người hay chết với Thiên Chúa hằng sống. Hơn nữa, lực này cho phép con người không ngừng biến đổi để ngày càng hoàn thiện hơn trong hành trình về với Nước Thiên Chúa. Kinh nghiệm của hai thánh tông đồ Gio-an và Tô-ma cho phép chúng ta cảm nghiệm được năng lực vô song phát xuất từ Trái Tim Đức Giê-su.

Trong bữa tiệc ly, khi Đức Giê-su nói rằng một trong các môn đệ sẽ phản bội Người, Phê-rô ra hiệu cho Gio-an, đang tựa đầu vào lòng Đức Giê-su, để hỏi xem Người muốn nói về ai (Ga 13,24). Gio-an đã hỏi và biết được Giu-đa Ít-ca-ri-ốt là người phản bội. Hình ảnh Gio-an tựa đầu vào lòng Đức Giê-su gợi lên nhiều điều quan trọng cho chúng ta. Khi tai của Gio-an lắng nghe nhịp đập của Trái Tim Đức Giê-su, cũng là khi Gio-an cảm nghiệm được tình yêu và tâm tư của Người nhiều hơn so với các môn đệ khác. Khi tựa đầu vào lòng Đức Giê-su và lắng nghe nhịp đập của Trái Tim Người, Gio-an nhận ra nhiều mặc khải quan trọng và ngài đã để lại cho chúng ta (Ga 13-17). Chẳng hạn, Gio-an trình thuật về giới răn mới, giới răn yêu thương (Ga 13,34); Đức Giê-su là đường, là sự thật và là sự sống (Ga 14,6); Đức Giê-su là cây nho (Ga 15,1); Đức Giê-su là bạn của các môn đệ, Người đã hi sinh mạng sống vì bạn mình (Ga 15,12-15); mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi (Ga 14,16; Ga 14,26); sự sống đời đời (Ga 17,3); sự hiệp nhất giữa Đức Giê-su với Đức Chúa Cha và các môn đệ (Ga 16,33; Ga 17,24-26). 

Nhờ tựa đầu vào lòng Đức Giê-su và lắng nghe nhịp đập của trái tim Người, trong cuộc khổ nạn của Đức Giê-su, Gio-an đã không như các môn đệ khác, người thì bán Đức Giê-su, người thì chối Đức Giê-su, người thì bỏ chạy. Gio-an đã trung tín với Người. Gio-an đã đi Đường Thập Giá, cũng là Đường Trái Tim Đức Giê-su. Chỗ đứng cuối cùng của Gio-an là dưới chân thập giá Đức Giê-su cùng với Đức Ma-ri-a. Gio-an đã trung tín với Thầy mình đến cùng. Gio-an chứng kiến người lính lấy lưỡi đòng đâm thâu Trái Tim Đức Giê-su, máu cùng nước chảy ra và cảm nghiệm được đỉnh điểm của tình yêu hiến tế mà Đức Giê-su thực hiện để cứu chuộc nhân loại.

Khi Đức Giê-su được mai táng trong mộ, ngày thứ nhất trong tuần bà Ma-ri-a Mác-đa-la ra thăm mộ và không thấy Đức Giê-su đó nữa, bà về báo với Phê-rô và Gio-an. Nghe tin, Phê-rô và Gio-an chạy ra mộ, Gio-an chạy nhanh hơn Phê-rô và tới trước. Gio-an chạy nhanh hơn Phê-rô không phải vì trẻ hơn, nhưng vì yêu Đức Giê-su nhiều hơn và muốn biết càng sớm càng tốt tình trạng của Thầy mình. Khi tới mộ, Gio-an dừng lại và nhường cho Phê-rô vào trước. Thấy ngôi mộ trống và những gì trước mắt, Gio-an tin rằng Đức Giê-su đã phục sinh, trong khi người môn đệ trưởng Phê-rô vẫn đang bàng hoàng, lo lắng, vì nhìn thấy những điều vô lý theo kinh nghiệm của mình. Như vậy, ai ở gần Trái Tim Đức Giê-su, thì người ấy kết hiệp mật thiết với Người. Đồng thời, người ấy hiểu được căn tính, đời sống, và sứ mệnh của Đức Giê-su hơn những người khác.

Ai nhìn thấy Trái Tim Đức Giê-su, người đó được đổi mới. Tô-ma, môn đệ của Đức Giê-su, là người điển hình. Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an cho chúng ta biết rằng khi Đức Giê-su sống lại và hiện ra lần đầu với các môn đệ, Tô-ma không có mặt. Tô-ma không tin lời các môn đệ thuật lại và tuyên bố: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20,25). Tám ngày sau, Đức Giê-su hiện ra lần nữa và nói với Tô-ma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin. Ông Tô-ma thưa Người: Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20,27-28). Chúng ta biết rằng tới thời điểm này trong sứ mệnh dương thế của Đức Giê-su, Phê-rô và các môn đệ đều hiểu Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, là Con Thiên Chúa, là Đấng Thánh của Thiên Chúa, bởi vì Đức Giê-su đã nói và làm những công việc của Thiên Chúa. Tuy nhiên, tuyên xưng Đức Giê-su là Thiên Chúa lại là Tô-ma, chứ không ai khác. Như vậy, người được mệnh danh là nghi ngờ và chậm tin nhất trong số các môn đệ Đức Giê-su lại là người diễn tả mặc khải lớn lao nhất Κύριός μου κα Θεός μουrằng Đức Giê-su không chỉ là Chúa (Κύριός), mà còn là Thiên Chúa (Θεός). Nhờ và qua Tô-ma, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi bắt đầu ló rạng nơi cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi, và với hai Công Đồng Nicaea (325) và Constantinople (381) tín điều Chúa Ba Ngôi được định tín cách hoàn chỉnh hơn.

Trong Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an, có ba lần tên của Tô-ma xuất hiện gắn liền với những mặc khải quan trọng. Lần thứ nhất, Tô-ma chứng kiến Đức Giê-su làm cho La-da-rô được hồi sinh sau khi mai táng trong mộ bốn ngày (Ga 11,1-44). Lần thứ hai, Tô-ma đặt câu hỏi: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?” (Ga 14,5) và Đức Giê-su trả lời: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Lần thứ ba, Tô-ma nhìn thấy những vết thương của Đức Giê-su, đặc biệt, được Đức Giê-su mời gọi ‘đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy’, cạnh sườn nơi lưỡi đòng đâm thâu trái tim Người. Như vậy, Tô-ma đã ‘nhìn thấy Trái Tim Đức Giê-su’, ‘nhìn thấy tình yêu Đức Giê-su’, tình yêu bằng xương bằng thịt đang đứng trước mặt mình. Khi Đức Giê-su trả lời ‘chính Thầy là con đường’, như các môn đệ khác, chắc rằng Tô-ma không thể hiểu nổi câu trả lời của Đức Giê-su. Tuy nhiên, khi chứng kiến sự đau khổ, khi chứng kiến các vết thương Đức Giê-su, đặc biệt, khi được Đức Giê-su mời gọi đặt tay vào cạnh sườn, đặt tay vào Trái Tim Người, Tô-ma đã hiểu ra rằng Đường của Đức Giê-su là Đường Trái Tim.

Tô-ma diện kiến Đức Giê-su Phục Sinh với những vết thương còn in dấu trên thân thể Người, điều đó quan trọng. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn là sự diện kiến Đức Giê-su Phục Sinh đã trổ sinh hóa trái tốt đẹp. Chính Trái Tim Yêu Thương của Đức Giê-su đã làm cho trái tim nghi ngờ, trái tim thất vọng, trái tim yếu đuối của Tô-ma được biến đổi và trở thành trái tim tín thác, trái tim hy vọng, trái tim mạnh mẽ. Tô-ma đã nhìn thấy Đường Trái Tim Đức Giê-su, đồng thời, nhận ra sự cần thiết để loan báo Đường Trái Tim Người cho anh chị em đồng loại. Quả thật, ngài đã trở nên sứ giả của Đường Trái Tim Đức Giê-su trong những tháng năm còn lại của cuộc đời. Tương truyền rằng ngài đã ra đi loan báo Đường Trái Tim Đức Giê-su tận đất nước Ấn Độ xa xôi và đã minh chứng cho Đường Trái Tim Đức Giê-su bằng chính mạng sống mình.

Đức Giê-su luôn mời gọi mỗi người chúng ta hãy là những môn đệ Người yêu mến. Như Gio-an tông đồ, chúng ta hãy nép mình vào lòng Đức Giê-su, hãy ghé tai vào Trái Tim Đức Giê-su, hãy lắng nghe nhịp đập của Trái Tim Người. Chúng ta cầu xin Đức Giê-su điều chỉnh nhịp đập trái tim chúng ta sao cho hòa điệu với nhịp đập Trái Tim Người. Như Tô-ma, chúng ta hãy chiêm ngắm những vết thương trên thân thể Đức Giê-su, đặc biệt, chiêm ngắm Trái Tim Người bị đâm thâu và thân thưa với Người: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20,28). Nhờ đó, chúng ta không bao giờ tôn thờ Chúa nào khác ngoài Chúa Giê-su và không bao giờ tôn thờ Thiên Chúa nào khác ngoài Thiên Chúa Ba Ngôi mà Chúa Giê-su đã loan báo và làm chứng bằng Đường Trái Tim Người trong hành trình trần thế.

Gm. Phêrô Nguyễn Văn Viên
Ủy ban Giới Trẻ và Thiếu Nhi / HĐGM VN

Các chủ đề học hỏi và suy niệm năm 2020:

WHĐ (31-05-2020) – Vào ngày 11 tháng 2 năm 2018, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã quyết định thêm vào lịch chung Rôma một lễ mới về Đức Mẹ, lễ Đức Maria – Mẹ Giáo hội. Trước đây lễ này đã được cử hành ở cấp độ địa phương tại một số giáo phận và dòng tu. Bây giờ lễ này được cử hành trong toàn thể Giáo hội hoàn vũ, và được ghi trong Nghi thức Sách Lễ Rôma. Lễ mới này không có ngày cố định trong năm Dương lịch, vì nó phụ thuộc vào chu kỳ lễ Phục sinh. Lễ được cử hành vào ngày thứ Hai sau Chúa Nhật lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống.

Người ta có thể tự hỏi danh hiệu mới này của Đức Maria có nghĩa gì? Và tại sao chúng ta mừng lễ này? Như câu thành ngữ cổ: “de Maria numquam satis” (về Đức Maria, thì nói không bao giờ đủ). Lý do theo nhà Thánh Mẫu học, Linh mục Hugh Rahner, SJ, giải thích là vì “bất cứ điều gì được nói về sự khôn ngoan vĩnh cửu của Thiên Chúa, đều có thể được áp dụng theo nghĩa rộng đối với Giáo hội, theo nghĩa hẹp hơn đối với Đức Maria, và theo một cách cụ thể đối với mọi tâm hồn tín hữu.”

Có nhiều ý nghĩa thần học từ việc thiết lập lễ nhớ này. Những ý nghĩa đó bắt nguồn từ việc nhận biết Giáo hội là Thân thể của Chúa Kitô và vai trò của Đức Maria trong đời sống các tín hữu.

Vai trò của Đức Maria

Đức Thánh Cha Phaolô VI đã chính thức dành cho Đức Maria danh hiệu “Mẹ Giáo hội” khi bế mạc kỳ họp thứ III của Công Đồng Vatican II, vào năm 1964. Truy nguyên về nguồn gốc từ thế kỷ thứ IV với Thánh Ambrôsiô, thì tước hiệu “Mẹ Giáo Hội” gợi lên mẫu tính thiêng liêng của Đức Mẹ, một đặc tính gắn liền với bản tính của Giáo hội.

Phần lớn quan điểm Giáo hội học của Công Đồng Vatican II, đặc biệt trong Hiến chế về Giáo hội (Lumen Gentium), được phát triển nhờ sự nhận biết cách phong phú về quan điểm thần học của Thánh Phaolô. Trong đó, các tín hữu nhận biết sự liên kết giữa họ với Đức Kitô như là chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Ngài. Thánh Phaolô đã nói rõ ràng và hùng hồn về chân lý này, và đây cũng là chân lý mà Thánh Phaolô nhận biết trước tiên sau khi trở lại. Khi bị ngã xuống đất và bị mù lòa, Phaolô – Kẻ bắt bớ Kitô giáo lúc đó – nghe thấy một giọng nói hỏi mình: “Saul, Saul, tại sao ngươi lại bắt bớ Ta? (Cv 9: 4). Qua câu nói này, rõ ràng Đức Kitô đã xác định mối hiệp nhất nên một giữa Ngài với những người theo Ngài. Cả hai cùng tạo thành một khối, một thể thống nhất – đó là những gì mà Thánh Augustinô sau này mô tả là “Chúa Kitô toàn thể” (totus Christus) – vì Đức Kitô và người được rửa tội là một thân thể.

Thánh Augustinô đã áp dụng chân lý này vào bối cảnh Thánh Mẫu học một cách rất thích hợp: Đức Maria là “mẹ của những chi thể thuộc về Đức Kitô… những ai tin vào Ðức Kitô, vì được kết hợp chặt chẽ với Người, nhất là trong Bí tích Thánh Thể, thì cũng kết hợp với nhau nhờ đức ái, tạo thành một thân thể duy nhất là Giáo hội, có Đức Kitô là đầu… Đức Maria đã sinh ra Người Con Một, và Giáo hội sinh ra những người mà nhờ Người Con Một mà nên một”.

Vì Đức Maria là mẹ của Đức Kitô, và chúng ta là chi thể của thân thể Đức Kitô – tức Giáo hội – nên chúng ta cũng là con của Đức Maria. Lễ nhớ mừng mẫu tính của Đức Maria đối với Giáo hội được cử hành hàng năm là dịp để suy ngẫm về chân lý rất ý nghĩa này và những hệ lụy từ đó. Và cũng vì tầm quan trọng của mối liên hệ mẫu tính của Đức Maria đối với Giáo hội mà những nghị phụ của Công Đồng Vatican II đã quyết định để phần suy tư dài về Đức Maria ở trong Hiến chế về Giáo hội (Lumen Gentium), chớ không tách ra để viết thành một tài liệu riêng về Đức Mẹ.

Mẫu gương và sự trợ giúp cho Giáo hội

Sự liên kết của Đức Maria với Con mình là không thể tách rời. Lễ nhớ mới này cũng thúc đẩy lòng sùng kính Đức Mẹ, bởi vì lễ này giúp chúng ta hướng về Đức Mẹ là mẫu gương cho cả nhân loại, đặc biệt là các tín hữu. Mẹ là chi thể “ưu tú nhất… và nguyên tuyền nhất của Giáo hội” (LG, số 53).

Thiên chức làm mẹ của Đức Maria được tìm thấy trong sự vâng lời, đức tin, đức cậy và đức ái của Mẹ. Những đặc điểm này là mảnh đất màu mỡ, ở đó Lời Chúa được gieo vào và trổ sinh sự sống dồi dào. Sự sống siêu nhiên đã đến với thế giới qua tiếng thưa “xin vâng” của Mẹ. Đó là tiếng thưa đem lại sự sống mới cho thế giới. Do đó, Đức Maria là Evà mới. Như sự chết đã đến thế giới qua Evà củ thế nào, thì sự sống đã đến thế giới qua Evà mới như vậy.

Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tuyên bố rằng, “với mẫu tính trong Chúa Thánh Thần, Đức Maria ôm lấy từng người trong Giáo hội, và ôm lấy từng người qua Giáo hội. Theo nghĩa này, Đức Maria – Mẹ Giáo hội cũng là gương mẫu của Giáo hội” (Redemptoris Mater, số 47).

“Ðức Maria đã cộng tác cách rất đặc biệt vào công trình của Ðấng Cứu Thế, nhờ lòng vâng phục, nhờ đức tin, đức cậy và đức ái nồng nhiệt, để tái lập sự sống siêu nhiên cho các linh hồn.” (LG, số 61). Vì toàn bộ cuộc đời của Đức Maria là một niềm ước mong của các tín hữu, nên Đức Mẹ lôi cuốn chúng ta đến với ơn cứu rỗi. Đồng thời, qua tấm gương và sự chuyển cầu từ thiên đàng, Đức Mẹ giúp chúng ta vượt qua tội lỗi và biết làm điều tốt. Mẹ không mong muốn gì khác hơn, ngoài ước mong dẫn chúng ta đến với Con của Mẹ.

Sự mẫu mực trong đức vâng phục, đức tin, đức cậy và đức ái được tỏ bày nơi Đức Maria cũng cần được tỏ bày nơi các Kitô hữu. Hay nói một cách đơn giản như Chúa Giêsu: “Đúng hơn phải nói: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa” (Lc 11:28).

Nhờ sự vâng lời của Đức Maria, Giáo hội có một gương mẫu để sống theo ý muốn của Chúa Cha. Nhờ đức tin của Mẹ, Giáo hội học được cách đưa Đức Kitô đến với thế giới. Nhờ đức cậy của Mẹ, Giáo hội học được cách trông cậy vào Chúa (xem Tv 130: 5). Và nhờ đức ái của Mẹ, Giáo hội học được con đường cứu rỗi.

Các Kitô hữu đã hướng về Đức Maria vì những ân sủng đặc biệt và sự chuyển cầu từ thiên đàng của Mẹ trong suốt nhiều thế kỷ, “đã được Giáo hội kêu cầu với nhiều danh hiệu như Trạng Sư, vị Bảo Trợ, Ðấng Phù Hộ và Ðấng Trung Gian” (LG, số 62). Việc thiết lập lễ Đức Maria – Mẹ Giáo hội mang đến một cơ hội nữa cho các chi thể trong thân thể Con của Mẹ, hân hoan kêu cầu trong tình yêu mẹ hiền của Mẹ – Đấng là gương mẫu và sự trợ giúp của chúng ta.

Michael R. Heinlein
Văn Việt chuyễn ngữ từ simplycatholic.com
Nguồn: Hội Đồng Giám Mục Việt Nam

Chủ đề học hỏi và suy niệm tháng 5 năm 2020

Các bạn trẻ thân mến,

Chúng ta đang trong Mùa Phục Sinh và chúng ta biết rằng Đức Giê-su Phục Sinh là Biến Cố kỳ diệu nhất trong lịch sử nhân loại. Nhờ Người, niềm hy vọng chữa lành trọn vẹn của con người, tức là vượt qua sự chết và được sống muôn đời, trở thành hiện thực. Trong tháng Tư vừa qua, chúng ta cùng nhau suy niệm chủ đề ‘Đức Giê-su – Đường Tình Yêu’. Tháng Năm này, chúng ta suy niệm chủ đề ‘Đức Giê-su – Đường Chữa Lành’. Người đã đi Đường Chữa Lành đến với con người, đồng thời, mang lấy tất cả đau khổ của con người vào chính bản thân mình mà đưa lên cây thập giá và đã sống lại để ban sự sống vĩnh cửu cho tất cả mọi người.

Đau khổ là một trong những mầu nhiệm lớn đối với con người. Tùy không gian và thời gian, mỗi người trải qua những hình thức đau khổ khác nhau và đau khổ nhất là sự chết. Các hình thức chết cũng rất đa dạng, trong đó, chết vì dịch bệnh được xem là một trong những hình thức chết khủng khiếp nhất, bởi vì số người chết rất nhiều và mức độ lây nhiễm lớn, lan rộng trong không gian và trải dài trong thời gian. Kinh Thánh Ki-tô Giáo đề cập một số chủ đề liên quan dịch bệnh, chẳng hạn như Xh 5,1-5; Xh 9,13-34; Đnl 28,59; 2 Sm 24,10-17; 2 Sb 7,13-15; Lc 21,11; Kh 6,8; Kh 18,8. Lịch sử nhân loại trải qua hàng chục đại dịch khác nhau, đặc biệt, trong thiên niên kỷ vừa qua có hai đại dịch khủng khiếp. Đại dịch thứ nhất vào thời Trung Cổ có tên là Cái Chết Đen (the Black Death), cao điểm vào khoảng 1346-1351, giết chết hơn một phần ba dân số châu Âu. Gần 200 năm sau, dân số châu Âu mới hồi phục. Đại dịch thứ hai có tên là cúm Tây Ban Nha (1918-1920), với khoảng 500 triệu người bị nhiễm bệnh (gần một phần ba dân số thế giới thời bấy giờ), trong đó 50 triệu người chết.

Hơn bốn tháng nay, mọi người trên thế giới đều sợ hãi vì đại dịch có tên là Covid-19. Tới cuối tháng 4 năm 2020, theo ước tính có hơn 3 triệu người nhiễm bệnh và hơn 220 ngàn người chết. Đại dịch này lan rộng khắp nơi, hơn 210 quốc gia và vùng lãnh thổ bị ảnh hưởng. Covid-19 không phân biệt môi trường địa l‎ý, dân tộc, màu da, tôn giáo, kẻ giàu, người nghèo, kẻ già, người trẻ, kẻ khỏe mạnh, người đau yếu. Với Covid-19, tất cả mọi người đều bình đẳng. Với Covid-19, Vạn Lý Trường Thành hay bất cứ bức tường nào mà con người có thể dựng nên đều trở thành vô nghĩa. Trực tiếp hay gián tiếp, Covid-19 đã ‘đụng chạm’ đến tất cả mọi người trên thế giới. Ai cũng sợ mắc phải Covid-19, bởi vì, mắc phải Covid-19 có thể dẫn tới chết chóc, chia lìa hay tổn thất khủng kiếp.

Covid-19 rất yếu, yếu đến nỗi nếu ở trên bề mặt nào đó, thì chỉ dùng xà phòng cọ rửa là nó tiêu tan. Tuy nhiên, Covid-19 cũng rất mạnh, mạnh đến nỗi hàng chục ngàn máy bay hay tàu du lịch hạng sang như World Dream, Diamond Princess, Ruby Princess hay những tàu sân bay lừng lẫy như USS Theodore Roosevelt của Mỹ, Charles de Gaulle của Pháp đều trở thành ‘nạn nhân’ của nó. Những nơi sang trọng và nhộn nhịp như London, Paris, Rome, Hong Kong, New York đều trở nên vắng lặng. Nhiều thành phố trên thế giới trở thành ‘sa mạc’, điều đó khó tin, nhưng có thật. Sự thiệt hại về tinh thần, vật chất do Covid-19 rất lớn và chưa biết đến bao giờ mới chấm dứt được.

Với Covid-19, tự do của con người bị hạn chế. Chúng ta có thể nói rằng, cho đến hôm nay, chưa bao giờ nhân loại chứng kiến một quyền lực nào trong lịch sử có thể ‘tước quyền tự do’ của con người như vậy. Với Covid-19, bậc thang các giá trị bị đảo lộn. Những gì thường ngày chúng ta cho là quan trọng, thiết yếu lại trở nên ít quan trọng, thứ yếu. Quả thực, phòng tránh Covid-19 để ngăn ngừa chết chóc tang thương và các hệ lụy khác là điều cần thiết phải làm trong bối cảnh hiện tại. Khắp nơi, mệnh lệnh ‘giãn cách xã hội’ (social distancing) lan truyền. Xa nhau thường mang nghĩa tiêu cực, nhưng trong bối cảnh đại dịch, thì lại tích cực. Các phương tiện truyền thông lặp đi lặp lại những câu như ‘xa nhau là tôn trọng nhau’, ‘xa nhau là yêu nhau’, ‘xa nhau là để gần nhau’.

Covid-19 ‘nhắc nhở’ chúng ta rằng trong khi chúng ta quan tâm đến nó, thì cũng phải quan tâm đến những nguyên nhân và hình thức chết chóc khác nữa do con người gây nên, chẳng hạn như hàng triệu em bé không có cơ hội chào đời mỗi năm vì nạn phá thai hay hàng triệu người chết dần chết mòn vì nghèo đói, tai nạn giao thông và nhiều bệnh tật khác mà con người có thể cộng tác với nhau để giảm thiểu tầm mức nguy hại. Chúng ta thường quan tâm đến những cái chết bất thường hay số đông người chết trong khoảng thời gian nào đó, nhưng lại lãnh đạm với những cái chết khủng khiếp đã và đang diễn ra hằng ngày. Hơn nữa, trong khi chúng ta quan tâm đến những loại vi-rút giết chết thể xác, thì cũng cần quan tâm đến nhiều loại vi-rút đang giết dần, giết mòn tâm hồn chúng ta, chẳng hạn như ‘vi-rút lương tâm chai cứng’, ‘vi-rút tôn mình lên bằng cách hạ bệ người khác’, ‘vi-rút coi trọng chức năng hơn phẩm giá con người’, ‘vi-rút lãnh đạm, dửng dưng’, ‘vi-rút bất công’.

Không biết khi nào thì đại dịch Covid-19 sẽ kết thúc, nhưng dấu ấn của nó đã in đậm trong dòng lịch sử nhân loại. Theo các nhà chuyên môn, có muôn vàn vi-rút gây bệnh thể lý khác nữa đang hiện diện trong môi trường thiên nhiên và có sự ảnh hưởng lớn lao trên con người và các sinh vật khác. Trong vũ trụ này, muôn vật muôn loài lệ thuộc lẫn nhau và không có thực thể nào ‘tự hữu’ hay ‘tự giải thích cho chính mình’. Chúng ta chỉ có thể hiểu được thực thể này trong tương quan với các thực thể khác. Đồng thời, chúng ta có được kinh nghiệm rằng tất cả các thực thể trong vũ trụ này đều chịu cảnh biến đổi, chết chóc, nay còn mai mất.

Người ta đang tranh luận với nhau về câu hỏi ‘Covid-19 do thiên nhiên hay do con người tạo nên?’. Điều chúng ta biết chắc chắn là con người không thể tạo nên Covid-19 từ hư vô (nothingness), mà chỉ có thể gây đột biến từ vi-rút có cấu trúc tương tự hoặc từ những thực thể đã có sẵn trước. Trong quá khứ có nhiều người cho rằng, với sự tiến bộ của tri thức và khoa học kỹ thuật, con người hoàn toàn có thể chế ngự thiên nhiên và giải thích mọi sự trong thiên nhiên. Thực tế cho thấy sự chế ngự của con người đối với thiên nhiên vô cùng nhỏ bé so với năng lực và sự ảnh hưởng của thiên nhiên trên con người. ‘Tiếng ho của Covid-19’ nhắc nhở chúng ta điều đó. Đồng thời, Covid-19 giúp chúng ta ngày càng nhận thức rằng những câu hỏi về chính mình, về thiên nhiên, về các hiện tượng, biến cố cùng các tương quan trong đó luôn vượt quá giới hạn tri thức con người cũng như sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật hôm nay và luôn mãi.

Covid-19 phơi bày những giới hạn của con người: Giới hạn về nhận thức dịch bệnh để đưa ra những quyết định đúng đắn liên quan đến cơ sở vật chất, nguồn lực tài chính, nhân sự nhằm giúp đỡ những người bệnh và những người chưa bị bệnh; giới hạn về khả năng phán đoán để đưa ra những quyết định phù hợp nhằm duy trì đời sống trong quá trình đương đầu với dịch bệnh; giới hạn về việc đánh giá tầm ảnh hưởng của dịch bệnh, cũng như không gian và thời gian của sự ảnh hưởng; giới hạn về việc lượng định sức chịu đựng của con người thuộc các lứa tuổi đối với dịch bệnh. Khi Covid-19 vừa được công bố, không ai có thể hình dung được cảnh tàn phá rộng lớn và tang thương như chúng ta chứng kiến trong bối cảnh hiện tại. Quả thật, Covid-19 đã gây đau khổ và làm đảo lộn chương trình của hàng tỷ người trên thế giới.

Covid-19 cũng là dịp cho chúng ta suy niệm về thân phận con người trong thế giới thụ tạo. Con người thật mạnh mẽ, nhưng cũng thật yếu đuối. Con người dễ bị tổn thương bởi nhiều sự vật, hiện tượng, biến cố trong thiên nhiên. Con người có thể lên tận các tinh tú, xuống tận đáy biển. Tuy nhiên, con người không bao giờ ngăn cản hay tận diệt hết các loại vi-rút trên trần gian này. Con người có thể tìm ra nhiều loại vắc-xin và nhiều loại thuốc đặc hiệu để chữa trị dịch bệnh cũng như nhiều loại bệnh tật khác. Tuy nhiên, các loại vi-rút và bệnh tật của con người luôn tiềm tàng và mạnh mẽ hơn khả năng con người có thể tạo nên các phương thức chữa trị. Con người cần ‘Ai đó’ giúp đỡ để ngày càng hiểu mình, hiểu thế giới thụ tạo hơn, đồng thời biết sống hòa hợp với thế giới thụ tạo hơn trong hành trình trần thế của mình.

Chúng ta có thể dùng hình ảnh Covid-19 để diễn tả về Tội Nguyên Tổ theo mặc khải Ki-tô giáo. Chúng ta không thấy Covid-19 bằng mắt thường, nhưng tốc độ lây lan và sức tàn phá của nó thật khốc liệt. Đặc biệt, nó trực tiếp tấn công vào đường hô hấp, làm cho con người mất ‘sinh khí’ và ‘tắt thở’ nhanh đến mức không kịp chữa trị. Tội Nguyên Tổ có thể được xem như ‘Vi-rút Tâm Linh’ vậy. Không những chúng ta không thấy Tội Nguyên Tổ bằng mắt thường, mà các dụng cụ tinh vi của khoa học thực nghiệm cũng không bao giờ ‘thăm dò’ được. Tuy nhiên, nó tấn công vào đời sống con người, làm cho con người hao mòn ‘nhuệ khí’ và suy yếu ‘thần khí’ được Thiên Chúa phú bẩm trong tâm hồn. Chúng ta thấy được hậu quả của Tội Nguyên Tổ nơi mỗi người chúng ta, cũng như nơi tất cả mọi người trong mọi thời và khắp mọi nơi.

Mong mỏi lớn nhất của những người hữu trách và giới khoa học toàn cầu là tìm được người đầu tiên bị nhiễm Covid-19 và vật chủ lây bệnh cho người đó. Còn ‘Vi-rút Tâm Linh’ thì mặc khải Ki-tô Giáo đã cho chúng ta biết mầm mống gây bệnh là quỉ dữ và bệnh nhân đầu tiên là Nguyên Tổ của loài người, A-đam và E-và. Mục đích của việc tìm kiếm người đầu tiên nhiễm bệnh và mầm mống gây bệnh là để đẩy nhanh tiến trình tìm kiếm vắc-xin phù hợp, nhằm giúp con người phòng chống Covid-19. Tuy nhiên, Tội Nguyên Tổ, ‘Vi-rút Tâm Linh’ thì đã có ‘Vắc-xin’ rồi, đó là Đức Giê-su, Con Thiên Chúa. Trong khi vắc-xin y học chỉ có tác dụng giúp con người phòng chống vi-rút, còn Đức Giê-su tẩy trừ ‘Vi-rút Tâm Linh’ cũng như các hình thức tội lỗi và đau khổ, hậu quả của Vi-rút này. Đây không phải là Vắc-xin do con người tạo ra, mà là do Thiên Chúa ban tặng. Nói cách khác, với sự hiện diện của Đức Giê-su giữa lòng nhân thế, tội lỗi con người được tha thứ, các hình thức đau khổ và sự chết bị tiêu diệt.

Kinh Thánh Tân Ước cho chúng ta biết trong sứ vụ công khai của mình, ở đâu Đức Giê-su hiện diện, thì ở đó có sự chữa lành. Đối với Người, không có hình thức bệnh tật thể xác hay tâm hồn nào lại không thể cứu chữa được. Người cảm nhận được nỗi đau đớn, thống khổ của những người bệnh và chữa lành họ mà không đặt điều kiện nào. Hơn nữa, Người cũng không dùng thuốc thang hay bất cứ phương tiện nào khác để chữa trị bệnh tật. Chẳng hạn, khi chữa trị cho người con của sĩ quan cận vệ nhà vua ở Ca-phác-na-um, viên sĩ quan nói với Đức Giê-su: “Thưa Ngài, xin Ngài xuống cho, kẻo cháu nó chết mất! Đức Giê-su bảo: Ông cứ về đi, con ông sống” (Ga 4,49-50). Khi ông đang trên đường về nhà thì gia nhân đón gặp ông và nói rằng con ông sống rồi. Ông nhận ra đúng lúc Đức Giê-su nói ‘con ông sống’, thì con ông được khỏi bệnh. Tương tự như thế, Đức Giê-su nói với người đau ốm đã ba mươi tám năm: “Anh hãy trỗi dậy, vác chõng mà đi! Người ấy liền được khỏi bệnh, vác chõng và đi được” (Ga 5,8-9).

Mặc dầu ‘Vắc-xin Tâm Linh’ đã được trao tặng cách dồi dào phong phú và đưa đến cho mọi người và mọi nơi, nhưng con người không thể được chữa lành nếu không có thao thức và không chịu mở rộng tâm hồn để đón nhận. Thật vậy, khi Đức Giê-su chữa lành ai đó, Người mời gọi họ đặt niềm tin vào Thiên Chúa và vào Người. Chẳng hạn, khi chữa trị đứa trẻ bị quỷ ám mắc bệnh động kinh, người cha của đứa trẻ nói với Đức Giê-su: “Nếu Thầy có thể làm được gì, thì xin chạnh lòng thương mà cứu giúp chúng tôi” (Mc 9,22). Đức Giê-su trả lời: “Sao lại nói: nếu Thầy có thể? Mọi sự đều có thể đối với người tin” (Mc 9,23). Cha đứa trẻ đáp: “Tôi tin! Nhưng xin Thầy giúp lòng tin yếu kém của tôi!” (Mc 9,24). Sau đó, Đức Giê-su đã trục xuất tên quỷ ra khỏi đứa trẻ và em được khỏe mạnh. Trong Biến Cố Truyền Tin, thánh Lu-ca trình thuật rằng sứ thần Gáp-ri-en nói với Đức Ma-ri-a: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37). Như vậy, chúng ta học được hai điều trong tương quan giữa con người với Thiên Chúa: (1) Mọi sự đều có thể đối với Thiên Chúa và (2) mọi sự đều có thể đối với người tin.

Qua việc chữa lành các hình thức bệnh hoạn tật nguyền của con người, Đức Giê-su minh chứng rằng Người là Đấng được Thiên Chúa sai đến và Người thực thi chương trình của Thiên Chúa. Khi Gio-an Tẩy Giả sai các môn đệ đến hỏi Đức Giê-su về căn tính của Người: “Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” (Lc 7,20). Đức Giê-su trả lời: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe tin mừng” (Lc 7,22). Tương tự như vậy, trong buổi đầu loan báo Tin Mừng, thánh Phê-rô nói với dân chúng rằng: “Đức Giê-su Na-da-rét, là người đã được Thiên Chúa phái đến với anh em. Và để chứng thực sứ mệnh của Người, Thiên Chúa đã cho Người làm những phép mầu, điềm thiêng và dấu lạ giữa anh em” (Cv 2,22). Tất cả những điều đó dẫn chúng ta tới xác tín vững chắc rằng sự hiện diện của Đức Giê-su trên trần gian là sự hiện diện của Thiên Chúa và công việc của Người cũng chính là công việc của Thiên Chúa.

Sự chữa lành của Đức Giê-su thật đa dạng, chẳng hạn như Người chữa lành mọi bệnh tật thể xác, tâm hồn, trừ quỉ, kiểm soát mãnh lực thiên nhiên, củng cố đức tin, tha thứ tội lỗi, hồi sinh người chết. Các hình thức chữa lành của Người cũng thật đa dạng, chẳng hạn như Người dùng lời nói, đụng chạm hay đặt tay. Sự chữa lành của Đức Giê-su diễn tả tình thương của Người đối với con người và quyền năng của Người trên muôn vật muôn loài, đặc biệt trên các hình thức sự dữ, đau khổ và sự chết. Tất cả các hình thức phép lạ Đức Giê-su thực hiện trong sứ vụ rao giảng nhằm chuẩn bị cho phép lạ cả thể nhất, đó là việc Người chịu đau khổ, chịu chết và sống lại.

Mang lấy bản tính con người, Đức Giê-su nối kết bản tính chúng ta với bản tính Thiên Chúa. Với sự quan tâm ân cần, Người chữa trị chúng ta khỏi sự lãnh đạm. Với tình yêu vô điều kiện, Người chữa trị chúng ta khỏi sự hận thù. Với niềm tín thác vào Thiên Chúa Cha, Người chữa trị chúng ta khỏi sự nghi ngờ. Với tinh thần biết ơn Thiên Chúa Cha, Người chữa trị chúng ta khỏi sự vô ơn. Với sự trung tín, Người chữa chúng ta khỏi sự phản bội. Với sự trút bỏ chính mình, Người chữa trị chúng ta khỏi sự tham lam vô độ. Với sự khiêm tốn, Người chữa trị chúng ta khỏi sự tự cao tự đại. Với niềm hy vọng chân thành, Người chữa trị chúng ta khỏi sự thất vọng. Với niềm vui loan báo Tin Mừng, Người chữa trị chúng ta khỏi sự buồn sầu trong cuộc sống. Với việc mở mắt cho người mù loà, Người chữa trị chúng ta khỏi sự tăm tối tâm linh. Khi bị treo trên thập giá, Người cứu chúng ta khỏi tội lỗi. Khi sống lại, Người dẫn chúng ta vượt qua vực thẳm sự chết. Khi mang lấy những yếu tố của thế giới thụ tạo, Người đổi mới thế giới thụ tạo thành trời mới đất mới.

Chúng ta được chữa lành bởi những vết thương của Đức Giê-su. Khoảng 700 năm trước Biến Cố Đức Giê-su, ngôn sứ I-sai-a đã viết về vai trò ‘gánh tội trần gian’ của Người: “Chính Người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm; người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành” (Is 53,5). Điều này được thánh Phê-rô diễn tả cách rõ ràng và cụ thể hơn trong thư của ngài (1 Pr 2,24). Đức Giê-su không chỉ mang tội lỗi cho một số người nào đó, trong một khoảng không gian, thời gian nào đó, mà mang tất cả tội lỗi của tất cả mọi người trong dòng lịch sử. Nói cách khác, hành trình trần thế của Đức Giê-su, đặc biệt, sự đau khổ, sự chết và sống lại của Người trở thành Biến Cố ‘một lần cho tất cả’ để tái tạo con người và muôn vật muôn loài mọi nơi và mọi thời.

Qua việc chữa lành, Đức Giê-su giúp người bệnh và tất cả những người chứng kiến hướng tới sự chữa lành quan trọng hơn, đó là sự chữa lành đời sống tâm linh, đời sống trong tương quan giữa con người với Thiên Chúa, với tha nhân và với thế giới thụ tạo. Hơn nữa, khi chữa lành cho ai, Đức Giê-su mời gọi tất cả mọi người đang hiện diện hướng về sự sống dồi dào trong Nước Thiên Chúa. Đó là l‎ý do giải thích tại sao tác giả sách Tin Mừng thứ tư (thánh Gio-an) không dùng từ ‘phép lạ’ để nói về những việc kỳ diệu Đức Giê-su làm, mà dùng từ ‘dấu lạ’. Thánh nhân muốn nhắc nhở mọi người biết nhìn sâu hơn, nhìn xa hơn và nhìn rộng hơn những gì họ chứng kiến hoặc nghe người khác thuật lại.

Trong khi Đức Giê-su thực thi các điềm thiêng, dấu lạ cho nhiều người để nâng đỡ họ, Người đã không thực thi điềm thiêng dấu lạ cho chính mình. Điều này đã được đám đông xung quanh Người trong Biến Cố Thập Giá làm chứng: “Hãy cứu lấy mình đi! Nếu mi là Con Thiên Chúa, thì xuống khỏi thập giá xem nào!…Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình…Hắn là Vua Ít-ra-en! Hắn cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi, chúng ta tin hắn liền” (Mt 27,40-42). Đức Giê-su, Đường Chữa Lành đã không chiến thắng đau khổ theo cách con người suy nghĩ hay tưởng tượng. Trái lại, Người chiến thắng đau khổ và sự chết bằng việc gánh lấy đau khổ và sự chết của tất cả mọi người. Đường Chữa Lành của Người là Đường vượt qua đau khổ và sự chết để tiêu diệt hoàn toàn đau khổ và sự chết để đem lại sự sống đích thật cho tất cả mọi người.

Chúng ta cần nhận thức rằng những phép lạ hay dấu lạ Đức Giê-su thực hiện không ngược lại trật tự tự nhiên, nhưng là khôi phục trật tự tự nhiên vốn có ngay từ buổi đầu tạo dựng, bởi vì “Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp” (St 1,31). Với sự vô ơn và tự do lăng loàn của con người, tội lỗi, sự dữ đã xâm nhập trần gian và hậu quả là các hình thức đau khổ, bệnh tật, sự chết ‘đã lan tràn đến hết mọi người’ (Rm 5,1-12). Hơn nữa, qua những phép lạ hay dấu lạ, Đức Giê-su diễn tả lời hứa cứu độ của Thiên Chúa (St 3,15). Đồng thời, những phép lạ hay dấu lạ đó giúp con người nuôi dưỡng niềm hi vọng vào sự chữa lành trọn vẹn khi Thiên Chúa qui tụ muôn vật muôn loài trong Người.

Căn tính, đời sống và sứ mệnh của Đức Giê-su trong hành trình trần thế cho phép chúng ta nhận thức rằng Người vừa là Thầy Thuốc, vừa là Thuốc Chữa cho tất cả mọi người. Chúng ta, ai cũng có kinh nghiệm rằng khi chữa bệnh, thầy thuốc và thuốc chữa là hai thực thể khác nhau. Trong trường hợp Đức Giê-su, Người chữa bệnh cho người khác mà không cần bất cứ thứ thuốc nào, bởi Người là Thuốc Chữa trị mọi thứ bệnh, kể cả sự chết. Người không chỉ hiện diện 33 năm trong lịch sử, mà còn hiện diện với gia đình nhân loại mọi ngày cho đến tận thế (Mt 28,20). Người hiện diện theo nhiều cách thức khác nhau, chẳng hạn như Lời Người, ân sủng Người hay qua các bí tích trong Giáo Hội. Đặc biệt, Người hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể, để trở nên Của Ăn và Thuốc Chữa hữu hiệu nhất cho đời sống tâm linh của con người trong hành trình trần thế.

Mỗi người chúng ta ai cũng bị thương tích tâm hồn và thể xác. Tuy nhiên, sự nhìn nhận của mỗi người đối với thương tích của mình khác nhau. Có người sẽ từ chối rằng mình bị thương tích. Có người cho rằng thương tích của mình là không đáng lo lắng. Có người nhận ra thương tích của mình nghiêm trọng, nhưng thời gian mình còn dài, mình sẽ tìm cách chữa trị khi thuận tiện. Có người sử dụng những liều thuốc an thần để tạo cảm giác dễ chịu bên ngoài, nhưng thực ra bệnh tật ngày càng trầm trọng bên trong. Nói cách khác, có bao nhiêu người thì có bấy nhiêu phản ứng khác nhau về những thương tích của bản thân. Đức Giê-su, Đường Chữa Lành, luôn mời gọi tất cả mọi người hãy đến với Người trong mọi nơi, mọi lúc để được Người chữa lành tận căn và ban ân sủng. Do đó, vấn đề chính là sự đáp trả của mỗi người đối với lời mời gọi của Đức Giê-su.

Với kinh nghiệm được chữa lành, nhất là sự yêu thương và lòng khoan dung tha thứ của Đức Giê-su, các môn đệ của Người đã từ bỏ tất cả, đặc biệt từ bỏ chính mình, để cộng tác đắc lực với Đức Giê-su Phục Sinh, tiếp tục chương trình chữa lành của Người. Quả thật, Đức Giê su đã sai các môn đệ thi hành chính sứ vụ chữa lành thể lý và tinh thần cho dân chúng mà Người đã thực hiện: “Đức Giê-su gọi mười hai môn đệ lại, để ban cho các ông quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền” (Mt 10,1). Sách Công Vụ Tông Đồ trình thuật rằng trong buổi đầu loan báo Tin Mừng, người ta mang đến cho Phê-rô và Gio-an một người què từ khi lọt lòng mẹ. Anh ta chăm chú nhìn các ngài và mong được bố thí. Phê-rô nói với anh: “Vàng bạc thì tôi không có; nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây: nhân danh Đức Giê-su Ki-tô người Na-da-rét, anh đứng dậy mà đi!” (Cv 3,6). Với lời đó, anh ta trở thành người bình thường, “vừa đi vừa nhảy nhót và ca tụng Thiên Chúa” (Cv 3,8). Đây là sự bố thí hào phóng nhất. Từ nay, anh ta thoát cảnh què quặt, thoát cảnh cậy nhờ vào người khác để sống qua ngày. Hơn thế nữa, vì được chữa lành nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, từ nay anh ta trở thành nhân chứng cho anh chị em mình về Đức Giê-su, Đường Chữa Lành.

Thánh Phao-lô cũng vậy, trước khi gặp Đức Giê-su Phục Sinh, ngài lùng bắt các Ki-tô hữu. Biến cố Đa-mát khiến ngài mù mắt. Sau 3 ngày, ngài được sáng mắt nhờ Đức Giê-su Phục Sinh cứu chữa qua trung gian người môn đệ Đức Giê-su là Kha-na-ni-a. Khi được Đức Giê-su sai đến gặp Phao-lô, Kha-na-ni-a nói: “Anh Sa-un, Chúa đã sai tôi đến đây, Người là Đức Giê-su, Đấng đã hiện ra với anh trên đường anh tới đây. Người sai tôi đến để anh lại thấy được và để anh được đầy Thánh Thần. Lập tức có những cái gì như vảy bong ra khỏi mắt ông Sao-lô, và ông lại thấy được. Ông đứng dậy và chịu phép rửa. Rồi ông ăn và khoẻ lại” (Cv 9,17-19). Đức Giê-su Phục Sinh không chỉ chữa lành mắt thể l‎ý của Phao-lô và cho ngài được thấy, mà còn chữa lành mắt tâm hồn Phao-lô để ngài thấy được Đức Giê-su là Đường Chữa Lành. Từ đó, Phao-lô trở thành môn đệ Đức Giê-su, Đường Chữa Lành và minh chứng cho Người bằng đời sống hi sinh, gian khổ cho đến hơi thở cuối cùng.

Qua những điểm trình bày ở trên, chúng ta có thể tóm lược chương trình của Thiên Chúa được Đức Giê-su, Đường Chữa Lành thực hiện vào 5 điểm chính như sau: (1) Nhờ Đức Giê-su và trong Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa sáng tạo con người và muôn vật muôn loài trong tình trạng tốt lành. (2) Nguyên Tổ đã phạm tội và hậu quả là mọi người trong gia đình nhân loại đều mang thân phận tội lỗi cũng như các hình thức đau khổ và bệnh tật thể xác, tâm hồn. (3) Đức Giê-su vừa là Thầy Thuốc, vừa là Thuốc Chữa được Thiên Chúa tặng ban cho tất cả mọi người. (4) Đức Giê-su đã mang lấy tội lỗi, đau khổ, bệnh tật và sự chết của con người mà đưa lên cây thập giá và đã sống lại để ban sự sống vĩnh cửu cho tất cả mọi người. (5) Tất cả chúng ta được mời gọi luôn kết hợp với Đức Giê-su để được chữa lành, đồng thời, đi Đường Chữa Lành của Người để đến với mọi người và muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo này.

Gm. Phêrô Nguyễn Văn Viên
Ủy ban Giới Trẻ và Thiếu Nhi / HĐGM VN

Các chủ đề học hỏi và suy niệm năm 2020:

WGPSG / Aleteia — Các bài Tin Mừng và Phụng vụ liên tục cho thấy cần phải đồng hành với Chúa Giêsu trên “con đường khổ nạn của Người.” 

Tuần Thánh là thời gian thánh thiêng nhất trong Năm Phụng vụ của Giáo hội, tập trung trọn vẹn vào cuộc khổ nạn, cái chết và phục sinh của Chúa Giêsu. Một chủ đề được lặp đi lặp lại trong suốt tuần này là lời kêu gọi đồng hành cùng Chúa Giêsu trong khoảng thời gian đau thương nhất của Người nơi trần thế.

Chúa nhật Lễ Lá khai mạc Tuần Thánh với việc long trọng thuật lại cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu và thông thường, được phân công thành các vai để kể lại. Khi được cử hành trong một nhà thờ, giáo dân thường đảm nhận vai đám đông. Điều này lên đến đỉnh điểm khi toàn dân hô lên: “Đóng đinh nó đi! Đóng đinh nó đi!” Trong giây phút ấy, chúng ta nhận ra rằng tội lỗi mình đã góp phần vào việc đóng đinh Chúa Giêsu và cảm nhận được Chúa Giêsu đã chịu đau khổ, chịu chết vì mình như thế nào, mặc dù chúng ta chưa được sinh ra khi ấy.

Rồi ít ngày sau là Thứ Năm Tuần Thánh, Chúa Giêsu hỏi chúng ta như Người hỏi các môn đệ của Người: “Thế anh em không thể canh thức với Thầy một giờ được sao? Anh em hãy canh thức và cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ (Mt 26, 40-41). Chúa Giêsu muốn chúng ta ở với Người khi Người hấp hối trong vườn Cây Dầu và an ủi Người với sự hiện diện của ta. Nhờ thế, khi gặp đau khổ, ta cũng được an ủi và vui mừng với sự hiện diện và khích lệ của Người.

Vào Thứ Sáu Tuần Thánh, chúng ta đọc lại Bài Thương Khó và sau đó trong phụng vụ, linh mục nâng Thánh giá lên cho mọi người chiêm ngắm. Mỗi người được mời gọi tiến lên để tôn kính thánh giá Chúa bằng một nụ hôn, hoặc cung kính cúi đầu. Chúng ta được đưa đến đồi Canvê và thậm chí có thể suy ngẫm về việc Chúa Giêsu đã không đi lên đó một mình. Người được ông Simon thành Cyrene vác đỡ thánh giá và được bà thánh Veronica lau mặt. Rồi dưới chân thập giá, Mẹ Maria và Thánh Gioan đứng ở đó để đồng hành với Người.

Sau cùng, vào Thứ Bảy Tuần Thánh và Chúa Nhật Phục Sinh, chúng ta cùng với bà Maria Madalena đến ngôi mộ, chỉ để thấy nó trống rỗng! Chúa Giêsu không còn ở đó và đã sống lại rồi!

Khi cử hành Tuần Thánh, chúng ta đừng quên đồng hành cùng Chúa Giêsu và theo bước chân của Người để chúng ta có thể vui mừng hân hoan khi thấy Người không còn ở trong mộ nữa!

Philip Kosloski (Aleteia)/ Minh Lộc chuyển ngữ
Nguồn: Tổng giáo phận Sài Gòn

WGPSG / Aleteia — Chúa nhật Lễ Lá năm nay sẽ diễn ra trong hoàn cảnh bất thường vì các nhà thờ sẽ vắng bóng người. Nhưng những hoàn cảnh bất thường không ngăn cản chúng ta giương cao nhành lá cọ và biến tuần lễ sắp tới thành một Tuần Thánh thực sự. 

Cuộc rước kiệu vào Chúa nhật Lễ Lá khởi đầu cho Tuần Thánh với sự hiện diện của Chúa Giêsu được thể hiện qua phụng vụ của Giáo hội. Mặc dù nó gợi lên những sự kiện từ quá khứ xa xôi, nhưng sự hiện diện nhiệm mầu của Chúa Kitô sẽ gắn kết nó với hiện tại.

Vào Chúa nhật Lễ Lá, Chúa Giêsu khải hoàn tiến vào Thành thánh Jerusalem, nơi Ngài sẽ chết và phục sinh. Tất cả các Kitô hữu tham gia vào việc làm sống lại sự kiện này. Họ là đám đông tung hô Chúa với những nhành lá cọ trong tay.

Vào Chúa nhật này, chúng ta ca ngợi Chúa Giêsu là Đấng chiến thắng vĩ đại, đã vào thành Jerusalem để chiến đấu. Người đang chiến đấu chống lại thế lực của sự dữ và cái chết. Sự đau khổ của Người sẽ được biến đổi một cách nhiệm mầu thành con đường dẫn đến chiến thắng; cái bẫy của sự chết bị Người giẫm nát bằng sự Phục sinh của Người.

Các Kitô hữu rất chắc chắn về chiến thắng của Người – Người chẳng phải là Con Thiên Chúa sao? Họ hoan nghênh Chúa Giêsu ngay cả trước khi trận chiến này bắt đầu: “Hoan hô trên các tầng trời!”

Một cái nhìn vượt xa hơn các cử chỉ phụng vụ 

Năm nay, các nhà thờ phải đóng cửa và chúng ta có thể không có được các nhành lá được làm phép.

Nhưng chúng ta có thể nghĩ về bản thân mình như những nhành lá đang được giương cao, dưới hình thức các việc lành và những hy sinh mà ngay cả trong hoàn cảnh bị cách ly, chúng ta vẫn tung hô Chúa theo những cách có ý nghĩa hơn và lâu dài hơn là những cử chỉ phụng vụ.

Nhành lá cọ của chúng ta là lời cầu nguyện thiết tha nhất, là sự chú tâm của chúng ta khi đọc các văn bản phụng vụ trong các sách kinh nguyện.

Nhành lá cọ của chúng ta là việc xét mình cẩn thận về đời sống trước khi nhận lãnh ơn tha thứ cho tội lỗi của chúng ta, và là sự quyết tâm nghiêm túc để sống tốt hơn.

Nhành lá cọ của chúng ta là những việc hãm mình nho nhỏ mà chúng ta thực hành trong tuần này, để góp phần vác Thánh giá giúp Chúa Kitô.

Cuối cùng, nhành lá cọ là sự tiến bộ trong việc bác ái, trong sự tử tế vô điều kiện và tận tâm giúp đỡ mọi người. Nhờ vậy, vào ngày lễ Phục sinh, tất cả chúng ta sẽ được tràn đầy niềm hân hoan vô bờ bến.

Edifa (Aleteia) / Thảo Uyên chuyển ngữ
Nguồn:
Tổng Giáo Phận Sài Gòn