Thiếu nhi chúng con yêu quí,

1. Chúng con vừa nghe một bài Tin Mừng rất hay. Cha đố chúng con trong bài Tin Mừng này Chúa tự ví mình là gì nào?

– Thưa cha Chúa bảo Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống.

– Chúng con rất giỏi.

– Thế chúng con còn nhớ Chúa Nhật trước Chúa xưng mình là gì không?

– Dạ thưa cha, Chúa xưng mình là cái cửa.

– Rất đúng, chúng con nhớ rất giỏi. Và lần trước cha đã nói với chúng con về cái cửa. Cha đã nói cửa là lối ra vào. Còn hôm nay Chúa bảo mình là con đường thì Chúa muốn nói gì nào?

-…….

– Người ta làm đường để làm gì chúng con.

– Thưa để đi.

– Vậy thì khi Chúa bảo mình là đường thì Chúa muốn nói Chúa là lối đi. Chúng con thấy mỗi lối đi phải có một điểm tới.

Khi Chúa nói mình là con đường thì Chúa nói cho mọi người biết Ngài là lối đi dẫn con người tới một điểm mà Chúa nói: “Thầy đi để dọn chỗ cha các con, để rồi Thầy ở đâu chúng con cũng sẽ ở đấy với Thầy”(Ga 14,1-2).

Vậy thì nơi Chúa bảo sẽ dẫn những ai tin yêu Chúa đến đó là ở đâu vậy chúng con.

– Thưa đó là Thiên Đàng.

Thiên Đàng là nơi Chúa muốn dẫn những người tin yêu Chúa tới đó. Đó là đích điểm của mọi người nếu họ biết sống như Chúa đã sống. Và sống ở Thiên Đàng mới là cuộc sống thật, cuộc sống đời đời, cuộc sống vĩnh cữu, cuộc sống hạnh phúc, cuộc sống không còn đau khổ, cuộc sống không còn đổi thay…Đó là cuộc sống của Chúa. Sống ở Thiên Đàng là được tham dự vào cuộc sống của Chúa.

2. Vậy muốn có được cuộc sống đó thì ta phải làm gì chúng con?

Thưa phải đặt chân vào con đường mang tên GIÊSU. Con đường mang tên Giêsu còn có tên là gì nữa chúng con. Đó là con đường yêu thương.

Như vậy là cha đã có câu trả lời cho chúng con rồi. Muốn được về trời với Chúa sau khi kết thúc cuộc sống ở dưới trần gian này chúng ta chỉ có một con đường duy nhất đó là sống yêu thương như Chúa đã sống.

Vậy sống yêu thương như Chúa là sống như thế nào?

Nhìn vào cuộc sống của Chúa Giêsu cha thấy Chúa đã sống yêu thương thật như thế này.

a. Trước hết Chúa đã chọn cuộc sống nghèo. Nghèo ở đây không phải là nghèo khổ, nghèo không có gì để ăn, không có gì để mặc mà là sống tin tưởng và phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa Cha.

Chúng con thấy, suốt cuộc đời trần thế, ngoại trừ những năm ẩn dật tại Nazareth, còn thì chúng ta thấy Chúa sống ở ngoài đường hơn là ở trong nhà: “Con chim có tổ, con chồn có hang, Con Người không có chỗ tựa đầu.”

Người ta bảo: “Đức Phật nghèo nhưng hãy còn giàu hơn Chúa vì ít ra Đức Phật cũng còn có một gốc cây bồ đề để làm chỗ trú chân”. Còn Chúa, Chúa đã sống như một con người không có chỗ tựa nương.

– Chúa đã khởi sự cuộc đời của Ngài ở ngoài đường. Hang Belem không phải là một mái nhà.

– Ngài sống ở ngoài đường. Có vào nhà ai thì cũng chỉ là tạt qua chứ không phải là để cư trú ở đó lâu ngày.

– Ngài chết cũng ở giữa đường chỗ có nhiều người qua lại.

– Và hầu như những cuộc gặp gỡ giữa Ngài với mọi người cũng được diễn ra ở ngoài đường. Gặp rồi lại đi chứ không dừng lại.

Tại sao Ngài làm thế?

Tại vì Chúa muốn cảm thông với kiếp sống nghèo của con người.

Hơn nữa vì Chúa nghèo cho nên những người nghèo dễ gần gũi với Chúa hơn.

b. Thứ đến cha thấy Chúa biết quan tâm đến mọi người.

Chẳng hạn Chúa quan tâm đến nỗi khổ của một người mẹ mất con ở thành Naim, Chúa quan tâm đến người mù cứ phải đợi mãi bên hồ mà không có ai giúp đỡ. Hay….

Chúng con hãy tập cho mình biết quan tâm đến người khác như Chúa.

Đây là một câu chuyện có thật:

Ông Leo Buscaglia lần kia có kể về cho mọi người về một cuộc thi mà ông là giám khảo. Mục đích của cuộc thi này là tìm ra đứa trẻ biết quan tâm đến người khác nhất. Người thắng cuộc là một em bé 4 tuổi.

Người hàng xóm của em là một ông lão vừa mất vợ. Nhìn thấy ông khóc, cậu bé đến sân nhà ông, lại gần, rồi leo lên ngồi vào lòng ông và cứ ngồi lâu như thế. Khi mẹ em hỏi em đã trò chuyện những gì với ông ấy, cậu bé trả lời:

– Không có gì mẹ ạ. Con chỉ để ông khóc!

Việc làm của em bé này khó hay dễ chúng con. Chúng con có thể làm được những việc tương tự như vậy hay không?

c. Cuối cùng cha thấy Chúa luôn sống tốt với mọi người. Có lần sau khi Chúa giảng, có một người đã lớn tiếng ca tụng Chúa rằng: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được.”(Mc 7,37)

Chúng con cũng hãy bắt chước Chúa luôn sống tốt với mọi người, đừng làm điều gì xấu đối với bất cứ ai, đừng cư xử không đẹp với bất cứ một người nào. Nhưng đối với ai mình cũng cố gắng sống thật tốt.

Hôm đó khi món kem trái cây đã giảm giá, một cậu bé bước vào quán cà phê và ngồi vào một chiếc bàn. Cô phục vụ đặt ly nước mát trước mặt cậu.

– Một ly kem trái cây giá bao nhiêu vậy thưa cô? Cậu bé hỏi.

– 50 xu. Cô trả lời.

Cậu bé rút tay ra khỏi túi quần và cẩn thận đếm những đồng tiền xu mình đang có.

– Thế còn một ly kem loại thường giá bao nhiêu vậy cô? Cậu hỏi tiếp.

Nhìn khách vào quán đang còn đợi chỗ, cô phục vụ trở nên mất kiên nhẫn:

– 35 xu. Cô trả lời có vẻ khó chịu.

Cậu bé đếm đi đếm lại những đồng xu của mình một lần nữa rồi nói:

– Thế thì cháu chọn ly kem loại thường thôi!

Cô phục vụ mang kem đến và quay đi. Cậu bé ăn xong, đến quầy trả tiền rồi đi khỏi. Khi quay lại, cô phục vụ bất chợt nghẹn ngào trước những gì cô nhìn thấy. Trên bàn, bên cạnh ly kem đã ăn hết là số tiền 15 xu đặt ngay ngắn – tiền thưởng phục vụ dành cho cô.

Có bao giờ chúng con tốt với người khác như vậy chưa. Cha chúc chúng con biết sống như Chúa và như lời Chúa hứa, những ai biết sống như Chúa thì mai mốt có phải chết đi thì Chúa cũng đón đưa người đó vào Thiên Đàng với Chúa để Chúa ở đâu thì người ấy cũng ở đó với Ngài. Amen.

Anh chị em thân mến,

Chúng ta vừa nghe một đoạn Tin Mừng của Thánh Gioan. Đây là một trong những đoạn Tin Mừng khó cắt nghĩa. Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa chúng ta đã dùng kiểu nói “Ta Là” để nói về mình. Trong Tin Mừng của Gioan, Chúa dùng tới tám lần như vậy. Chúa nhật hôm nay và Chúa nhật tuần sau chúng ta sẽ suy niệm dựa trên kiểu nói như thế. Hôm nay Chúa tự xưng là cửa: “ Ta là cái cửa” (Ga 10,9). Chúng ta tự hỏi: Chúa có ý muốn nói gì khi Ngài tuyên bố như thế ?.

1. Muốn hiểu được lời tuyên bố của Chúa, thiết tưởng chúng ta phải trở về với hoàn cảnh của lời tuyên bố này. Vậy hoàn cảnh nào Chúa đã tuyên bố như vậy ?

a/ Theo Tin Mừng kể lại thì trước khi tuyên bố như trên Chúa có chữa một người mù từ khi mới sinh.

Lúc đầu khi chữa cho anh ta thì Chúa chưa cho anh ta biết Ngài là ai. Sau khi hòa nước miếng với đất thành bùn sức vào mắt anh ta, Chúa bảo anh đi tới suối Siloe mà rửa. Anh đã làm y như Chúa nói và anh ta đã được sáng mắt.

Sự việc anh ta được sáng mắt đã gây ra nhiều cuộc bàn tán xôn xao. Lúc đầu thì người ta tưởng rằng mọi việc rồi cũng lại đâu vào đó như là những lần khác, nhưng rồi sự việc lại diễn ra không như người ta tưởng. Càng ngày vấn đề càng trở thành nghiêm trọng. Vì công việc Chúa chữa người mù lại xảy ra vào ngày Sabbat. Chính vì thế mà nhà cầm quyền tôn giáo lúc đó đã phải triệu tập một cuộc hội họp bất thường và mở một cuộc điều tra đặc biệt về vấn đề này. Cha mẹ của anh mù được mời tới…rồi sau đó chính người mù được chữa khỏi cũng được mời tới. Cuộc thẩm vấn đã diễn ra một cách hết sức căng thẳng gây cấn vì mỗi bên đều tỏ ra nhất định không khoan nhượng trong lập trường của mình:

b/ Phía những người Biệt phái thì nhất định phủ nhận phép lạ của Chúa Giêsu.

Ngược lại anh mù cũng không kém phần gan dạ. Anh ta tỏ ra can đảm khác thường. Không những anh ta không phủ nhận mà còn can đảm bênh vực cho sự thật. Và kết quả là anh bị trục xuất ra khỏi Hội đường. Đây là một sự trừng phạt của những người có quyền có thế dành cho anh. Chúng ta không thể tưởng tượng nổi nỗi thất vọng của anh lúc đó như thế nào. Anh ta hoàn toàn không còn một chút tin tưởng gì đối với những người lãnh đạo tôn giáo lúc đó nữa

c/ Nhưng rồi trong cái rủi lại có cái may. Đúng lúc xã hội loài người trục xuất anh, không còn thừa nhận anh là thành phần của cộng đoàn, thì chính lúc đó Chúa lại mở thật rộng bàn tay để đón nhận anh, đưa anh vào một cộng đoàn mới, cộng đoàn của những người tin Chúa. Chính vì thế mà khi vừa hay tin anh bị trục xuất ra khỏi Hội đường thì Chúa đến gặp anh và đúng lúc anh vừa kịp đối diện với Ngài thì Ngài đã hỏi ngay:

“Anh có tin con Thiên Chúa không ?” (Ga 9,35)

Anh thưa lại: “Thưa Ngài, Ngài là ai để tôi tin ?” (Ga 9,36)

Câu nói của anh tràn đầy sự xúc động.

Chúa trả lời: “Anh đang thấy Người và Người đang nói với Anh” (Ga 9,37). Chúng ta không thể tưởng tượng lúc đó anh ngỡ ngàng đến mức độ như thế nào. Anh cứ tưởng Ngài ở đâu thật xa. Có dè đâu Ngài đang ở thật gần. Anh nhìn thẳng vào mắt Chúa. Và tự đáy lòng Anh nói lên niềm tin của Anh: “Lạy Ngài, con tin” và Tin Mừng ghi lại một chi tiết thật cảm động này: “Anh sấp mình xuống phục lạy Ngài” (Ga 9,38)

d/ Qua câu chuyện trên chúng ta có thể thấy được hai bức tranh hầu như hoàn toàn tương phản nhau một cách thật rõ rệt.

Một bên là nhà cầm quyền đạo Do Thái. Họ đã làm một việc hết sức bất nhân đối với người mù vừa được chữa khỏi.

Một bên là Chúa. Giữa lúc người ta trục xuất thì Chúa lại mở rộng vòng tay để đón nhận anh. Ngài đã dẫn anh vào một xã hội mới, xã hội của những người tin Chúa.         Và chính trong hoàn cảnh đó mà Chúa đã tự xưng: “Ta là cái cửa”.(Ga 10,9)

  Cửa là lối vào. Qua Chúa người ta có thể bước vào một xã hội mới.

2/ Ta là cửa chuồng chiên.(Ga 10,7)

a/- Chuồng chiên bên Đông phương là một khu đất rộng, chung quang có tường hoặc rào bao bọc. Không bao giờ có mái che ở trên.

– Thường thì mỗi chuồng chiên chỉ có một cửa duy nhất. Đó là lối ra vào của chiên. Không bao giờ chiên trèo tường hay leo rào để ra.

– Cửa chuồng chiên chỉ là một khoảng cách giữa hai bên bờ tường hay bờ rào. Nó chỉ là một khoảng trống. Nó khác hẳn với hình ảnh về một cái cửa mà chúng ta thường thấy trong xã hội hôm nay.

– Khi Chúa tự ví mình như cái cửa, Chúa đã muốn nói với mọi người về lối vào cho một xã hội mới của Ngài. Xã hội như một đàn chiên. Bất cứ ai muốn gia nhập thì phải qua Ngài. Ngài là cửa dẫn vào đoàn chiên. Không qua Ngài mà vào thì là kẻ cướp.

b/ Nhưng làm thế nào để có thể gọi là “qua Ngài”. Chúng ta hãy đặt mình vào hoàn cảnh của người mù mới được Chúa chữa khỏi. Khi được sáng mắt chắc là anh đã vui mừng. Nhưng niềm vui của anh chưa được bao lâu thì nó đã biến thành nỗi sầu. Chỉ vì bênh vực cho sự thật mà anh bị loại trừ. Nhưng rất may cho anh, Chúa đã đón nhận anh. Bằng một lời tuyên xưng, anh đã bước vào xã hội mới của Chúa. Vâng đó là cách chúng ta “qua Chúa” để vào xã hội của Chúa. Mỗi người chúng ta đã làm như thế ngày chúng ta được chịu phép Rửa tội. Giờ đây chúng ta đang ở trong xã hội đó. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì hồng ân cao cả này.

3. Tới đây tôi chợt nhớ tới một câu chuyện của hầu tước (Sir) George Adam Smith. Một hôm ông đi du lịch ở đông phương, ông thấy mảnh đất có tường bao quanh như tôi vừa nói. Nhưng ông không dám nghĩ đó là một chuồng chiên. Rất may là lúc đó có một người chăn chiên đang ở gần đó.

Ông hỏi anh ta: “Cái đó có phải là chuồng chiên không ?”.

Người chăn chiên xác nhận: “Dạ phải”.

Ông thắc mắc: “Sao, tôi thấy chỉ có một lối đi vào”

Người chăn chiên giải thích: “Vâng, chỗ đó là cái cửa”

Ông ngạc nhiên thắc mắc tiếp: “Nhưng chỗ đó tôi có thấy cửa đâu ?”

Chẳng cần phải suy nghĩ gì. Người chăn chiên trả lời ngay: “Ta là cái cửa”

Ông càng ngạc nhiên hơn nữa, Ông hỏi tiếp: “Anh muốn nói gì khi anh bảo anh là cái cửa ?”

Người chăn chiên đáp: “Khi chiên vào chuồng rồi thì tôi đến nằm ngang chỗ đó. Không một con chiên nào có thể đi ra và cũng không một con sói nào có thể đi vào mà không phải qua con người của tôi”.

Hay quá chúng con. Người mục tử là như thế. Chúng ta hãy cầu nguyện để Chúa cũng ban cho Giáo Hội có được những mục tử tốt như thế để lo cho đoàn chiên chúng ta.

Năm 1870 chính phủ Hawai ra lệnh bắt những người mắc bệnh phong hủi, phải ở riêng biệt tại cù lao Molokai, mà tàu của chính phủ mỗi tuần chỉ tiếp tế cho một lần. Ở đó, thiếu thuốc thang, thiếu săn sóc, nhất là thiếu an ủi và nâng đỡ về phương diện tôn giáo. Nghe tin này, được lòng mến Chúa thúc đẩy, cha Damien dòng Thánh Tâm người nước Bỉ, đã tình nguyện xin Đức Giám mục giáo phận cho phép mình được ra sống chung với những người xấu số đó. thấy đức giám mục lưỡng lự, cha Damien đã quì xuống đất thưa rằng:

– Thân đức cha, mặc dầu con còn trẻ, nhưng khi mặc chiếc áo dòng đen nhà tu, con đã trở nên những người của Chúa, con đã sẵn sàng chết cho các linh hồn theo gương Chúa Giêsu. Vậy sau khi được phép Đức Giám mục giáo phận, cha Damien đã đến sống chung với anh em phong hủi. Cha đã sống với họ 16 năm: ra vào thăm nom, tập cho họ nghề nghiệp, dạy họ đọc và chữ viết, rửa tội, giải tội, xức dầu thánh. Do đó cha đã lây bệnh. Bác sĩ Woons viết rằng: cha Damien đã khác hẳn mười năm trước đây, mặt mũi rộp và sưng lên, hai tay dày cộm và xệ xuống, các ngón tay đang lần lượt co quắp lại… cha đã trở nên giống các con chiên của cha: da trán sưng lên ghê tởm; hai tai phồng ra to; mũi, má, cổ tay đều bị hủi ăn đỏ hoẻn. Đây là vị linh mục công giáo đang sống ở địa ngục phong cùi, giữa những người đang sống dở, chết dở, để đem lại cho họ một đôi chút an ủi. Sau 16 năm sống trong hy sinh và bệnh nạn, cha Damien bị những vi trùng cùi đêm ngày tấn công, và sau hết phải ngã gục và chết giữa con chiên (3,98)

Vậy cha Damien đã chết giữa những con chiên mắc bệnh phong cùi của cha, để một phần nào bắt chước gương Chúa đã được ghi trong bài phúc âm hôm nay: “Cha là mục tử tốt lành đã liều mạng sống vì con chiên”. Nghĩa là Chúa đã chịu chết trên thánh giá để chuộc tội loài người cách riêng là cho anh chị em chúng ta. đọc lại bài phúc âm này, Chúa cũng dạy chúng ta, nếu chưa dám hy sinh mạng sống vì người khác, thì chúng ta cũng cố gắng giúp đỡ người khác trong những việc nhỏ mọn, nhiều chừng nào, tốt chừng nấy.

Xin Chúa cho chúng ta được tìm thấy hạnh phúc khi chúng ta được ở trong Giáo Hội tức là đoàn chiên của Chúa. Trong Giáo Hội chúng ta có Chúa bảo vệ chúng ta. Trong Giáo Hội, bằng các Bí Tích Chúa lo lắng cho chúng ta. Cũng chính trong Giáo Hội mà chúng ta nhận được lương thực hằng sống là Mình và Máu Thánh Chúa hằng ngày. Amen.

Thiếu nhi chúng con yêu quí,

Chúng ta vừa nghe một đoạn Tin Mừng với kiểu nói hơi lạ của Chúa Giêsu. Chúa nói thế nào mà cha bảo là hơi lạ ? Chúng con thấy Chúa bảo Chúa là gì không ? Chúa bảo Chúa là cái “Cửa”.

Chúng con đã thấy cái cửa bao giờ chưa ?

– Dạ thấy.

– Thấy ở đâu nào ?

– Ở nhà, ở nhà thờ, ở nhiêu nơi lắm.

– Đúng vậy…Có nhiều nơi có cửa lắm.

– Thế cha hỏi chúng con: Cửa để làm gì nào ?

– Cửa để ra vào…ra vào của một căn phòng… ra vào của một lớp học, ra vào của nhà thờ….

– Ngoài ra cửa còn để làm gì nữa ?

– Thưa để gìn giữ an toàn cho những nơi những chỗ cần phải được giữ an toàn….

– Rất đúng! Chúng con giỏi.

Vậy khi Chúa ví mình như cái cửa, Chúa muốn nói với chúng ta điều gì nào ?

Để hiểu được Lời của Chúa, chúng ta phải nhìn vào xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu lúc đó.

Khi Chúa nói: “Ta là cửa chuồng chiên” thì chúng ta phải nghĩ đến sinh hoạt chăn chiên của người Do Thái thời đó. Có như vậy chúng ta mới hiểu Chúa muốn nói gì.

Cha thấy thời đó người Do Thái có hai loại chuồng chiên. Thứ nhất là loại chuồng chiên ở các làng mạc và thị trấn. Đây là loại chuồng chiên cộng đồng. Người ta gọi là chuồng chiên cộng đồng vì những đàn chiên của những người trong làng hay thị trấn đều có thể sử dụng chung khi người ta đưa chiên trở về sau một ngày đem chúng đi ăn, vào mỗi buổi tối.

Chắc chúng con sẽ hỏi cha rằng nhốt chung như thế thì sao mà phân biệt được ?

Cha xin trả lời ngay: Con chiên có một đức tính rất đặc biệt. Chúng chỉ nghe tiếng của chủ chứ không nghe tiếng của người lạ. Bởi vậy khi chủ lên tiếng gọi là chúng tụ tập lại bên chủ ngay.

Các chuồng chiên này được bảo vệ bằng một khung cửa thật chắc chắn mà chỉ có người canh cửa mới được giữ chìa khóa mà thôi. Đó là loại chuồng chiên mà Chúa đề cập đến trong câu Tin Mừng hôm nay (2,3).

Loại thứ hai là loại được làm ngay ở những nơi người ta chăn chiên vào mùa nắng ấm. Vào mùa này thì người ta thường thả chiên trên núi, cho nên khi đêm về những người chăn chiên không lùa chiên về làng. Thay vào đó thì chiên được giữ chung trong các chuồng ở sườn đồi. Các chuồng chiên này chỉ là một khoảng đất trống có rào chung quanh, có một chỗ trống cho chiên ra vào, không có cửa nẻo gì cả. Đêm đến sau khi đã cho chiên vào thì người chăn chiên đến nằm ngay tại khoảng đất trống làm chỗ ra vào đó. Không một con chiên nào có thể ra vào được, trừ phi nó nhảy qua người chăn chiên.

Cha kể cho chúng con câu chuyện này. Câu chuyện này do Ông George Smith kể. Một hôm ông đi du lịch tại Đông Phương, ông thấy một loại chuồng chiên như cha kể trên.

Khi gặp một người chăn ở đó, ông hỏi:

– Có phải đó là chuồng chiên không ?

Người ấy đáp:

– Dạ, đúng

Rồi George nói:

– Tôi thấy chỉ có một lối đi vào.

Người chăn chiên giơ tay chỉ vào khoảng trống, và nói:

– Đó là cái cửa.

Ông George rất ngạc nhiên, bảo:

– Nhưng tôi có thấy cửa đâu.

Lúc đó người chăn chiên mới vội đáp:

– Dạ, tôi là cái cửa.

Ông George chợt nhớ lại câu chuyện trong Tin Mừng Gioan kể rồi nói với người chăn chiên:

– Anh muốn nói gì khi bảo chính anh là cái cửa ?

Người chăn chiên giải thích:

– Khi chiên vào chuồng xong, tôi đến nằm ngay ở đó. Không một con chiên nào có thể đi ra hoặc con chó sói nào có thể vào chuồng trừ phi phải nhảy qua người tôi.

Câu chuyện thật tuyệt vời. Người chăn chiên đã trở thành cửa để canh giữ chuồng chiên. Không một con chiên nào có thể tự do ra vào, ngoại trừ phải nhảy qua chính người chăn chiên.

Tới đây cha chắc chúng con đã hiểu được phần nào câu nói của Chúa Giêsu khi Ngài ví mình như là cái cửa: “Ta là cửa chuồng chiên”.

Khi nói như thế Chúa muốn nói với mọi người rằng: Chỉ nhờ Ngài và chỉ qua Ngài, loài người mới có thể đến với Thiên Chúa và Ngài chính là người bảo vệ đoàn chiên. Ai sống dưới sự che chở hướng dẫn của Ngài thì kẻ ấy sẽ được an toàn và hạnh phúc bằng không thì cuộc đời của họ sẽ bất hạnh.

Năm 2008 trong một chuyến đi diễn thuyết ở Hawaii, tôi đã gặp vận động viên lướt sóng đẳng cấp thế giới Bethany Hamilton. Bạn biết không, cô gái ấy bị mất cánh tay trái do cá mập tấn công vào năm 2003 trong khi đang lướt sóng tại một vùng biển ở Hawaii. Tai nạn xảy ra khi cô mới 13 tuổi. Trước khi bị cá mập tấn công, Bethany là một vận động viên lướt sóng nổi tiếng, nhưng sau khi thoát chết trong vụ tấn công đó và kiên cường quay trở lại với môn thể thao mà cô yêu thích, ngợi ca và tạ ơn Chúa đã che chở cho mình, cô trở nên nổi tiếng thế giới nhờ tinh thần dũng cảm và niềm tin phi thường. Giờ đây, giống như tôi, cô đi khắp thế giới, khích lệ mọi người vượt lên nghịch cảnh và chia sẻ niềm tin của cô với họ.

Bethany tâm sự rằng mục đích của cô là “nói với mọi người về niềm tin của tôi đối với Chúa để mọi người biết rằng Người luôn yêu thương họ và để giải thích cho mọi người biết ngày hôm đó Chúa đã quan tâm, che chở cho tôi như thế nào. Bị cá mập tấn công, tôi đã mất 70% lượng máu trong cơ thể. Nếu ngày hôm đó Chúa không che chở thì tôi đã không có mặt ở đây ngày hôm nay”.

Trước khi gặp Bethany, tôi chưa biết tường tận về tai nạn đó, và tôi không hiểu được cô gái trẻ ấy đã cận kề cái chết như thế nào. Cô nói cho tôi biết cô đã không ngừng cầu nguyện khi người ta đưa cô tới một bệnh viện cách bờ biển bốn mươi lăm phút đi xe hơi và người phụ giúp công việc y tế đã thì thầm vào tai cô những lời động viên như sau: “Chúa sẽ không bao giờ bỏ rơi hoặc từ bỏ em đâu!”.

Tình hình lúc đó thật gay go. Khi đưa cô tới được bệnh viện và khẩn trương chuẩn bị phẫu thuật, người ta phát hiện ra rằng tất cả các phòng mổ của bệnh viện đều bận. Bethany lịm dần. Nhưng rồi vào phút chót, một bệnh nhân đã hủy bỏ cuộc phẫu thuật đầu gối sắp sửa được tiến hành, vậy nên bác sĩ của ông ấy có thể phẫu thuật cho Bethany. Hãy đoán xem người hủy bỏ cuộc phẫu thuật đầu gối là ai ?

Đó chính là bố của Bethany!

Không thể ngờ được, đúng không bạn ? Tất cả mọi thứ cho một cuộc phẫu thuật đã được chuẩn bị sẵn sàng, vậy nên họ chỉ việc đưa cô con gái vào thay chỗ của người bố trên bàn mổ và tiến hành phẫu thuật. Cuộc phẫu thuật đó đã cứu sống cô.

Trong cuộc gặp, Bethany cho biết niềm tin vào Chúa đã khiến cô đi đến kết luận rằng việc mất cánh tay là một phần trong kế hoạch của Chúa dành cho cuộc đời cô. Thay vì cảm thấy buồn cho bản thân, cô chấp nhận điều đó và tiếp tục vươn lên. Trong cuộc thi lướt sóng với những nữ vận động viên hàng đầu thế giới, cô giành vị trí thứ ba – với chỉ một cánh tay! Cô nói rằng mất cánh tay không phải là một điều rủi mà là một sự may mắn bởi mỗi lần cô đạt thành tích cao, sự kiện đó lại khích lệ những người khác tin rằng cuộc sống của họ không có giới hạn!

“Chúa đã đáp lại lời cầu nguyện của tôi, đã sử dụng tôi. Khi mọi người nghe câu chuyện của tôi chính là khi Chúa nói với mọi người”, cô nói. “Nhiều người nói rằng qua câu chuyện của tôi họ thấy mình được đến gần Chúa hơn, bắt đầu tin ở Chúa và tìm được niềm hy vọng cho cuộc sống của chính họ, hoặc được động viên, khích lệ để vượt qua nghịch cảnh. Khi nghe họ nói như thế, tôi tạ ơn Chúa bởi không phải là tôi làm được gì cho họ – mà chính Chúa là người đang giúp họ. Tôi cảm thấy rất vui bởi Chúa đã cho phép tôi trở thành một phần trong kế hoạch của Người”.(nguồn Internet)

Đó chúng con thấy, người biết tin tưởng vào Chúa thì sống hạnh phúc như thế nào. Amen.

Câu chuyện chúng ta vừa nghe là một trong những câu chuyện hay nhất ở trong Tin Mừng. Hay không phải ở bối cảnh cũng không phải hay ở trong tình tiết mà là ở chỗ nó có một ý nghĩa đặc biệt, nó gói ghém một sứ điệp Chúa muốn gửi đến cho mỗi người chúng ta.

1/ Như anh chị em đã biết ngay sáng ngày thứ nhất trong tuần, Tin Mừng Phục sinh đã được loan báo cho nhóm 11 và một số người khác trong đó có cả hai môn đệ được Tin Mừng hôm nay nhắc tới – thì ngay chiều hôm đó hai ông này đã rời bỏ Jêrusalem để đi về Emmau một địa danh cách Jêrusalem khoảng chừng 11 cây số.

Tin Mừng không cho chúng ta biết lý do tại sao họ lại bỏ Jêrusalem vào lúc sự việc còn tranh tối tranh sáng như thế. Cứ theo những lời họ nói thì ta phải kết luận là họ thất vọng. Hoàn toàn thất vọng. Họ muốn bỏ cuộc. Bây giờ thì họ đang ở trên đường con đường, với một tâm hồn nặng trĩu một nỗi u buồn và những bước chân thật nặng nề và chậm chạp. Cha Thành Tâm gọi là “lê bước chân buồn đường dài”.

Họ vừa đi vừa nói chuyện với nhau. Những chuyện họ nói cũng chẳng có gì là hào hứng. Toàn là một màu ảm đạm và u buồn.

Rồi khi Chúa hiện ra nhập bọn cùng đi với họ…sự việc đó cũng chẳng làm cho họ thay đổi gì. Khi Chúa hỏi họ: “Các bạn có chuyện gì vừa đi vừa đàm đạo với nhau mà buồn thế… ?” thì họ sẵn sàng bộc lộ tất cả những gì họ đang nghĩ “Sự việc liên can đến Ông Giêsu thành Nazareth..”.. Họ kể cho người khách lạ khá rõ và khá chi tiết về ý nghĩ của họ đối với Ngài và về những sự việc có liên quan đến Ngài mới xảy ra. Họ cũng chẳng sợ hãi mà dấu diếm cả những mong đợi thầm kín nhất mà họ đã đặt ở nơi Ngài: “Phần chúng tôi, chúng tôi vẫn hy vọng Ngài sẽ cứu Israel” (Lc 24,21) và bây giờ thì chấm dứt tất cả. Trước kia họ có hy vọng. Bây giờ thì không…thậm chí có thể còn là thất vọng. Cái chết của Đấng mà họ đặt niềm hy vọng giờ thì đã làm thay đổi tất cả. Ánh sáng mới loé ra bây giờ đã vụt tắt. Hy vọng mới ló dạng giờ đây đã tiêu tan và trước mắt chẳng có gì sáng sủa. Tương lai lại trở về với mù tối, u buồn và chán nản. Kiếp sống nô lệ tủi nhục chưa tìm được lối ra. Tất cả những gì mà người ta đồn về Ngài chẳng có gì đáng tin….Thế là hết . Đổ vỡ tất cả. Tan tành tất cả.

2/ Đứng trước thái độ thất vọng như thế, Chúa xử trí ra sao ?

Lúc đầu xem ra có vẻ Chúa hơi buồn: “Ôi những người khờ dại sao mà chậm tin những điều các tin tiên tri đã nói như thế ?”. Lúc sinh thời cũng đã có lần Chúa phàn nàn về sự chậm tin của các Tông đồ như vậy. Thế nhưng đó chỉ là những phản ứng rất chóng qua.

– Sau đó Chúa kiên nhẫn giúp các ông tìm lại niềm tin của mình. Thánh Luca đã cho chúng ta một chi tiết rất nhỏ nhưng khá thú vị. Đó là Chúa “bắt đầu từ Môsê đến tất cả các tiên tri giải thích cho các ông tất cả các lời Thánh Kinh ám chỉ về Ngài” (Lc 24,27). Luca bảo Chúa dùng “Tất cả những lời Kinh Thánh có liên hệ đến Ngài … để giải thích cho hai môn đệ mà Ngài gọi là chậm tin. Chúa không hề nhắc tới bất cứ một chứng cớ nào vừa mới xảy ra. Chúa chỉ dùng Thánh kinh. Đó là công việc Chúa làm cho hai môn đệ đang lúc đi đường.

Sau đó Chúa còn dùng thêm một gợi ý khác và chính nhờ công việc này mà hai môn đệ đã nhận ra Thầy chí Thánh của mình dễ dàng hơn. Tin Mừng kể sau khi cả ba đã vào quán trọ, trong khi bẻ bánh, Chúa đã làm lại một cử chỉ mà trước đó Chúa đã làm trong những giờ phút cảm động nhất cuối cuộc đời của Ngài. “Ngài cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai Ông”.(Lc 24,30)..y như Chúa đã trao cho các Tông đồ trong bữa tiệc ly lúc Chúa lập Bí tích yêu thương. Và như Tin Mừng ghi lại “Lập tức hai Ông nhận ra Chúa. Nhưng ngay sau đó thì Chúa biến đi”. (Lc 24,31)

Dù Chúa đã biến đi, nhưng chúng ta thấy hai môn đệ đã tỏ ra hết sức vui mừng. Và ngay trong đêm tối các ông đã hối hả gấp rút trở về Jêrusalem để báo tin vui cho các tông đồ. Thật là một niềm vui không thể không chia sẻ với người khác. Tin Mừng không cho chúng ta biết gì về cuộc sống của hai môn đệ sau đó. Nhưng chúng ta có quyền mà nói rằng chắc chắn họ sẽ nhìn cuộc sống với một cặp mắt khác hơn…không u ám xám xịt như trước, không còn thất vọng như trước nhưng tràn đầy niềm tin, ngập tràn hy vọng. Vì cuộc sống đã có Chúa.

3/ Nói tới đây tự nhiên tôi nhớ đến một câu chuyện rất hay mà mỗi khi đọc bài Tin Mừng này người ta hay nhắc đến. Chuyện kể rằng có một người thanh niên kia phải thực hiện một chuyến đi dài. Trong chuyến đi này có lúc anh phải đi ngang qua rất nhiều nơi. Một ngày kia anh phải băng qua một bãi biển có nhiều nguy hiểm. Dầu vậy anh cũng rất an tâm vì Chúa hứa cùng đi với anh. Tuy Chúa không hiện hình như một người bình thường anh vẫn có thể nhận ra Ngài qua những dấu chân được in trên cát. Hai dấu chân của anh và hai dấu chân của Chúa. Nhưng rồi tới một đoạn đường nọ anh gặp một cơn thử thách rất nặng nề. Nhìn xuống anh chỉ thấy có hai bàn chân in trên cát. Dầu sao thì anh vẫn dồn hết sức can đảm để tiến lên. Khi cơn thử thách đã qua, nhìn xuống anh lại thấy đủ bốn dấu chân in trên cát như trước. Anh có vẻ hơi buồn với Chúa cho nên anh đánh bạo hỏi Ngài:

“Thưa Thầy, lúc đó Thấy ở đâu ? Sao lại để con đi có một mình ?”

Chúa nhỏ nhẹ nói với anh: “Con hãy quay lại nhìn kỹ xem…đó là vết chân của ai ?”

Nhìn kỹ lại thì anh thì thấy đó không phải là vết chân của mình mà là vết chân của Chúa.

Thắc mắc anh hỏi Chúa: “Vậy lạy Thầy, lúc đó con ở đâu ?”

Chúa nhìn anh với cặp mắt đầy lòng yêu thương và trả lời: “Con ạ. Lúc con gặp khó khăn. Thầy biết con không đủ sức chịu đựng. Vì thế Thầy đã cõng con trên lưng của Thầy”

Câu chuyện phát xuất từ nước Brazil tận Nam Mỹ nhưng nội dung của nó cũng thật gần gũi với chúng ta.

Hai câu chuyện: một là câu chuyện hai môn đệ đi làng Emmau và hai là câu chuyện của một chàng thanh niên. Hoàn cảnh, không gian, thời gian tuy có khác nhau nhưng ý nghĩa của nó sao mà giống nhau quá.

Đời sống mãi mãi là cuộc hành hương. Trên con đường hành hương ấy chẳng thiếu gì những khó khăn, nhiều khi còn có cả ngã quỵ và đổ vỡ. Đừng tìm cách lẩn trốn những khó khăn. Cũng đừng quá quan trọng hóa những ngã quỵ và đổ vỡ. Cuộc đời làm sao tránh được những thất bại, làm sao tránh được những khổ đau, làm sao tránh được những lúc buồn lòng. Điều cần là tin vào Chúa. Không phải một Thiên Chúa xa vời chẳng ăn nhằm gì tới cuộc sống mà là một Thiên Chúa luôn đồng hành với chúng ta trong những bước đi của cuộc sống làm người. Không phải vô tình mà khi cắt nghĩa cho hai môn đệ đi đàng Emmau, Chúa đã dùng Kinh Thánh và dấu chỉ Bí tích Thánh thể để giúp họ nhận ra Chúa. Qua câu chuyện hai môn đệ đi đàng Emmau Chúa cũng muốn nói với mỗi người chúng ta rằng: Chúa cũng đang ở thật gần chúng ta. Vô hình vô tượng nhưng đầy tình thương. Ngài luôn đồng hành với chúng ta. Hãy tin tưởng ở Ngài và hãy can đảm bước đi những bước vững vàng và thanh thản trên con đường phục vụ để làm nên ý nghĩa cao cả cho cuộc đời và xứng đáng là môn đệ của Chúa Phục Sinh. Amen.

Chúng con thiếu nhi yêu quí,

Chúng ta vừa được nghe một bài Tin Mừng thật hay, thật đẹp.

Cha đố chúng con bài Tin Mừng hôm nay nói về câu chuyện gì ?

– Câu chuyện hai môn đệ trên đường Emmaus.

– Hai môn đệ này là ai vậy chúng con ?

– Có lẽ là hai người trong nhóm 72 môn đệ của Chúa.

– Họ có thuộc nhóm các tông đồ không ?

– Dạ thưa không. Họ không phải là tông đồ, nhưng chỉ là những môn đệ yêu mến và đi theo Chúa Giêsu.

Bây giờ cha có hai câu hỏi cha muốn hỏi các con.

I. Câu Hỏi Thứ Nhất: Tại sao Chúa Giêsu hiện ra đi ngay bên cạnh mà họ không nhận ra Chúa.

Chúng con thấy sau khi Chúa sống lại thì việc nhận ra Chúa không dễ dàng.

Lúc đầu, khi Chúa hiện ra với Maria Mađalêna, chúng con thấy Maria thấy Chúa ngay không ? Thưa không. Vậy Maria tưởng mình thấy ai ? – Maria tưởng Chúa là người giữ vườn. Mãi cho tới khi Chúa lên tiếng gọi, lúc đó Maria mới nhận ra Chúa.

Còn các tông đồ thì sao ? Mặc dù đã được Maria báo trước, thế nhưng khi Chúa hiện ra, cảm tưởng đầu tiên của các tông là tưởng mình thấy “Ma”. Mãi cho đến khi Chúa cho các ông ấy được nhìn xem, được sờ vào Chúa rồi Chúa ăn uống ngay trước mặt, lúc đó các ông ấy mới tin.

Hôm nay chúng con thấy….Hai môn đệ đang buồn bã cùng nhau đi trên đường…vừa đi vừa chuyện trò về câu chuyện đau thương họ mới chứng kiến…Đang lúc đó thì Chúa hiện ra cùng đi với họ…Lúc đầu họ đâu có nhận ra Chúa…Phải đợi mãi cho tới khi Chúa dùng toàn bộ Kinh Thánh và các tiên tri để giải thích, họ mới cảm thấy lòng của họ “Nóng lên”…mãi cho tới khi Chúa vào quán trọ rồi bằng một cử chỉ thật quen thuộc, Chúa cầm bánh trao cho họ y như việc Chúa làm trước đó…lúc đó họ mới nhận ra Chúa.

Cha hỏi chúng con ? Tại sao lại như thế ? Tại sao họ đã không nhận ra Chúa ngay mà phải đợi đến lúc Chúa làm lại những việc quen thuộc Chúa đã làm thì lúc đó họ mới nhận ra Chúa ?

Đây chúng con hãy nghe Sách Giáo Lý mới trả lời: “Đức Kitô đã phục sinh với thân xác riêng của Người: Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! (Lc 24,39); nhưng Người không trở lại với đời sống trần thế. Cũng vậy, trong Người, “tất cả mọi người sẽ sống lại với thân xác riêng của mình, thân xác hiện giờ họ đang mang”, nhưng thân xác này “sẽ được biến đổi thành thân xác của sự vinh quang”, thành “thân thể có thần khí” (1Cr 15,44)(999): Sự “phục sinh” đó, vượt quá trí tưởng tượng và sự hiểu biết của chúng ta; điều đó chỉ có thể đạt tới bằng đức tin.(1000)

Chúng ta chỉ có thể đạt tới niềm Phục sinh bằng đức tin.

Cha kể cho chúng con câu chuyện này:

Một người Nga nọ sau khi đã mãn hạn tù đã kể lại tâm trạng của mình:

Dáng vẻ bên ngoài của tôi xấu xí đến độ không ai muốn đến gần tôi. Trong thời gian lao động cải tạo, thay vì làm việc chung với các trại viên khác, tôi bị giam mình xuống đáy hầm. Tình cờ một tai nạn xảy ra khiến lưng tôi bị gù.

Một ngày kia, có một cậu bé nhìn tôi thật lâu rồi hỏi tôi một cách ngây thơ:

– Chú ơi, chú mang cái gì trên lưng thế ?

Tôi đã nghĩ rằng cậu bé có ý chế nhạo tôi, biết thế nhưng tôi vẫn bình tĩnh trả lời:

– Cục bướu đấy cháu ạ.

Tôi chờ đợi cậu bé sẽ tiếp tục trò chơi gian ác của cậu. Nhưng không, cậu bé nhìn tôi một cách trìu mến rồi nói:

– Không phải thế đâu chú ạ. Chúa là tình yêu. Ngài không cho ai hình thù kỳ dị cả. Không phải chú có cục bướu đâu, chính chú đang mang trên lưng cái hộp đó. Trong cái hộp đó có đôi cánh của thiên thần, và một lúc nào đó đôi cánh sẽ mở ra và chú sẽ bay lên trời với đôi cánh đó.

Ý nghĩ ngộ nghĩnh của chú bé đã làm tôi sung sướng đến độ khóc thành tiếng.

Ôi sung sướng quá! Đúng là một vị thánh. Thánh nhân đã giúp tôi nhìn thấy Thiên Chúa cả trong những nơi bất hạnh, nhìn thấy sự may mắn ngay cả trong những mất mát thua thiệt, và nhất là biết nhìn thấy Chúa trong những người không ai muốn nhìn đến.

2. Câu Hỏi Thứ Hai: Chúa Đã Làm Gì Để Giúp Con Người Nhận Ra Chúa Sau Khi Chúa Phục Sinh ?

Chúng con thấy việc nhận ra Chúa sau khi Chúa Phục sinh không phải là việc dễ dàng chính vì thế mà Chúa đã có cách giúp con người nhận ra Ngài. Cha đố chúng con trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa đã dùng cách nào ?

Trước hết cha thấy Chúa đã sử dụng Kinh Thánh. Lý do vì Kinh Thánh là kho tàng Mạc Khải cho chúng ta về Chúa. Chúng con thấy, đứng trước hai người môn đệ đang buồn bã thất vọng, Chúa Giêsu đã không hề nhắc đến một việc nào có liên quan đến cái chết của Chúa mà Chúa đã dùng Kinh Thánh để giúp hai môn đệ tìm lại được niềm tin của mình. Đây là lời họ thú nhận với nhau: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao ?” (Lc 24,32).

Rồi Chúa còn làm gì nữa chúng con ?

Chúa còn lập lại một việc trước đó không lâu Chúa đã làm khi lập Bí tích Thánh thể. Tin Mừng ghi “Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ” (Lc 24,30). Và kết quả như thế nào thì chúng con đã biết: “Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất” (Lc 24,31).

Như vậy chúng ta có thể hiểu: Thánh Kinh và Thánh Thể là hai phương thế Chúa muốn cho chúng ta dùng để có thể gặp được Chúa.

Loew là một phu khuân vác ở bến tàu. Anh là đảng viên của đảng Lao động Thụy Sĩ. Bỗng một hôm Loew nảy ra ý định thử đi tìm hiểu điều mà người Công Giáo hằng tin tưởng, có một Thiên Chúa thật không ?

Anh đến một dòng khổ tu và nói thật ý định của mình với cha bề trên. Cha không nói với anh điều gì ngoài những lời:

– Anh đã đi đúng đường rồi đó. Anh hãy tiếp tục đi đi, hãy coi tu viện này là nhà của anh.

Rồi cha bề trên giơ tay chỉ nhà nguyện, nói:

– Đây là nhà nguyện đang dâng lễ.

Loew vào, anh quì xuống như bao kẻ khác. Rồi anh cứ quì mãi trong khi những người khác đã thay đổi thế quì, thế đứng, thế ngồi. Đến lúc đã mỏi gối. Loew ngồi lên thì mọi người lại quì xuống vì lúc đó là lúc dâng Mình Máu Thánh Chúa.

Rồi đến khi rước lễ, mọi người lên rước lễ, chỉ mình Loew ngồi đó, thật chẳng giống ai, Loew nghĩ thầm.

Nhìn những người rước lễ đi xuống, Loew nhận ra những khuôn mặt: học thức, địa vị, bình dân… Loew tự hỏi: sao những kẻ này mê tín, dị đoan quá thế ? Ăn miếng bánh nhỏ bằng đồng xu thế kia để làm gì, họ có điên không nhỉ ?

Nhưng ý tưởng trên của Loew đã bị một tư tưởng khác tấn công: không lẽ những người có học thức, có địa vị xã hội hơn tôi mà họ lại điên, còn tôi thì ngược lại, khôn hơn sao ? Hay là tôi điên ?

Thế rồi, Loew tìm hiểu phép Thánh Thể với cha bề trên. Thời gian sau, Loew tâm sự:

“Bây giờ, tôi có thể nói như hai môn đệ Emmaus: “Tôi nhận ra Ngài, lúc Ngài bẻ bánh”. Chính lúc bẻ bánh chúng ta mới nhận ra chúng ta là anh chị em trong Đức Kitô. Có những người mà trước đó gặp ngoài đường, chúng ta dửng dưng như người xa lạ, nhưng trên bàn tiệc thánh, chúng ta thấy gần gũi với nhau. Tôi gặp Chúa Kitô nơi họ, cũng như họ gặp Chúa Kitô nơi tôi. Bởi chúng tôi cùng tin Phúc Âm, cùng lãnh nhận một của ăn là Mình và Máu Thánh Chúa Kitô”.

Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật lại hai cuộc hiện ra của Đức Giêsu phục sinh với các tông đồ của Ngài. Hai cuộc hiện ra này cách nhau 8 ngày :

Trong lần hiện ra thứ nhất, Đức Giêsu cho các ông xem thấy tay chân và cạnh sườn, thấy những vết thương Ngài đã chịu trong cuộc chịu nạn. Qua những dấu chứng đó, các tông đồ đã nhận ra Chúa. Các ngài rất vui mừng. Chúa Giêsu đã chúc bình an cho các ngài, sự bình an mà các ngài đã làm mất khi chứng kiến cuộc khổ nạn và nhất là cái chết của Chúa trên Thập Giá. Rồi ngay sau đó Chúa đã ban Thánh Thần và sai các ngài đi (nhưng chưa nói là đi đâu và đi để làm gì).

Lần hiện ra này, có đông đủ các tông đồ nhưng không có mặt của Tôma. Tin Mừng không cho chúng ta biết lý do tại sao ông Tôma không có mặt cùng với anh em của mình khi Chúa hiện ra như thế.

– 8 ngày sau, Đức Giêsu lại hiện ra lần thứ hai. Lần này Tôma cũng có mặt. Chúng ta không thể tưởng tượng được niềm vui của các tông đồ lớn như thế nào. Khi Chúa Giêsu hướng cái nhìn của Chúa về phía Tôma thì, mọi cặp mắt của các tông đồ cũng đều hướng về đó. Các ngài sốt ruột chờ đợi. Một sự “Sự phán xét” của Chúa chăng?. Làm sao mà các tông đồ quên được thái độ khép lòng và hoàn toàn không tin của Tôma. Thế nhưng Chúa đã làm gì? Không một lời khiển trách nặng lời.

Dường như Chúa đã chào thua khi bảo Tôma hãy đưa tay ra mà chạm trực tiếp vào các vết thương của Chúa. Trước thái độ quá bất ngờ ấy, Tôma chỉ còn cách nói lên niềm tin của mình bằng những lời tuyên xưng thật đẹp. Đây mới là lời tuyên xưng mà Chúa chờ đợi từ bao nhiêu năm nay: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20,29). Với lời tuyên xưng này, Tôma đã vươn tới tầm cao mới của đức tin: tin mà không cần thấy.

Như thế qua đoạn Tin Mừng hôm nay chúng ta thấy có hai mức độ tin: mức độ thấp là tin vì thấy, nghĩa là tin dựa vào bằng chứng; mức độ cao hơn: tin mà không cần thấy, nghĩa là tin không dựa trên bằng chứng mà dựa trên tình yêu.

Theo Đức Giêsu thì mức độ thứ hai là cao hơn. Ngài kêu gọi chúng ta – qua lời nói với Tôma – hãy cố vươn lên mức độ cao ấy : “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy nên con tin. Nhưng phúc cho kẻ nào không thấy mà tin” (Ga 20,28).

Miguel de Unamuno viết: “Tôi tin vào Thiên Chúa như tin vào một người bạn, vì tôi cảm nhận được hơi thở tình yêu của Người, cảm nhận được bàn tay vô hình và khả giác của Người tác động đến tôi”.

Nhà sinh vật học Jean Henry Fabre sau 87 năm khảo sát và suy tư đã phải thốt lên: “Tôi không thể nói rằng tôi tin vào Thiên Chúa, mà là tôi trông thấy Người. Thấy Chúa là Cha rất nhân từ hằng yêu thương chăm sóc con người, và thấy mọi người là anh em với nhau”. Cha Michel Quoist có viết: “Tin Chúa, không phải là hướng mắt về Ngài để chiêm ngưỡng, nhưng đồng thời cũng là nhìn vào trần gian với ánh mắt của Đức Kitô”.

Cách đây không lâu, trên chương trình truyền hình Public Eye có trình chiếu một vụ xử án rất cảm động. Số là cách đây 19 năm, một tài xế xe truck say rượu đã gây ra tai nạn và làm cho em bé tên Joseph V. mới được một tuổi phải mang thương tật suốt đời.

Suốt 19 năm qua, bé Joe, tên “cúng cơm” của Joseph V, nay là một thanh niên 20 tuổi, đã phải sống trong cay đắng tủi hờn. Đi đâu cũng bị kinh tởm ruồng rẫy. Gia đình cũng đã phải chia sẻ nỗi đau khổ không kém.

Mới đây, người tài xế, sau thời gian dài lẩn trốn, đã bị bắt lại và đem ra xét xử. Tại toà, trước khi vị chánh án buộc tội, các nạn nhân và những người liên hệ được phép tiến lên phát biểu cảm tưởng, trong đó có anh Joe. Nhiều tâm tư – căm thù, uất hận, thương cảm – đã được phát biểu, nhưng có ba tâm tư đã làm cho tôi khó quên.

Người bố của anh Joe tiến lên trước toà và nói: “Trong suốt 19 năm qua, tôi không biết nên cầu cho con tôi sống hay xin cho nó chết. Cầu cho sống thì quả là đau khổ cho nó quá, bởi vì sau khi tai nạn xảy ra hai cánh tay con tôi bị cắt cụt, chỉ có khúc xương và cục thịt lủng lẳng ở hai đầu cánh tay. Gương mặt bị phỏng nặng và biến dạng. Môi cũng như mí mắt không còn nữa. Da thì chảy ra nên không còn hình thù của một gương mặt con người, đến nỗi các đứa bé khác khi nhìn vào thì tưởng là nó đeo mặt nạ. Bước đến đâu con tôi cũng bị kinh tởm hất hủi. Cho nên tôi không biết có nên cầu cho nó sống không. Còn cầu cho chết thì tôi không thể, vì tôi là người tin Chúa, nên tôi không thể cầu cho ai chết được hết”.

Đến phiên người mẹ của Joe bước lên trước máy vi âm. Bà nói: “Trong suốt 19 năm qua tôi đã phải đau cái nỗi đau của con tôi. Ví dụ lúc được 5 tuổi Joe hỏi tôi: “Mẹ ơi khi nào thì các ngón tay của con không mọc ra hả mẹ?” Hay lúc được 8 tuổi, bé đã thắc mắc: “Mẹ ơi, sao da của con không được trơn như của mẹ hay của mấy em vậy?’” Người mẹ vừa thổn thức vừa nói tiếp: “Tôi không biết phải trả lời thế nào chỉ biết ôm lấy con tôi mà khóc, mà thương nó thôi.”

Cuối cùng anh Joe cũng tiến lên để nói những lời có tính cách quyết định cho bản án. Anh hướng về phía người tài xế và nhẹ nhàng nói: “Thưa ông, nếu không có đức tin thì có lẽ tôi đã kết thúc đời mình từ lâu rồi. Đời tôi sẽ bị kết thúc bởi sự chối từ kinh tởm của người khác, hoặc khi tôi chợt nhìn vào trong gương và thấy được nét mặt kinh khủng của mình. Nhưng tôi không muốn hủy diệt đời mình trong sự thù hận ghen ghét. Tôi không thù ông, không giận ông và cũng không kết án ông. Tôi chỉ xin nói với ông một điều cuối cùng này: bất cứ chuyện gì có xảy đến thì cũng hãy biết rằng ơn phúc của Thượng đế vẫn hằng tràn đầy trên chúng ta, vì Ngài yêu thương chúng ta.”

 

Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
Chúa đã sống đến cùng cuộc Vượt qua của Chúa,
xin cho con biết sống cuộc Vượt qua mỗi ngày của con,

Vượt qua sự nhỏ mọn và ích kỷ.
Vượt qua những đam mê đang kéo ghì con xuống.
Vượt qua nỗi sợ khổ đau và nhục nhã.
Vượt qua đêm tăm tối cô đơn của Vườn Dầu.
Vượt qua những khắc khoải của niềm tin.
Vượt qua những thành kiến con có về người khác…

Chính vì Chúa đã phục sinh
nên con vui sướng và can đảm vượt qua,
dù phải chịu mất mát và thua thiệt.

Ước gì con biết noi gương Chúa phục sinh
gieo rắc khắp nơi bình an và hy vọng,
tin tưởng và niềm vui.
Ước gì ai gặp con
cũng gặp thấy sự sống mãnh liệt của Chúa.

Thiếu nhi chúng con yêu quí,

Cha đố chúng con hôm nay là lễ gì ?

– …

– Lễ hôm nay rất mới, chỉ có sau này vào thời Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II thôi.

Hôm nay là lễ kính Lòng Thương Xót Của Chúa.

Chúng con vừa được nghe một bài Tin Mừng tường thuật lại việc Chúa Phục Sinh hiện ra với các môn đệ của Chúa.

Cha hỏi chúng con theo bài Tin Mừng hôm nay thì Chúa hiện ra mấy lần nào ?

– Thưa cha hai lần.

– Chúng con có thấy giữa hai lần đó có điều gì khác nhau không ?

– Dạ thưa có. Lần đầu không có mặt của tông đồ Tôma. Lần thứ hai mới có.

– Chúng con trả lời rất đúng. Cha khen chúng con. Chúng con rất giỏi.

– Cha thử hỏi khi hiện ra lần thứ nhất chúng con thấy thái độ của Chúa thế nào ?

– Chúng con thấy Chúa đầy lòng yêu thương đối với các môn đệ của Chúa.

– Rất đúng.

1. Đúng Vậy Cha Thấy Chúa Yêu Thương Các Môn Đệ Hết Sức. Tất cả họ đều có lỗi. Lỗi nhiều lắm. Lỗi hèn nhát bỏ trốn khi Chúa bị bắt, lỗi không tin khi Maria báo tin cho họ biết Chúa đã sống lại. Riêng ông Phêrô người được Chúa yêu mến đặc biệt, người được Chúa đặt là đầu tông đồ đoàn, người đã thề sống thề chết là sẽ không bao giờ bỏ Chúa, vậy mà khi vừa gặp một chút thử thách đã chối Chúa, chối tới ba lần.

Đúng là các môn đệ của Chúa đã có thật nhiều lỗi thế mà khi Chúa hiện ra, Chúa chỉ ban Bình an, rồi còn mở cả ngực của mình ra cho họ xem vết thương ở cạnh sườn, còn đưa tay ra cho họ sờ, họ kiểm nghiệm.

Thái độ của Chúa là như thế. Không một chút u buồn. Không một nửa lời trách móc, một cử chỉ khó chịu.

Tình thương của Chúa sao mà đẹp quá, tuyệt vời quá chúng con.

Ông Khoan Flovière, một học giả và là văn sỹ chuyên kể chuyện đồng quê của Phi Luật Tân, đã cho đăng trong nhật báo Ngôi sao, xuất bản tại Manila hôm 23/05/1990, một câu chuyện ngụ ngôn về một người mù và một người điếc như sau:

Tại một vùng làng quê Phi, có một anh vừa mù vừa điếc. Bù lại, anh ta có khả năng phi thường, biết sử dụng những đồ vật xung quanh và hướng dẫn cuộc sống hằng ngày của mình bằng các giác quan khác. Anh biết rõ từng vị trí từng đồ vật trong nhà. Anh cảm thấy an phận và sống hạnh phúc như bao người bình thường khác.

Nhưng rồi một hôm, bỗng xuất hiện trong tâm trí anh một ý nghĩ muốn biết được thế giới chung quanh như thế nào. Anh cầu nguyện xin Chúa cho anh được sử dụng đôi mắt và đôi tai trong vòng một tuần lễ. Thiên Chúa nhận lời. Ngay tức khắc, anh được nhìn thấy ánh sáng và màu sắc, nghe được âm thanh và tiếng nói bình thường như bao người khác. Trong hai ngày đầu, anh tỏ ra hết sức phấn khởi vì được thấy, vì được nghe. Nhưng sang đến ngày thứ ba anh lại cảm thấy buồn, vì nghe biết bao những lời nói xấu xa, thô tục, cộc cằn, và càng buồn hơn nữa khi nhìn thấy những cảnh nghèo khổ, những âm mưu đen tối để hại nhau, những hành động độc ác mà người này có thể làm cho người khác.

Quá buồn bực, anh ta lại cầu nguyện với Chúa như sau: “Lạy Chúa, con cảm thấy Chúa đã thương nhận lời con, cho con được thấy, được nghe. Nhưng giờ đây, con xin Chúa thương cho con trở lại đời sống mù, điếc như xưa; để con được bình an trong tâm hồn. Thà con mù, điếc mà được an tâm; còn hơn là nghe và thấy những cảnh quá đau lòng”.

2. Bây Giờ Cha Nói Đến Chuyện Ông Tôma.

Chúng con đã thấy, lúc Chúa hiện ra lần thứ nhất thì ông Tôma không có mặt. Không biết ông ở đâu vì Tin Mừng không cho chúng ta biết. Chỉ biết rằng sau khi những anh em của mình đã được Chúa hiện ra thì lúc đó Tôma mới mò về. Ông về giữa lúc các môn đệ đã được thấy Chúa, đang vui mừng. Họ thuật lại việc Chúa Phục sinh đã hiện ra với họ. Họ muốn chia sẻ niềm vui ấy với ông nhưng ông một mực khép chặt lòng mình lại và nhất định không chịu tin. Dù các anh em có cố thuyết phục đến đâu đi nữa ông cũng nhất định không tin. Có lẽ áp lực của anh em mạnh quá khiến ông nổi nóng và tuyên bố trước mặt mọi người:

Nếu tôi không được thọc ngón tay vào lỗ đinh của Người và nếu tôi không được đặt cả bàn tay tôi vào cạnh sườn Người thì tôi chẳng có tin.

Ông vừa tuyên bố như thế thì Chúa hiện ra.

Cũng một thái độ hiền dịu và đầy lòng yêu thương như lần trước. Không một lời trách móc. Không một cử chỉ khó chịu. Có người bảo Chúa đã phải đầu hàng trước thái độ cứng lòng tin của ông Tôma.

Và đây là câu chuyện giả tưởng:

Chúa nhìn thẳng vào mắt Tôma và Chúa hỏi

– Tôma ơi! con có tin là có Abraham, có Môisen không ?

– Dạ thưa Thầy có.

– Đã có lần nào mắt con nhìn thấy Abraham, Môisen chưa ?

– Dạ thưa Thầy, chưa, chưa bao giờ!

– Chưa mà sao con dám nói là có ?

Anh em con đã thấy Thầy, Anh em con đã tin. Vậy con còn đòi gì nữa ?

Sau một vài phút im lặng, Với đôi mắt ngấn lệ, Tôma quì mọp dưới chân Chúa và cảm động tuyên xưng: Lạy Chúa con và là Thiên Chúa của con.

Đây là lời tuyên xưng thật nhất và đúng nhất. Chúng ta không thể hiểu được lúc đó lòng Chúa vui đến như thế nào.

Cha kể cho chúng con nghe câu chuyện này:

Một hôm kia có một tên trộm đột nhập vào nhà thờ. Hắn đánh cắp chén thánh ở nhà tạm và để Mình Thánh Chúa vung vãi khắp nơi. Bằng một giọng nói run rẩy và nước mắt cả bờ mi, Cha sở báo tin ấy cho các giáo dân của mình. Ngài mời gọi họ tham dự một buổi phụng vụ để đền bù lại những xúc phạm đến Chúa và đồng thời cũng kêu gọi mỗi người đóng góp để mua một chén thánh mới.

Trong số những người đầu tiên đến dâng cúng có một bà góa nghèo, mẹ của 08 đứa con. Bà đưa cho Cha Sở một đồng tiền vàng mà bà đã cất giữ như một vật thánh từ bao lâu nay. Đó là toàn bộ gia tài của bà. Linh mục cảm động, nói:

– Cha không thể nhận nó, vì nó quá nhiều! Chắc Thiên Chúa sẽ vui thích nhìn món quà của con, nhưng cha tưởng Chúa chỉ bằng lòng chút ít thôi. Cha không thể nhận một hy sinh lớn lao như thế. Con cần, rất cần nó để mua sắm, nuôi nấng các con cái của con. Cha tự xem như mình có lỗi nếu Cha nhận đồng tiền này!

– Nhưng thưa Cha – người đàn bà trả lời – tại sao Cha lại không muốn nhận nó ? Ai nói với Cha là con cho Cha. Con đâu có Cha, mà con dâng cho Chúa, và Chúa sẽ hoàn trả nó lại cho con với cả tiền lời mà!

Nghe nói thế vị Linh mục không biết làm gì hơn là cầm lấy đồng tiền vàng. Ngài bảo:

– Thưa bà, đức tin của bà thật lớn! quá sức lớn!

Chúa đã sống lại. Một Tin mừng vĩ đại cho cả loài người. Đức Cha Bossuet, một nhà giảng thuyết lừng danh của Pháp cho rằng biến cố Phục sinh là: “một biến cố cột trụ của Lịch sử”. Sử gia Daniel Rops thì nói: “Người ta chỉ có thể phủ nhận sự kiện Phục sinh nếu không còn Phúc âm” Còn J.J. Rousseau một nhà văn lớn của Pháp phát biểu như thế này: “Nếu đời sống và sự chết của Socrate là đời sống và sự chết của một nhà hiến triết thì đời sống và sự chết của Đức Giêsu quả là đời sống và sự chết của một Đức Chúa trời”. Vâng Chúa đã sống đời sống của một Đức Chúa Trời và Chúa cũng đã chết như một Đức Chúa trời.

I. Chúa đã chết như một Đức Chúa Trời.

* Với tất cả những ai làm người: chết là hết. Tài giỏi như Alịchsơn Đại đế, thông minh như hoàng đế Napoléon, thánh thiện hiền lành như Khổng Phu Tử như các bậc thánh hiền trong Thiên hạ, ác độc tàn bạo như Tần Thủy Hoàng, như Hitler, giàu có và tài giỏi như Salomon….tất cả đã qua đi và thành tro bụi.

Có lần Napoléon đã than thở như thế này: “Bây giờ ta ở trên cù lao Saint Hélène này. Trong cơn hoạn nạn, những kẻ nịnh hót ta ở đâu ? Chúng biến mất cả rồi ư ? Ai còn nhớ tới ta ? Những bạn thân thiết của ta ở đâu ? Sao lại chỉ có mấy người nghĩa tín với ta cho đến chết vậy ? Chỉ có các ngươi chia sẻ cảnh lưu đày với ta hay sao ?- Chỉ còn một thời gian ngắn ngủi nữa là xác của ta sẽ bị chôn vùi xuống đất làm mồi cho sâu bọ. Cái khốn khổ của ta thật khác xa biết bao với cái thế giới bất diệt của Chúa Cứu Thế mà ngày nay người ta vẫn còn rao giảng, vẫn còn yêu quí, vẫn còn thờ lạy Ngài. Như vậy thì có phải là cái chết hay là sự sống. Nếu Ngài đã chết thì đó phải là cái chết của một Đức Chúa Trời”.

* Vâng, Chúa chết như một Đức Chúa Trời.

Trước khi chịu chết, Ngài đã nói thật rõ Ngài sẽ chết khi nào, chết ở đâu, chết như thế nào và chết do bàn tay của ai.

Ngài chết chỉ vì Ý của Thiên Chúa Cha muốn như thế và Ngài cho phép sự chết đến với Ngài khi Ngài muốn.

+ Nhiều lần chính những người Do Thái đã muốn giết Ngài, nhưng Ngài đã chẳng hề hấn gì.

+ Hêrôđê bắn tiếng đe dọa Ngài, Ngài thẳng thắn trả lời cho ông ta biết: “Hãy về bảo cho con cáo già đó là giờ của Ta chưa đến” (Lc 13,32).

+ Tại vườn cây dầu, ba lần quân lính đã ngã xuống đất khi Ngài mới chỉ xác nhận “Ta đây”.

+Trước mặt quan tổng trấn Philatô…..Chúa đã thẳng thắn trả lời cho Ông: “Nếu từ trên chẳng ban cho ông thì ông chẳng có quyền gì đối với tôi” (Ga 19,11)

+ “Ta có quyền thí mạng sống để rồi lấy lại” (Ga 10,17)

2. Chúa đã chết như một Đức Chúa trời và cũng đã sống lại như một Đức Chúa Trời.

* Trước khi chết Ngài đã làm những phép lạ dọn đường:

+ Cho con gái ông Giairô vừa chết được sống lại.

+ Cho người thanh niên con một bà góa thành Naim đã chết đang được đem đi chôn sống lại.

+ Và đặc biệt nhất là phép lạ cho Lazarô đã chết, đã chôn được 4 ngày sống lại.

* Ngài đã tuyên bố thật rõ ràng và dứt khoát

+ “Như Giona ở trong bụng cá ba ngày thế nào thì Con người cũng ở trong lòng đất ba ngày như vậy” (Mt 12,40)

+ “Cứ phá hủy đền thờ này đi nội trong ba ngày ta sẽ xây dựng lại” (Ga 2,19)

Vâng Ngài đã sống lại thật như lời Ngài đã nói. Đó là một sự thật còn được rao giảng cho mọi người cho đến hôm nay.

Renan: “Ngoài sự thật thì chẳng có gì đứng vững. Mọi điều có liên hệ với sự thật cùng thế. Chúng như một vốn thật nhỏ bé, nhưng khi đã liên hệ với sự thật thì nó sẽ không bao giờ bị hao hụt đi. Trái lại, giả trá sẽ sụp đổ vì nó không có nền tảng. Sự thật tuy là một lâu đài nhỏ như được xây trên nền tảng cốt sắt cứ cao lên mãi”.. D.Rops: “Đó là một điều đáng kể”

II. Lịch sử thuật lại rằng: Trong một trận giao tranh ác liệt giữa quân của Napoléon và quân địch, trận chiến càng về khuya càng ác liệt và phần thắng dần dần nghiêng hẳn về phía địch. Quân của Napoléon chết rất nhiều, hàng ngũ rối loạn mặc dầu cuộc chiến đấu vẫn còn tiếp tục nhưng rời rạc. Nhìn rõ thế trận, Napoléon biết phải làm gì. Vua gọi tên lính thổi kèn lại gần và ra lệnh: “Hãy thổi kèn lui binh vì quân ta chết quá nhiều”.

Tên lính trẻ được lệnh, nhảy thót lên ngựa, phi nhanh ra giữa trận, và đưa kèn lên thổi hồi kèn thúc trận một cách mạnh mẽ. Quân của Napoléon đang mệt mỏi và thất vọng, nghe tiếng kèn thúc quân, tưởng là có viện binh tới giúp, chồm dậy phản công kịch liệt. Kèn cứ thổi, đám tàn quân vươn mình lên vừa đánh vừa la hét. Kết quả: thế trận hoàn toàn thay đổi. Quân của Napoléon toàn thắng một cách bất ngờ. Nhưng ngay sau đó, hoàng đế Napoléon sai bắt tên lính kèn kia lại, và khiển trách y rất nặng nề về tội bất tuân thượng lệnh. Anh lính bình tĩnh tâu: “Muôn tâu đức vua, từ khi được theo bước chân ngài trong binh lửa, và chiến đấu trăm trận đều trăm thắng cho nên hạ thần đã quên hẳn bài kèn rút lui rồi!”

Kính thưa anh chị em!

Quyền năng của Chúa Phục Sinh hôm nay đã tỏa lan trên toàn thân thể mầu nhiệm của Ngài trong đó có cả chúng ta. Không một quyền lực nào có thể ngăn cản được sự đắc thắng ấy.

Trong thư gửi giáo đoàn Côrintô, thánh Phaolô đã viết: “Tạ ơn Thiên Chúa, Đấng hằng cho chúng ta được tham dự cuộc khải hoàn trong Đức Kitô”.(2 Cr 2,14). và Ngài cũng viết cho môn đệ yêu quí của mình là Timôthê thế này: “Thiên Chúa không ban cho chúng ta một thần khí làm ta nhút nhát, nhưng là Thần Khí khiến chúng ta được đầy sức mạnh, tình thương và biết tự chủ”. (2Tm 1,7).

Hãy cảm tạ Chúa và tiến bước trong tinh thần đắc thắng:

Xin được kết thúc bằng lời cầu nguyện của Mẹ thánh Têrêsa:

“Lạy Chúa, Chúa đã chịu chết và sống lại, xin dạy chúng con biết chiến đấu trong cuộc chiến mỗi ngày để được sống dồi dào hơn.

Chúa đã khiêm tốn và kiên trì nhận lấy những thất bại trong cuộc đời cũng như mọi đau khổ của Thập giá, xin biến mọi đau khổ cũng như mọi thử thách chúng con phải gánh chịu mỗi ngày thành cơ hội giúp chúng con thăng tiến và trở nên giống Chúa hơn.

Xin dạy cho chúng con biết rằng chúng con không thể nên hoàn thiện nếu như không biết từ bỏ chính mình cũng như những ước muốn ích kỷ của mình.

Chúa là mặt trời tỏa sáng tình yêu Cha, là hy vọng hạnh phúc bất diệt, là ngọn lửa tình yêu nồng nàn.

Xin lấy niềm vui của Chúa mà làm cho chúng con nên mạnh mẽ và trở thành mối dây yêu thương, bình an và hiệp nhất giữa mọi người. Amen.

Thiếu nhi chúng con yêu quí,

Hôm nay là lễ gì chúng con ?

– Lễ Phục sinh!

– Phục sinh là làm sao ?

– Là sống lại,

– Ai sống lại ?

– Chúa Giêsu chết sống lại.

– Làm sao biết được là Chúa đã sống lại ?

Bây giờ cha bắt đầu giúp chúng con.

1. Trước Hết Cha Nói Về Ngôi Mộ Trống:

Chúa Giêsu đã đi vào cõi chết của con người. Chúa chết thực sự chứ không giả vờ. Sau khi chết người ta đã an táng Chúa trong mộ đá, nhưng rồi sáng ngày thứ nhất trong tuần, người ta không thấy xác Chúa nữa. Chúa đã sống lại ra khỏi mồ và để lại ngôi mộ trống.

Cha hỏi chúng con có phải Ngài đã sống lại thật rồi không ? Ngôi mộ trống phải chăng là một bằng chứng ?

Không ai dám quả quyết một cách chính xác một trăm phần trăm rằng đây đúng là một bằng chứng chứng minh Chúa đã sống lại thật.

Thế nhưng sự thật về ngôi mộ trống là một sự thật không thể chối cãi.

Ngày 27/2/1973 một bản tin phát ra làm xôn xao cả nước Pháp: đó là tin thi hài Thống Chế Pétain bị đánh cắp… nhưng chỉ sau đó mấy ngày người ta lại tìm lại được và cho dù trong cuộc trưng cầu dân ý, 72% nhân dân Pháp muốn phục hồi danh dự cho cố Thống Chế, nhưng ông Pompidou Tổng Thống Pháp vẫn ra lệnh đem chôn trong ngôi mộ cũ và cho lính canh gác ngày đêm.

Như vậy ngôi mộ chỉ trống rỗng có mấy ngày, xác mất đi đã tìm lại được.

Rồi bên Ai Cập hiện nay người ta thấy có nhiều ngôi mộ cũng trống rỗng, như các ngôi mộ của các Pharaông trong các Kim tự tháp. Tại sao lại có sự trống rỗng như thế ? Thưa vì xác của các vị đó đã được đem về bảo tàng viện Le Caire, để những ai đến đây còn có dịp nhìn thấy rõ ràng thi hài các vị Pharaông đã trị vì Ai Cập xưa.

Rồi cách đây không lâu, người ta loan báo là đã tìm ra được những mảnh xương (cũng gọi là xá lợi) của Đức Phật Thích Ca. Những mảnh xương ấy đã được đưa về một trong các thành phố gọi là thánh địa của Ấn. Người ta tổ chức những cuộc lễ vô cùng long trọng để cung nghinh và chiêm bái. Trước quang cảnh ấy một giáo sĩ công giáo đã phát biểu với một người bạn cùng đi tham quan: “Nếu người ta tìm được một mảnh xương của Chúa Giêsu thì Kitô giáo sẽ phải sụp đổ mất”.

Như vậy trong thế giới cho tới ngày nay chỉ duy có một ngôi mộ trống mà người ta đã tìm kiếm suốt hơn 2.000 năm di hài chôn trong đó nhưng không thấy và sẽ không bao giờ thấy vì một lẽ rất dễ hiểu là người đó đã sống lại thực sự.

Đầu tháng 3/2007, kênh truyền hình Discovery đã cho trình chiếu một phim tài liệu mang tựa đề “Ngôi Mộ Thất Lạc của Chúa Giêsu”. Nội dung xoay quanh việc khám phá khảo cổ năm 1980 ở khu Talpiot, phía đông Giêrusalem. Mười hộp đựng cốt đã được khai quật, trong đó có một hộp khắc tên Giêsu con ông Giuse. Phải chăng đoàn làm phim đã kiếm được bằng chứng khảo cổ về con người Giêsu thành Nazareth ? Phải chăng đây là chứng cớ làm lung lay niềm tin vào Đấng Phục Sinh ?

Các chuyên gia khảo cổ Do Thái đã không cho là như thế. Vì chín phần trăm đàn ông Do Thái ở thế kỷ thứ nhất mang tên Giêsu; mười bốn phần trăm mang tên Giuse. Đây không phải là lần đầu tiên, và cũng không phải là lần cuối cùng những hộp đựng cốt như thế này xuất hiện. Ít ra là đã có hai hộp mang tên Giêsu con ông Giuse được khai quật từ năm 1930. Cho nên câu chuyện tìm được hài cốt của Chúa Giêsu chỉ là giả tưởng.

Như vậy chúng ta có thể đi đến một kết luận rằng tuy chúng ta không thể căn cứ vào sự kiện ngôi mộ trống để quả quyết một cách chính xác rằng Chúa đã sống lại thật, nhưng chúng ta phải nhận rằng sự kiện ngôi mộ trống là một sự kiện có thực. Sự thật này có thể được coi là một đóng góp quan trọng vào những sự kiện khác để chứng minh cho việc phục sinh của Chúa.

Mừng Chúa Phục Sinh, chúng ta tuyên xưng rằng: đằng sau câu chuyện “Ngôi Mộ Trống” là sự hiện diện đích thực của một “Đấng Phục Sinh”, của một quyền năng có sức mạnh cải biến những trái tim đang đau buồn thất vọng thành bừng sáng tin yêu, biến những con người yếu đuối nhát sợ nên mạnh mẽ tuyên xưng đức tin dù phải lấy cái chết mà “làm chứng” Thầy mình đã sống lại và đang sống.

Vâng, câu chuyện “Ngôi Mộ Trống”, “Đức Kitô Phục Sinh” mãi mãi, muôn đời, khắp nơi, là câu chuyện của niềm tin căn bản của Kitô giáo. Bởi vì câu chuyện này, biến cố này lại không phải là một sự kiện đột xuất, tình cờ của lịch sử, nhưng là một công trình vĩ đại trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Và sự cứu độ là gì nếu không phải là đem lại cho chúng ta niềm hy vọng nơi một Thiên Chúa luôn trung tín với tình yêu của Người ?

2. Việc Chúa Phục Sinh Với Những Nhân Chứng Đầu Tiên.

Sau ngày Chúa Phục Sinh, người đầu tiên khám phá ra ngôi mộ trống là Maria Mađalêna. Cảm giác đầu tiên của bà khi không thấy xác Chúa trong ngôi mộ đã an táng Ngài nữa là “người ta đã lấy mất xác Thầy rồi” và việc phải làm ngay là đi báo cho các môn đệ của Chúa. Vừa được báo, Phêrô và Gioan đã chạy ngay ra mộ, và khi thấy ngôi mộ đã mở toang, Phêrô và Gioan lúc đầu hơi choáng váng. Rồi bình tĩnh lại nhìn vào trong, thấy khăn liệm còn đó, Phêrô chẳng hiểu gì, còn Gioan đã thấy và tin.

Tại sao cả ba, đứng trước cùng một sự kiện, mà kẻ tin, người lại không tin ?

Đó chính là vì tâm trạng của mỗi người đối với Chúa Giêsu.

* Maria Mađalêna.

Khi ra viếng mộ, Maria Mađalêna chỉ muốn cho vơi đi nỗi nhớ, chứ đâu có ngờ được rằng một người đã chết có thể sống lại. Quả thật, đối với Maria Mađalêna, chết là khép lại tất cả, chết là chấm dứt tất cả và đằng sau cái chết là một bóng đêm dày đặc.

* Tâm trạng của Phêrô và Gioan.

Còn đối với Phêrô, chúng ta có thể thấy ông là con người đang sợ hãi. Ông sợ bị liên lụy. Ông sợ bị bắt bớ. Ông chạy ra ngôi mộ với tâm trạng đối phó. Với tâm trạng đó như thế, làm sao ông có thể nghĩ đến việc Chúa sống lại được.

Chính vì vậy, Phêrô và Gioan, cả hai đều vào trong mộ, cả hai đều thấy khăn liệm, nhưng Phêrô chẳng hiểu gì, còn Gioan “ông đã thấy và tin”.

Phêrô đã thấy nhưng chẳng hiểu gì, còn Gioan thì “đã thấy và đã tin”.

Ngôi mộ trống đối với Phêrô chẳng khác gì các ngôi mộ khác. Nhưng đối với Gioan thì ngôi mộ trống là một dấu chỉ thật lớn. Ngôi mộ trống làm cho Gioan nhớ lại bao lần Thầy đã nói về sự sống lại của Ngài. Bởi thế ông thấy và ông tin.

Tại nhà ga Verona, bên Italia năm 1945, dân chúng đang chờ đợi các binh sĩ trở về từ các trại tập trung của Đức Quốc Xã. Sự xuất hiện của chuyến xe lửa đã khơi dậy những tiếng reo vui tưởng chừng như không bao giờ dứt.

Từ trên xe lửa những tấm thân tiều tụy bắt đầu bước xuống sân ga giữa tiếng cười pha lẫn tiếng khóc của người thân. Cuối cùng, một người lính trẻ mò mẫm bước đi từng bước. Anh từ từ tiến về phía một người đàn bà già yếu và chỉ đủ sức để thốt lên tiếng “Mẹ”. Hai mẹ con ôm chầm lấy nhau… Người mẹ già xót xa: “Làm sao một người mù như con lại có thể tìm đến với mẹ ?”. Người lính mù ấy đáp: “Thưa mẹ, con không nhìn thấy mẹ bằng đôi mắt, nhưng trái tim con đã hướng dẫn con”.

Gioan trong câu chuyện hôm nay cũng như thế. Đôi mắt của Gioan và Phêrô chẳng có gì khác nhau nhưng trái tim của Phêrô và của Gioan thì khác. Chính trái tim của Gioan đã mách bảo cho Gioan những gì ngôi mộ trống đã muốn nói với ông. Amen.