Kính thưa anh chị em,

Các bản văn Phụng vụ hôm nay nói nhiều đến niềm vui. Nhưng tại sao lại vui như vậy? Thưa vì Chúa sắp đến. Cha Gutzwiller một nhà chú giải Kinh Thánh nổi tiếng có viết một câu rất đơn sơ nhưng ý nghĩa rất đẹp: Gặp được Chúa là gặp được niềm vui. Và trong bài Tin Mừng hôm nay Gioan Tẩy Giả sẽ chỉ cho chúng ta cách để chúng ta có thể có được niềm vui của Chúa.

A. Như anh chị em đã thấy, khi Gioan xuất hiện ở bên bờ sông Giorđanô để rao giảng thì có rất nhiều người tuốn đến với ông. Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy trước mặt ông là cả một đám rất đông quần chúng. Đây là thành phần được Gioan Tẩy Giả dành cho những tình cảm đặc biệt. Ngoài ra, ta còn thấy có hai nhóm nhỏ hơi đặc biệt một chút. Đó là những người thu thuế và một số lính tráng, những thành phần không mấy được ưa chuộng, thậm chí còn bị liệt vào số những người tội lỗi cần phải tẩy chay. Nhưng tất cả đều cảm thấy có một khát vọng phải làm một cái gì đó sau khi được nghe những điều Gioan nói. Họ thành khẩn xin Gioan Tẩy Giả chỉ cho họ và Gioan đã không phụ lòng họ.

1. Đầu tiên là đám đông quần chúng Họ cảm thấy bị lay động một cách mạnh mẽ trước những lời Gioan giảng. Họ cảm thấy  phải làm một cái gì đó như Gioan mong đợi.

2. Tiếp đến là những người lính.

3. Cuối cùng là những người thu thuế. Đây là giai cấp bị người Do Thái ghét cay ghét đắng và luôn tìm cách xa lánh.

B. Bây giờ chúng ta hãy nghe Gioan Tẩy Giả khuyên dạy.

1. Để được hiểu rõ hơn những lời Gioan Tẩy Giả nói, ta phải lưu ý một vài chi tiết này.

a- Trước hết ta thấy Gioan có đầu óc. Ông biết những gì cần phải nói và nói những việc có thể làm được.

Gioan cũng là người rất thực tế. Ông hiểu cuộc sống của từng lớp người. Ông hiểu những gì người ta có thể làm được. Ông không đòi hỏi những điều trên mây trên gió. Ông thấy được mỗi người cần phải làm gì trong chính hoàn cảnh cụ thể của mình. Đòi hỏi một điều mà người ta không thể thi hành được thì chẳng khác gì làm một việc vô ích.

b- Bây giờ chúng ta đi vào một vài chi tiết. Tin Mừng hôm nay ghi lại.

+ Với đám đông: Ông đòi hỏi họ phải biết chia sẻ. Họ phải thực hiện Bác ái. “Ai có hai áo, hãy cho người không có. Ai có  của ăn cũng hãy làm như vậy”(Lc 3,11)

+ Với những người thu thuế ông bảo họ: “Các ngươi đừng đòi gì quá mức ấn định cho các ngươi”(Lc 3,13)

+ Với những người lính thì ông lại khuyên khác: “Đừng ức hiếp ai. Đừng cáo gian ai. Hãy bằng lòng với số lương của mình”(Lc 3,14)

c- Qua những lời nói trên chúng ta thấy Gioan xứng đáng là một bậc thầy. Rất khôn khéo và cũng rất tế nhị. Không gay gắt trong ngôn từ nhưng rất quả quyết và rỏ ràng trong hành động.

+ Với những người vốn đã có một đời sống tốt đẹp như đa số đám đông quần chúng là những người đã được luật Công Bình của Cựu Ước giáo dục và chỉ dẫn, thì ông khuyên họ hãy đưa cuộc sống họ lên cao hơn một bậc nữa. Đó là cuộc sống Bác ái. Đây là cuộc sống lý tưởng mà chính Chúa Giêsu sau này cũng đòi hỏi như thế.

+ Nhưng đối với những người mà hai tiếng Công Bình còn quá xa lạ với họ như những người lính và những người thu thuế lời khuyên của Gioan hơi khác. Ông không đòi hỏi những người thu thuế phải đoạn tuyệt với người Roma mà họ đang cộng tác. Ông cũng không đòi hỏi những người lính đang phục vụ trong đạo binh của Hêrođê phải đào ngũ. Họ cứ việc giữ nguyên nghề nghiệp của họ. Thế nhưng vì họ xin ông chỉ cho họ cách họ phải làm gì thì chúng ta thấy Gioan cũng chỉ đòi hỏi họ phải đưa cuộc sống của họ lên cao hơn một bậc. Ông đề nghị với họ hãy từ bỏ những cách cư xử thiếu Công bằng: “đừng đòi gì quá mức ấn định – đừng cáo gian ai – đừng ức hiếp ai”. Đòi hỏi quá mức – cáo gian – ức hiếp người khác – Cách cư xử đó chẳng khác gì cách cư xử của muôn loài cầm thú. Cư xủ như thế là cư xử theo luật rừng. Gioan khuyên họ hãy biết sống Công bằng đối với nhau: “Hãy bằng lòng với số lương đã được ấn định cho các người”

Đó là những lời khuyên rất cụ thể và thực tế cho những người đến xin ông chỉ dẫn. Còn đối với cá nhân của Ông thì sao?

C. Khi người ta hỏi ông về vai trò của mình, ông đã trả lời một cách rất sòng phẳng và thành thật. Ở điểm này thì chúng ta phải cảm phục sự thành thật của ông. Ông không lạm dụng lòng tin của quần chúng. Giữa lúc mọi người tin rằng ông chính là Đấng Kitô, Đấng phải đến thì ông lại bảo: Ông không phải là đấng đó. Đúng là một con người ngay thẳng. Có sao thì nói vậy. Có gì thì nhận nấy. Một lời cũng không thêm, nửa chữ cũng không bớt. Khó mà tìm được một con người như thế nhất là trong xã hội nghèo khó, dầy giai cấp của người Do thái lúc đó.

Ông cũng là một con người rất khiêm nhường. Ông tự ví mình như một người không xứng đáng dù là chỉ cúi xuống cởi dây dép cho Chúa.

Vâng! Ông thành thực, ông khiêm nhường. Ông không muốn gì cho ông. Điều mà ông muốn đó là làm cho người ta nhận ra Đức Kitô. Chính Ngài mới thật là Đấng có uy quyền. Ngài mới là Đấng rửa trong Thánh Thần. Gioan chỉ rửa bằng nước. Ngài mới là Đấng đến để thánh hóa những kể thống hôí ăn năn và trừng phạt những kẻ cứng lòng.

Như vậy Gioan cũng như Sophonia, các ngài chỉ là những ngôn sứ. Các ngài là những người chỉ đóng vai trò loan báo và dọn đường. Chúa Cứu thế mới là Đấng phải đến và đã đến như lời của các ông loan báo. Ngài đến để thực hiện lời hứa cứu độ cho cả loài người. Người là Tình yêu. Ai gặp được Ngài là gặp được niềm vui.

Cha John Diamond kể lại một câu truyện như sau:

Một hôm kia có một người chẳng ưa gì đạo hỏi một cô bé có đạo:

– Em có thể cho tôi biết Thiên Chúa của em ở đâu không?

+ Xin ông vui lòng chỉ cho cháu biết chỗ nào không có Thiên Chúa!

– Thế Thiên Chúa của em có to lớn không?

+ Dạ có.

– Thế Thiên Chúa của em có nhỏ không?

+ Dạ có

– Làm sao mà lại vừa lớn vừa nhỏ như thế được?

– Vâng Ngài lớn đến nỗi cả bầu trời không chứa nổi. Nhưng lại nhỏ, nhỏ đến mức có thể ngự vào tâm hồn nhỏ bé của em.

Kính thưa anh chị em

Chúng ta sắp sửa lại mừng lễ Giáng Sinh của Chúa. Đây không phải chỉ là một việc làm ôn lại quá khứ mà là sống lại một biến cố trọng đại: Biến cố Thiên Chúa đã làm người vì chúng ta. Sự việc Ngài làm người quả đã làm cho mối tương quan giữa Ngài với con người hoàn toàn được đổi mới.

Một Thiên Chúa uy quyền cả bầu trời không chứa nổi nhưng lại có thể đến ngự ở trong mỗi tâm hồn nếu chính con người biết mở cõi lòng đón nhận. Nhưng làm sao để cho chúng ta có thể có được Ngài? Lời của Gioan Tẩy Giả nói với dân chúng, nói với những người thu thuế và lính tráng cũng chính là những lời Chúa muốn mượn miệng lưỡi của Gioan mà nói với chúng ta. Không phải thay đổi nghề nghiệp, cũng không phải thay đổi hoàn cảnh mà là phải thay đổi cách sống…sống sao cho Công Bằng, cho Bác ái. Được như thế chúng ta sẽ xứng đáng với sự Giáng Sinh của Chúa, không cần phải bằng một con người xương thịt như thuở xưa, nhưng bằng Thánh Thần và ơn Thánh Hóa để chúng ta được sống một cuộc sống xứng đáng hơn, làm con người và làm con Thiên Chúa. Amen.

Kính thưa anh chị em.

Lại một làn nữa, chúng ta được nghe một đoạn Tin Mừng của Thánh Sử Luca.

 Tin Mừng chúng ta vừa nghe gồm 3 ý :

1. Ý số một: Thánh Luca  muốn cho mọi người thấy Đức Giêsu là một nhân vật có thật trong lịch sử.

Chính vì thế mà Luca liệt kê ra những nhân vật lịch sử đang hành quyền lúc Gioan Tẩy giả bắt đầu rao giảng. Trong số những nhân vật ấy,

– Có những người đang nắm quyền thuộc lãnh vực chính trị, như Hoàng đế Tibêriô, Tổng trấn Phonxiô Philatô, các Tiểu vương Hêrôđê, Philípphê, Lyxania.

– Có những người đang nắm quyền thuộc lãnh vực tôn giáo, như các thượng tế Khanna và Caipha.

Lãnh địa mà họ đang hành quyền vừa là phần đất Do thái (như Giuđê, Galilê), vừa là phần đất lương dân (như Iturê, Trakhônít, Abilên).

2. Ý thứ 2: Khi kê khai ra những nhân vật đang cầm quyền vừa trong lãnh vực tôn giáo lẫn lãnh vực chính trị, vừa ở đất Do thái vừa ở đất lương dân, Thánh Luca còn muốn nói Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ phổ quát, chẳng những cho người Do thái mà còn cho mọi dân tộc. Thiên Chúa là Chúa của mọi người, mọi dân tộc chứ không phải là Chúa của riêng ai, hay của một dân tộc nào.

Một thi sỹ nọ đã sáng tác một bài thơ để giúp chúng ta tránh những tư tưởng ích kỷ trong lúc đọc kinh Lạy Cha như sau:

“Bạn không thể đọc Kinh Lạy Cha

Nếu chỉ một lần bạn nghĩ là “của tôi”

Bạn không thể đọc Kinh Lạy Cha

Nếu chỉ một lần bạn nghĩ  là “cho tôi”

Bạn cũng không thể đọc Kinh Lạy Cha

Nếu không cầu cho kẻ khác”.

Khi chúng ta xin lương thực hằng ngày chúng ta phải hiểu là “cho mọi người”. Bởi lẽ mọi người đều có mặt trong mỗi một và trong tất cả câu kinh. Từ chữ đầu cho đến chữ cuối, không một chữ nào mang chữ “tôi”.

Anthony de Mello, S.J.kể lại rằng:

Một Kitô hữu nọ đến thăm một vị thiền sư và nói với vị ấy rằng:

– Xin Ngài cho phép tôi đọc cho Ngài nghe bài giảng trên núi.

Vị thiền sư trả lời:

– Rất hân hạnh được nghe ngài.

Người Kitô hữu đọc được một câu. Vị thiền sư mỉm cười bảo:

– Người tuyên bố những lời này đúng là kẻ đã giác ngộ.

Thích thú, người Kitô hữu đọc tiếp. Vị thiền sư ngắt lời và nói:

– Lời này phải là của một Đấng cứu chuộc thiên hạ.

3. Ý thứ 3: Gioan Tẩy giả chính là kẻ Tiền Hô dọn đường cho Chúa.

 Vâng! Gioan được kêu gọi “trong sa mạc”, nghĩa là trong một khung cảnh thinh lặng. Và ông cũng lại lên tiếng trong sa mạc.

“Tiếng của người hô trong sa mạc: Hãy dọn đường Chúa, hãy bạt lối Người đi” (Mt. 3,3)

Tại sao tiếng hô lại được cất lên trong sa mạc chứ không phải là thành thị, phố xá hay phòng trà, chợ búa, nơi người ta đang quây quần đông đúc hay đang vui chơi tội lỗi? Tiếng hô phải được cất lên chính những nơi này mới có người nghe, mới mong có kẻ quay đầu qui chánh, sửa đường bạt lối, làm nên nẻo chính đường ngay cho Đấng Thiên Sai chứ!

Lạ lùng thật! Gioan sống trong sa mạc và tiếng hô của ông cũng lại vang lên giữa vùng hoang vắng.

Không biết chốn trời không mông quạnh thế kia thì tiếng hô được mấy ai chú ý. Tiếng hô vang, vang lên mãi… Nhưng trong nơi trống vắng thì ai nghe cho!

Phải chăng Gioan đã hô lên cho chính mình ông nghe?

Quả đúng như vậy. Trước khi lời kêu gọi: “Hãy dọn đường Chúa, hãy bạt lối Người đi” đến được với mọi người thì trước tiên lời đó phải đến với chính Gioan trước.

Chính nhờ biết hô với chính mình trước hết nên Gioan đã có sức lôi kéo từng đoàn người từ khắp xứ Giuđê đến với ông, để nghe tiếng ông hô, và chịu làm theo lời ông răn dạy. Chính nhờ biết hô cho chính mình mà tiếng hô của Gioan đã vang đến tận khắp các vùng Giêrusalem, xâm nhập tới cõi lòng của bao kẻ sa đọa khô khan.

Không phải chỉ sau khi nghe tiếng hô của Gioan mới bắt đầu có người ăn năn hối cải, chịu thanh tẩy để dọn đường cho Chúa đến. Đúng hơn, từ hoang vắng của sa mạc và trong nơi tịch liêu của cõi lòng, Gioan đã nghe tiếng hô phát ra: “Hãy dọn đường cho Chúa đến”. Lời đó vang đi dội lại trong lòng ông, thúc bách ông nối dài tiếng hô bằng cách ra đi “dọn lòng người cho Chúa đến.”

Cho nên, Gioan chính là người đã dọn đường lòng mình trước nhất. Vì biết lắng nghe những điều mình hô, nên tiếng hô của mình mới có người đáp lại. Sự lắng nghe không chỉ bằng thính giác, nhưng còn bằng tâm hồn. Và từ tâm hồn mới phát sinh những thái độ sống. Một đứa trẻ “biết nghe” không nhất thiết phải là một đứa trẻ có thính giác tốt, nhưng là một đứa trẻ biết ghi tâm lời nói của bố mẹ, thầy cô, và mang ra thực hành.

Thomas Merton đã từng nhận xét:

“Nếu đời ta cứ phun ra những lời vô ích

Chẳng bao giờ ta nghe được bất cứ điều gì,

Chẳng bao giờ ta thấy bất cứ điều gì,

Chẳng bao giờ ta trở nên bất cứ cái gì.

Thế rồi,

Vì cứ nói mãi trước khi có cái gì để nói,

Ta trở thành người không biết nói.”

Không biết nói hoặc nói điều vô ích mà cứ bắt người khác lắng nghe thì chỉ tạo nên những cực hình, phản kháng.

Nhiều gia đình bất an, nhiều cộng đoàn bất thuận, nhiều quốc gia bất hoà chỉ vì có kẻ không biết nói. Nguyên do là thiếu lắng nghe, sự lắng nghe của tâm hồn. Tâm hồn không nghe được vì còn ngổn ngang đây đó nhiều chướng ngại của tự ái, ích kỷ, kiêu căng, tự mãn… Nói tới đây tôi nhớ một câu chuyện. Câu chuyện có liên quan tới một nhân vật lịch sử rất quen thuộc với nhiều người. Đó là ông Gandhi.

Mahatma Gandhi là một vị lãnh tụ chính trị chủ trương bất bạo động, do vậy ông được mọi người dân An-Độ rất tin cậy quý mến trong mọi việc lớn nhỏ. Một hôm, có một bà mẹ dắt một bé gái đến, khẩn nài Gandhi thuyết phục con bà chừa bỏ tật xấu ăn quá nhiều kẹo. Gandhi trầm ngâm hồi lâu rồi bảo:

– Thế này nhé, tôi xin hẹn 3 tuần nữa bà đưa cháu bé trở lại đây, tôi sẽ nói chuyện với cháu…

Ba tuần sau, người mẹ đưa con trở lại. Lần này Gandhi gọi bé gái đến bên cạnh và ôn tồn giải thích cho em về những tai hại của thói quen ăn quá nhiều chất ngọt như kẹo bánh. Em bé gật đầu hiểu ra và hứa sẽ chừa bỏ. Bà mẹ mừng rỡ, rối rít cám ơn Gandhi, nhưng bà cũng không quên thắc mắc:

– Thưa ngài, sao ngài không bảo ngay cho cháu cũng những lời khuyên quý báu ấy cách đây 3 tuần?

Gandhi khiêm tốn thú nhận

– Cách đây 3 tuần ư? Lúc ấy chính tôi cũng còn đang mắc phải tật xấu ăn quá nhiều đồ ngọt…”

Gandhi đã ý thức thật rõ: mình còn có tật xấu thì làm sao mà chinh phục được người khác!

 Lắm khi ta than thở: “Chúa không chịu nghe tiếng tôi”. Nhưng thử hỏi: “Chúa không nghe tiếng tôi hay vì tôi không nghe được tiếng Ngài? Rồi khi nghe được tiếng Chúa, liệu tôi có chấp nhận để tiếng ấy uốn nắn biến đổi đời mình không?”

Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con,
xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.

 Mỗi lần con thấy Chúa,
xin biến đổi ánh mắt con.
Mỗi lần con rước Chúa,
xin biến đổi môi miệng con.
Mỗi lần con nghe lời Chúa,
xin biến đổi tai con.

 Xin làm cho khuôn mặt con ngời sáng hơn
sau mỗi lần gặp Chúa.

 Ước chi mọi người thấy nét tươi tắn của Chúa
trong nụ cười của con,
thấy sự dịu dàng của Chúa
trong lời nói của con.

 Thế giới hôm nay không cần những kitô hữu
có bộ mặt chán nản và thất vọng.

 Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm
cùng đi với Chúa và với tha nhân
trên những nẻo đường gập ghềnh.
Amen.

Kình thưa anh chị em,

Cùng với toàn thế Giáo Hội, chúng ta chính thức bước vào Mùa Vọng hôm nay.

Mở đầu Mùa Vọng,“Chúa Giêsu bảo chúng ta: “Hãy ngẩng đầu lên vì ơn cứu độ đã đến gần”(Lc 21,28)

1. Thế nàongẩng đầu lêntại sao lại phải ngẩng đầu lên như vậy?

Chúa Giêsu bảo chúng ta phải ngẩng đầu lên vì chúng ta thường hay cúi đầu xuống. Cúi đầu xuống để chỉ nhìn thấy những cái dưới đất, chỉ khao khát, tìm kiếm những cái dưới đất và lấy làm thỏa mãn với những cái dưới đất.

Nói là: “cúi đầu xuống” nhưng thực ra là để cho lòng bị thu hút, bị phong tỏa, bị ràng buộc vào trái đất bởi biết bao sợi giây vô hình, gỡ ra không nổi. Tình trạng này làm tâm hồn chúng ta tê liệt đến nỗi không còn đủ sức cất cánh lên cao, để khao khát, tìm kiếm những gì chân thật, vĩnh cửu, là những cái tạo nên thực chất và ý nghĩa cuối cùng của cuộc đời con người.

Một chú vịt trời theo đàn bay về phương Bắc. Một buổi chiều khi đáp xuống một nông trại, chú vịt trời thấy đàn vịt nhà đang ăn bắp, liền nhảy lên để được ăn. Bữa ăn ngon làm nó không muốn bay theo đàn nữa, nó tự nhủ: để mai mốt mình bay theo cũng không muộn.

Nhưng rồi ngày qua ngày nó vẫn ở với đàn vịt nhà để được nuôi ăn. Mùa thu đến, đàn vịt trời bay từ hướng Bắc xuống hướng Nam: các bạn cũ kêu nó trở về khi bay qua nông trại, chú vịt trời ráng sức dập cánh bay lên, nhưng đôi cánh bây giờ quá yếu, nó chỉ bay được lên nóc nhà rồi lại rơi xuống đất. Đời sống dễ dãi ở đây đã làm nó không thể bay được như xưa. Nó đành đứng nhìn đàn vịt trời bay xa dần.

Từ đó mỗi mùa xuân và mùa thu, chú vịt trời đều thấy các bạn cũ bay qua hướng Bắc rồi trở về hướng Nam. Nhưng nó không thể cất cánh bay theo vì nó đã đánh mất đi khả năng thiên phú của nó để rồi nó yên phận sống dưới đất với đàn vịt nhà trong trang trại!.

Cuộc sống của con người trên trái đất này nhiều khi cũng như thế. Có nhiều người đã để cho mình bị mắc kẹt vào những sự tầm thường mà không gỡ ra nổi.

Đành rằng cuộc sống diễn ra dưới đất thì không thể không yêu mến trái đất này. Phải khai thác, sử dụng trái đất hợp với nhu cầu và lợi ích chính đáng của con người. Mỗi người phải nhận lấy trách nhiệm xây dựng trần thế và gây dựng cuộc đời của chính mình. Điều này chính đáng và cần thiết.

Nhưng như vậy đã đủ chưa? Một chén cơm đầy, một ngôi nhà sang trọng, một trương mục đầy tiền, một chiếc xe hơi lộng lẫy đã đủ để thỏa mãn ước mơ làm người của chúng ta chưa? Có còn cần cái gì khác nữa không?

Chúa Giêsu bảo chúng ta hãy ngẩng đầu lên là muốn thức tỉnh chúng ta. Đừng giam mình trong những giấc mơ nhỏ bé hoặc hão huyền. Đừng bao giờ lấy làm thỏa mãn với những cái dễ dãi, tương đối. Đừng ưa hàng giả. Phải mơ ước những cái thật cao cả. Phải tìm kiếm những gì thực sự đưa tới hạnh phúc chứ không phải chỉ đánh lừa hạnh phúc.

2. Chúa Giêsu Còn Bảo: Ơn Cứu Độ Đã Gần Đến

Thế nào là đã gần đến? Có thể hiểu những chữ đã gần đến theo nhiều nghĩa.

Trước hết, ơn cứu độ đã gần đến có nghĩa là ơn cứu độ thật khẩn trương. Khẩn trương vì quan trọng nhất, cần thiết nhất. Đừng có chần chừ, do dự, thoái thác. Tìm ơn cứu độ phải đứng đầu trong các việc cần làm ngay. Khốn nỗi, trong tâm hồn nhiều tín hữu, nhiều lúc việc khẩn thiết nhất này đã mất tính ưu tiên. Có lẽ nó được nghĩ đến ít nhất vì thường bị coi là phụ thuộc nhất.

Thứ đến, ơn cứu độ đã gần đến cũng có nghĩa là ơn cứu độ luôn ở tầm tay, không bao giờ thiếu. Hễ muốn là có, hễ tìm là thấy… vì Thiên Chúa rộng lượng, lúc nào cũng sẵn sàng ban và ban thật dồi dào. Nhưng xem chừng hồng ân đó chẳng được giá bao nhiêu. Người ta đâu có hăm hở vào Nước Trời như chen chúc nhau vào các rạp hát, các cửa hàng bán hạ giá, xếp hàng dài trước địa điểm phát hàng ngoại nhập.

 Vào năm 160, dưới thời bắt đạo của Hoàng Đế Marc Ausèle Valérien, chồng của thánh nữ Cécilia, và em là Tiburce bị nhốt ngục vì đức tin. Một sĩ quan Maxime được lệnh dẫn các ông ra pháp trường. Mở cửa ngục thất, ông thấy họ quỳ gối dưới đất, mắt ngước lên trời, guơng mặt bình tĩnh phi thường. Tuổi thanh xuân, gia đình sang trọng, vẻ ngây thơ trong trắng và tinh thần nhẫn nhục chịu đựng nơi các tử tội đã khiến người quân nhân rơi lệ.

          – Tại sao ông khóc? – một tù nhân hỏi.

– Tôi khóc vì thấy các bạn trẻ trung, giàu sang, qúy phái mà lại sắp chết .

–  Ông Maxime ạ, đừng tưởng nhầm nữa. Chúng tôi là người công giáo, và một một khi đã giã từ cõi trần này, người công giáo tôi chuyển sang một cuộc sống tươi đẹp hơn, một nơi không có bóng dáng tử thần nữa.

– A! Giả như đúng như lời các bạn nói?

– Nếu ông hứa sẽ giữ đúng niềm tin ngưòi công giáo thì giờ chúng tôi chết, ông sẽ nhìn thấy sự thật tận mắt.

Maxime hứa và khi nhát dao người đao phủ chặt đầu các vị  tuẫn giáo vừa đứt, ông đã thấy linh hồn họ sáng ngời. Sau đó không lâu, chính Maxime cũng đã tìm đến với đức tin van được nhận triều thiên chiến thắng.

3. Khám Phá Niềm Vui

 Có lẽ ít khi chúng ta nghĩ đến niềm vui trong Chúa. Chúng ta cũng thường quên rằng niềm vui là nét tiêu biểu của đời Kitô hữu. Có lẽ bởi vậy mà ít khi chúng ta vui thật, vui sâu xa và lâu bền trong lòng, một niềm vui biến thành bình an. Bình an chính là một tên gọi khác của niêm vui.

Cũng chính vì chúng ta không đặt niềm vui của chúng ta “trong Chúa” nên chúng ta thường đại tìm nguồn vui độc hại ở nơi khác ngoài Chúa. Hậu quả là lo âu, buồn chán của cuộc sống có cơ lấn át bình an, làm cản nghị lực và sức sông, làm chúng ta yếu đi, già đi.

Phụng vụ “Chúa nhật Vui mừng chẳng những gợi lên tính vui tươi của Mùa Vọng mà còn chỉ cho chúng ta thấy nguồn vui vô tận luôn tiềm ẩn trong lòng người tín hữu. Nguồn vui vô tận ấy chính là sự hiện diện của Thiên Chúa trong mỗi tâm hồn.

Cách đây mấy năm, tại Hollywood, có một tài tử điện ảnh đột nhiên ngã bệnh. Sau khi khám cho anh, bác sĩ riêng đã thẳng thắn nói cho chàng tài tử biết: “Tình trạng sức khoẻ của anh bi đát lắm! Chúng tôi cần phải thực hiện một cuộc giải phẫu kéo dài 36 tiếng đồng hồ mới may ra cứu sống anh được”. Về sau, chàng tài tử ấy thực sự thú nhận: “Trong 36 tiếng đồng hồ ấy, tôi đã học được nhiều điều hơn 36 năm trước đó của tôi, và tôi đã cảm nghiệm được niềm vui mà trước đó tôi chưa bao giờ cảm nghiệm được. Tôi khám phá ra rằng tôi chẳng hề sợ chết vì trước đó tôi có thói quen mỗi ngày cầu nguyện với Chúa Giêsu và bây giờ khi phút giây cam go xảy đến, tôi cảm nhận được kết quả của lời cầu nguyện ấy. Chính lúc đó tôi mới khám phá ra rằng nhờ những lần tâm sự, nói chuyện hằng ngày với Chúa Giêsu truớc đó, mà giữa Ngài và tôi chẳng xa lạ gì nhau, chúng tôi đã trở nên đôi bạn chí thân”.

Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con nhìn thấy sự hiện diện của Chúa ở bên con dưới muôn ngàn dáng vẻ.

Xin cho con gặp Chúa nơi bất cứ ai là người vì họ có cùng khuôn mặt với Chúa.

Xin cho con khám phá ra Chúa đang hẹn gặp con nơi mọi biến cố buồn vui của đời thường.

Ước gì con thấy Chúa ở khắp nơi, đâu đâu cũng là nhà của Chúa.

Và ước gì con đừng bỏ lỡ bao cơ hội gặp Chúa trên bước đường đời của con. Amen.

Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng Vụ. Giáo Hội cho chúng ta mừng lễ Chúa Kitô Vua.

1. Hầu như trong cả cuộc đời của Chúa, ngoài một lần duy nhất Chúa được đối xử như một vị Vua lúc Chúa giáng sinh, khi các nhà đạo sĩ tìm đến bái thờ, còn ngoài ra thì Ngài sống như một người bình thường.

Thế nhưng vào những ngày cuối cùng trên trần thế cuộc sống của Chúa có thật nhiều đổi thay.

a/ Lúc vào Thành Giêrusalem một cách long trọng, Ngài để cho dân chúng tung hô Ngài như một ông Vua.

b/ Rồi trong cuộc đối đầu với Philatô, đại diện cho quyền lực của cả Đế quốc Roma lúc đó, Chúa đã không một chút ngần ngại để xác nhận một sự thật khi Philatô hỏi Chúa: “Ông là Vua sao?” Chúa trả lời một cách dứt khoát, không một chút ngại ngùng: “Quan nói đúng: tôi là Vua”

c/ Chưa hết trong cuộc xét xử Chúa, khi được bà vợ báo tin cho biết Chúa là người vô tội, Philatô đã muốn tìm cách cứu Chúa Giêsu. Ông đã làm cho Chúa ra tiều tuỵ bằng những trận đòn ông cho lính hành hạ Chúa, rồi ông đưa Chúa ra trình diện với người Do thái: “Đây là Vua các ngươi”. Quả thực là Philatô đã muốn cứu Chúa nhưng sự việc lại không diễn ra như ông mong mỏi.

d/ Và cuối cùng như chúng ta đã thấy, khi Chúa bị treo ở trên Thập giá, chính Philatô đã truyền viết và gắn một tấm bảng thật lớn để mọi người có thể nhìn thấy trên đầu cây Thập giá của Chúa. Tấm bảng với dòng chữ rất rõ như thế này: “Giêsu Nagiareth, Vua dân Do thái”

2. Vâng, quả thực Chúa là Vua như Chúa đã xác nhận. Thế lực của trần gian cũng xác nhận, nhưng phải hiểu nội dung lời tuyên bố của Chúa và lời tuyên xưng của trần thế như thế nào? Rõ ràng là Chúa là Vua nhưng cuộc sống của Chúa và cách cai trị của Chúa chẳng giống với bất cứ một ông Vua nào trên trần thế này cả.

a- Nói đến Vua, người ta thường liên tưởng đến một người có uy quyền. Uy quyền đó thường do hai cách: hoặc là tự mình cướp được hay là do người khác ủy cho. Thí dụ như các vua Do thái vào thời của Chúa Giêsu đều là những người đã được các Vua Roma phong cho.

Với Chúa Giêsu thì không như thế. Trước khi về trời Chúa đã long trọng tuyên bố với các môn đệ của Ngài: “Mọi quyền trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy” (Mt 28,18). Đây là uy quyền tuyệt đối dù cửa hỏa ngục cũng không thắng được.

b- Tiếp theo khi nói đến Vua thì người ta thường liên tưởng đến một lãnh thổ nơi mà Vua cai trị. Lãnh thổ của một ông vua trên trần thế thường là một không gian có biên giới, có bờ cõi, trong đó thần dân của vua sinh sống.

Đối với Chúa thì không như thế. Chúa nói thẳng với Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này” Chúa không muốn uy quyền của Chúa bị đóng khung trong một thứ không gian nhỏ bé ở trên đất này. Vương quốc của Ngài là vương quốc của sự thật, của sự sống, của sự thánh thiện, của công chính, yêu thương và an bình. Vương quốc đó vượt xa mọi thứ vương quốc chóng tàn và mau qua ở dưới trần gian

c- Khi nghĩ đến một ông vua thường chúng ta cũng còn liên tưởng đến đường lối mà vua thường dùng dể cai trị cũng như những phương thức ông dùng để chinh phục và mở mang bờ cõi cho vương quốc của ông.

Còn Chúa Giêsu thì không như thế. Ngài không đến để thống trị, nhưng để phục vụ. Chúa nói với  các môn đệ của Ngài: “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em. Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ” (Mt 20,26-27). Chính Ngài cũng đã làm như thế: “Con người đến không phải để được người ta phục vụ nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá cứu chuộc muôn người “ (Mt 20,28). Vào những giờ phút chót trong cuộc đời trần thế của Người, Người đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Và Chúa khuyên các môn đệ cũng hãy bắt chước mà làm như thế (Ga 13,12-18)

d – Cuối cùng khi nói đến những ông vua, chúng ta còn hay liên tưởng đến một cuộc sống giầu có và sang trọng của họ. Họ thường sống cách ly với mọi người nhất là những người nghèo khổ. Rất ít khi có một vị vua biết sống gần gũi với dân. Trong một cuộc nói truyện với dân, Chúa Giêsu đã đưa ra một nhận xét rất hay. Chúa bảo: “Những kẻ áo quần lộng lẫy, đời sống xa hoa thì ở trong cung điện” (Lc 7,25). Ở trong cung điện, sang trọng và kín cửa cao tường.

Còn Chúa thì không như thế. Ngài đã từng tuyên bố: “Con chim có tổ, con chồn có hang nhưng con người không có chỗ tựa đầu”. Cả cuộc đời công khai hầu như chỉ là cuộc sống ở ngoài đường. Người ở giữa dân của Người. Không nhà cao cửa rộng. Không lụa là gấm vóc, không cao lương mỹ vị. Người bước những bước đi với dân của Người. Người chia sẻ với dân từng miếng cơm manh áo. Bệnh tật Người chữa cho lành. Què quặt Người làm cho đứng dậy mà đi. Mù loà Người cho được nhìn thấy. Sa đọa Người vực dậy. Tội lỗi Người tìm cách để được trở về đường ngay nẻo chính. Cây lau bị dập Người không nỡ bẻ gẫy. Tim dèn còn khói người không nỡ dập tắt đi. Người làm tất cả những điều đó chỉ vì lòng yêu thương. Người yêu thương dân như yêu thương chính mình. Chẳng có một ông Vua nào trên trần thế này làm được như thế.

3. Bây giờ đến lượt chúng ta kính thưa anh chị em. Chúng ta phải làm gì để xứng đáng với danh nghĩa là thần dân của Vua Giêsu.

Trong một cuộc thi hùng biện hồi còn là một học sinh, Lý quang Diệu người đã làm nên những “phép lạ” biến hòn đảo Singapore trở thành một trong những con rồng ở Châu Á, đã nói với các bạn của ông bằng những lời như thế này: “Thưa các bạn, cha mẹ cho chúng ta cuộc sống nhưng chúng ta sống vì mục đích gì?. Câu hỏi đó không phải là dễ đối với nhiều người. Có người trả lời: tôi sống vì tiền của và mong trở thành một thương gia cự phách. Có người vì địa vị quyền uy mà phấn đấu. Mục tiêu cuối cùng của tôi là đại quan. Có người nỗ lực cho những gì mình ưa thích để sau này sẽ là nhà khoa học, nhà văn, nhà giáo, kỹ sư, bác sĩ v.v.. Tôi không hề hoài nghi là sự lựa chọn của họ có điều gì không thỏa đáng nhưng tôi nghĩ rằng trong lúc bươn chải cho những hoài bão lớn lao đó, họ đã thiếu vắng một linh hồn cao thượng đó là CHÂN LÝ.

Sau đó ông nại tới Tân Ước dể giúp cho nhưng người nghe biết giá trị chân lý là gì. Ông nói tiếp: “Bạn hãy mở lại chương thứ 18 Phúc Âm thánh Gioan của Kinh Thánh Tân Ước mà xem” Trong chương này Chúa Giêsu Chúa của chúng ta đã nói về chân lý nhưng những người trong cuộc hầu như chẳng ai hiểu được chân lý là gì kể cả con người có quyền uy vào hạng tuyệt dối trên đất nước Do thái lúc đó tức là Philatô, đại diện cho uy quyền của cả một đế quốc rộng lớn bao la. Muốn hiểu được chân lý con người phải có một cái tâm trong sáng, phải có một cái nhìn không bị vẩn đục bởi những giá trị phàm trần.

Rồi ông dõng dạc nhấn mạnh từng tiếng để kết thức bài diễn thuyết của ông. Ông nói:Dũng cảm đi tim chân lý là thiên chức của con người. Người bạn vĩ đại nhất của chân lý là thời gian. Kẻ thù ác độc nhất của chân lý là thiên kiến và khiêm tốn chính là người tình vĩnh hằng nhất của nó. Các bạn đồng học thân mến! Hãy sống vì chân lý. Trên đường đời muôn dặm hãy luôn tìm đến chân lý, nghiên cứu chân lý và cống hiến cho chân lý”

Những lời này tự nhiên làm cho tôi liên tưởng đến những lời của Chúa Giêsu: “Chân lý sẽ giải phóng anh em” “Ai thuộc về chân lý thì nghe tiếng của tôi”

“Trên đường đời muôn dặm hãy luôn tìm đến chân lý, nghiên cứu chân lý và cống hiến cho chân lý. Hãy sống vì chân lý.”

Và tôi lại nhớ tới một lời dạy khác của Chúa Giêsu. Chúa nói với các môn đệ: “Thầy là đường, là chân lý và là sự sống” Và tôi muốn thay đổi một chút lời kết thúc bài diễn văn của Ông Lý quang Diệu

“Trên đường đời muôn dặm hãy luôn đi tìm Chúa Giêsu, nghiên cứu những lời dạy của Người và cống hiến cuộc đời làm nhân chứng cho Người. Hãy sống cho Chúa Giêsu và vì Chúa Giêsu” Làm được như thế chúng ta sẽ xứng đáng là thần dân của Người .Amen.

Kính thưa anh chị em.

Hôm nay Giáo hội Việt Nam chúng ta hân hoan và hãnh diện mừng kính các Thánh Tử Đạo tại VN.

1. Chúng ta hân hoan và hãnh diện vì 3 lý do:

– Trước hết vì các ngài là người đã chết trên dất nước Việt Nam thân yêu này của chúng ta. Tertulianô sử gia của Lamã thuở xưa đã nói: “Hạt máu của những vị tử đạo là hạt giống nảy sinh ra những người kitô hữu khác.” Thật không gì vui mừng và hãnh diện, tự hào khi đất nước chúng ta có những vị thánh góp mặt với Giáo Hội toàn cầu.

– Tiếp đến là vì số lượng lớn lao đông đảo các Thánh tử đạo VN của chúng ta đã có mặt trong Lịch sử của Giáo Hội. Với 117 vị Thánh, Giáo Hội VN được xếp hạng nhất nhì trong sổ bộ các thánh đã được Giáo Hội phong thánh.

– Và cuối cùng chúng ta hân hoan và hãnh diện vì các Ngài là những người đã trung thành với niểm tin và đã lấy đời mình làm chứng nhân anh hùng cho niềm tin đó

Đọc lại tiểu sử các Ngài ta không khỏi không cảm phục về đức tin kiên cường của các Ngài. Vì trung thành với Chúa, các Ngài đã cam chịu thiệt thòi trong đời sống, mất hết chức quyền danh vọng và nhất là phải chịu muôn ngàn khổ hình, có khi còn mất cả mạng sống vì đức tin.

Chúng ta hãy đọc lại sắc dụ cấm đạo được ban hành ngày 18-9-1855 để chúng ta thấy được một phần nào những khổ hình mà các Ngài phải chịu: “Các quan theo đạo Giatô tại triều đình Huế hạn cho một tháng phải bỏ đạo. Các quan tỉnh thì ba tháng. Lính tráng và người dân thì sáu tháng, bằng không thì phải kể là trọng phạm.

Các người theo đạo Giatô không được thi cử, không được giữ chức tước gì.

Ai đưa đường hay chứa chấp đạo trưởng thì bị xử tử. Đạo trưởng Tây phương thì chém đầu vất xác xuống sông. Các giáo đồ giúp các đạo trưởng thì phải chém đầu.

Các cụ đạo bản quốc cũng phải chém đầu. Các giáo đồ theo các cụ đạo này thì phải thích chữ vào mặt và phát lưu.

Phải đốt cho sạch các nhà thờ nhà xứ “

Lịch sử còn ghi lại những hình phạt mà người ta đã nghĩ ra và đã dùng để trừng phạt những người theo đạo như sau :

  – Nhẹ nhất là bị gông cùm. Bị xiềng xích, bị nhốt trong cũi, bị đánh đòn, bị bỏ đói cho tới chết.

 Nặng hơn một chút thì bị voi dầy, bị trói rồi bị ném xuống sông, bị chôn sống, bị đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng cho đến chết.

 Quyết liệt hơn một chút thì bị xử trảm, xử giảo (= bị thắt cổ) và thiêu sống.

 Ác liệt nhất là bị xử lăng trì (phân thây ra từng mảnh) hay bá đao ( bị xẻo đi từng mảnh thịt cho tới chết)

Tôi xin trích ra đây một đoạn trong bản báo cáo về việc xử Cha cố Du theo kiểu bá đao tại Thợ Đức ngày 30-11-1835:

“Họ cột chân tay Ngài vào một cây cột. Hai bên lính cầm kìm chờ sẵn. Sau hồi chuông báo hiệu, tên lính cầm kìm đã được nung đỏ kẹp vào ngực kéo ra hai miếng thịt nơi vú liệng xuống đất. Tên khác cầm dao xẻo thịt phía sau hông – rồi đến dùi thì chúng lấy kìm kéo thịt ra rồi dùng lưỡi dao xẻo đứt từng miếng. Cha ngất đi, đầu rũ xuống và Ngài tắt hơi về chầu Chúa lúc 17giờ.

Cha chết rồi, lính chặt đầu Ngài cho vào một chiếc thùng đầy vôi….đoạn họ cởi trói, lật úp xác xuống, phân thây ra từng khúc nhỏ bỏ vào thùng vôi. Tiếp theo họ  lấy đầu đầu của ngài treo giữa chợ ba ngày…rồi lấy xuống nghiền nát ra, bỏ vào thùng đựng xác, rồi vất tất cả xuống biển cho mất tích”

Vâng, kính thưa anh chị em.

Gian khổ có cao, hình phạt có nặng nhưng lòng trung thành của các Ngài còn cao còn lớn hơn. Cái chết của các Ngài thật đáng làm cho chúng ta tự hào. Trong sắc phong chân phước cho 64 anh hùng tử đạo VN ngày 27-5-1900 Chính Đức Thánh Cha Léo XIII đã nói về các Ngài với tất cả lòng khâm phục như sau: “Đây là những chiến sĩ trung liệt và kiên cường không kém gì những chiến sĩ ngày xưa vào những thế kỷ khai nguyên của Giáo Hội Chúa Kitô”

Đó là chuyện cách đây hơn 300 năm.

2. Chúng ta tự hỏi chúng ta có thể học tìm được một bài học nào từ những tấm gương hào hùng của cha ông chúng ta hay không?

Ngày nay đâu còn cảnh cấm đạo, bắt đạo, giết người có đạo như thời vua quan ngày xưa.

Nhưng để sống đạo trong xã hội hôm nay, quả thực chúng ta gặp không ít khó khăn. Xin kể ra 2 khó khăn tiêu biểu.

Khó khăn thứ nhất đó là chủ nghĩa cá nhân ngày càng phát triển. Ai cũng muốn thăng tiến bản thân và gia đình của mình. Ai cũng lo làm ăn, học hành, xây dựng cho bản thân. Cuộc cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Những nhu cầu của bản thân càng ngày càng nhiều. Rõ ràng là ngày nay người ta kiếm được nhiều tiền hơn trước, có nhiều tiện nghi hơn trước, xe cộ tốt hơn, nhà cửa đẹp hơn, hưởng thụ nhiều hơn.

Báo Tuổi trẻ số Chúa nhật ngày 23-10-2005 có một bài Phóng sự nói về cuộc sống của những “Sinh viên “quí tộc”” Tôi xin trích một đoạn nhỏ: “Khi tiếp cận được cậu thanh niên mới hơn 20 tuổi này, Tuấn trả lời tôi một câu xanh rờn vì tưởng là bạn học cùng lớp: “Trẻ không xông pha về già ân hận”! Hỏi: “Có đêm ông tiêu hết 20 triệu hả?”. Tuấn nhả khói thuốc lạnh lùng bảo: “Độc thuê sảnh khách sạn đã mất ngần ấy rồi ông ạ. Bữa nào khao nặng phải mất hai cục (200 triệu)!”. “Ông chơi trội quá”, “Thiếu gì thằng như tôi, mỗi thằng khao một buổi”! Vừa trả lời xong, Tuấn đã “bận” với chiếc điện thoại O2: “Lại phải xuống Hải Phòng chơi với mấy thằng bạn”…

Rõ ràng chủ nghĩa cá nhân hôm nay đã làm cho con người không bao giờ thấy thỏa mãn, đầy đủ. Vì thế càng ngày con người càng đóng kín vào bản thân, không có thời giờ để đến nghĩ đến người khác. Một câu nói được coi như châm ngôn của một số người “Ăn tranh thủ, ngủ khẩn trương, học bình thường, chơi là chính”...

Để lựa chọn sống theo Phúc Âm, để trung thành với Lời Chúa dạy, chúng ta phải bỏ quên một phần thân mình, gia đình mình để nghĩ đến, để giúp đỡ, để vực dậy những anh em kém may mắn. Đó là điều không dễ.

Khó khăn thứ hai là kinh tế thị trường ngày càng phát triển. Đồng tiền đang trở thành một thước đo cho mọi giá trị của con người. Đồng tiền đang trở thành một quyền lực chi phối toàn bộ đời sống con người. Ai cũng muốn có thật nhiều tiền, và để có nhiều tiền, nhiều người đã không từ chối một phương tiện nào kể cả những phương tiện mà họ biết là bất chính như: lường gạt, lừa đảo, làm hàng giả, buôn thuốc phiện, tham nhũng, hối lộ. Vụ Điện kế điện tử trước đây ở Thành Phố Hồ Chí Minh chúng ta là một thí dụ. Tiền bạc quả là một cơn cám dỗ đang làm chao đảo, đang tàn phá những gía trị tốt đẹp, đang làm biến chất biết bao nhiêu con người trong cuộc sống hôm nay.

Đứng trước nhu cầu và ham mê tiền bạc, người Công Giáo muốn trung thành với Phúc Âm, muốn sống trọn vẹn đức tin, bắt buộc phải có sự lựa chọn. Thà cam chịu nghèo khổ còn hơn nhận những đồng tiền phi nhân bất nghĩa. Thà cam chịu thiếu thốn còn hơn đánh mất đức tin. Thà lao động cực khổ để kiếm miếng cơm manh áo chân chính hơn là chạy theo những đồng tiền dễ dãi để chối từ Phúc Âm và luật Chúa.

Quả thực xã hội mới đang tạo ra những thách đố, những cơn bắt bớ mới. Để trung thành với Chúa, với Phúc Âm chúng ta cũng phải lựa chọn quyết liệt. Những chọn lựa đó làm cho chúng ta đau đớn không kém gì những khổ hình. Những hy sinh vì Phúc Âm đó khiến lòng ta rỉ máu không kém gì phải chịu thiêu thân, hay chịu cảnh bị đầu rơi máu chảy. Các Thánh tử đạo chỉ chọn lựa một lần. Còn chúng ta chết mòn mỏi mỗi ngày trong những chiến đấu, những từ bỏ đớn đau. Sống Phúc Âm trong thời đại hôm nay quả không phải là dễ. Phải nói rằng đây đúng là một cuộc tử đạo liên tục. Và sống vì đạo như thế cũng cao đẹp và cũng anh hùng không kém gì chết vì đạo. Sống vì đạo như thế, chúng ta cũng góp phần làm chứng nhân cho Chúa, cho Phúc Âm không kém gì chết vì đạo.

Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam, xưa các Ngài đã anh dũng hy sinh cuộc đời, dâng hiến máu đào làm chứng cho Phúc Âm. Xin giúp chúng con hôm nay cũng biết can đảm, hy sinh sống theo Phúc Âm để làm chứng cho Chúa trong đời sống hằng ngày. Amen.

Qua bài Tin Mừng hôm nay chúng ta thấy có hai hình ảnh cực kỳ đối chọi với nhau.

Hình ảnh đầu tiên là hình ảnh về những người luật sĩ: Họ rất cao sang, vinh dự với áo thụng, với chức quyền, được người ta bái chào, được ngồi những chỗ nhất. Cứ bề ngoài mà xét thì xem ra họ là những người rất đạo đức, rất tốt. Có lẽ có nhiều người cũng mong có được cuộc sống như vậy.

Hình ảnh thứ hai là hình ảnh một bà góa: Bà rất nghèo. Vì nghèo cho nên chẳng được ai để ý tới. Bà cũng chẳng có áo thụng, thứ áo dài quét đất, có tua, mặc vào để nhắc nhớ mình là tuyển dân của Thiên Chúa. Vì nghèo cho nên cũng chẳng có bao giờ bà có được một chỗ tốt nơi công cộng, chẳng được ai để ý đến mà chào hỏi. Thông thường thì có lẽ chẳng mấy ai mong muốn phải sống nghèo như thế.

– Bây giờ chúng ta xem cách nhìn của Chúa. Chúa thấy gì qua những hình ảnh đó. Rõ ràng là cái nhìn của Chúa không giống với cái nhìn thông thường của con người. Những người luật sĩ  rất cao sang, vinh dự với áo thụng, chức quyền, được người ta bái chào, được ngồi những chỗ nhất…người ta thì thấy như thế là sang, là đẹp….còn Chúa thì Chúa lại thấy đó chỉ là cái vỏ bên ngoài, nhưng ẩn sâu dưới cái vỏ đó là một tâm hồn kiêu căng, tham lam, ức hiếp kẻ yếu đuối. Có lần Chúa bảo “họ giống như mồ mả, bên ngoài thì quét vôi trắng toát rất đẹp nhưng bên trong toàn là mùi xú uế bẩn thỉu”

Ngược lại người đàn bà góa bụa nghèo khó…bên ngoài chẳng bằng ai, không có gì để lôi cuốn, để hấp dẫn. Và thông thường thì có lẽ cũng chẳng có mấy ai ưa chuộng cuộc sống như thế. Thế nhưng đối với Chúa thì lại khác. Bà góa ấy tuy nghèo tiền nhưng lại rất giàu lòng. Bà dám làm những việc mà ít ai dám làm: dâng cho Chúa cả sự sống của bà. Chúa Giêsu khen ngợi cuộc sống đó. Đối với Chúa đó là cuộc sống rất đẹp. Chính vì nó đẹp cho nên Chúa mới gọi các môn đệ lại và bảo họ phải noi gương.

BÀI HỌC

Qua câu chuyện của bà góa nghèo Chúa muốn dạy chúng ta điều gì? Có rất nhiều bài học chúng ta có thể rút ra từ câu chuyện đầy ấn tượng này, nhưng ở đây tôi chỉ xin gợi lên mấy điều tôi tưởng là rất cần cho chúng ta..

Trước hết câu chuyện này nhắc nhở chúng ta về bổn phận đối với Chúa và Giáo Hội. Bà góa rất nghèo nhưng bà đã ý thức được bổn phận của mình đối với Chúa, với cộng đoàn. Bà đã sãn sàng hy sinh, hy sinh cả sự sống của mình để giúp Giáo Hội.

Ông Sam Jones một nhà truyền giáo rất nổi tiếng, một lần kia gặp một tín hữu lúc nào cũng than van về những khoản ông phải đóng góp.

– Thưa ngài, tôi phải đóng góp cho Hội Thánh nhiều quá.

– Bao nhiêu?

– 5 USD một năm.

– Thế ông theo Chúa bao lâu rồi?

– Đã 4 năm.

– Trước khi theo Chúa ông làm gì?

– Tôi nghiện rượu.

– Mỗi năm ông uống hết bao nhiêu tiền?

– Chừng 250USD

– Khi ấy ông có ruộng đất gì không?

– Tôi mướn đất cày bừa với một con bò

– Bây giờ ông có gì không?

– Tôi có một khu ruộng và một đôi ngựa cày.

– Trước kia ông cho ma quỉ mỗi năm 250USD để được cày trên một thửa ruộng đi thuê muớn với một con bò. Nay Đức Chúa Trời đã cứu ông, ông chỉ dâng cho Ngài 5USD một năm để được cày ruộng của mình với một đôi ngựa. Vậy mà ông còn kêu là nặng nề ư? Ông là người bội bạc từ đỉnh đầu cho đến bàn chân!

Có lẽ nhiều người trong chúng ta cũng như vậy. Chúng ta nhận được từ Chúa và Giáo Hội quá nhiều nhưng thử hỏi có khi nào chúng ta nghĩ tới bổn phận chúng ta phải xây dựng Giáo Hội bằng những hy sinh của chúng ta không?

Cách dâng cúng đẹp lòng Chúa.

Thứ đến: Chuyện bà góa làm tôi phải giật mình. Trong câu chuyện này, Chúa Giêsu đã dạy một điều rất lạ mà rất hay: có khi nhiều mà là ít, có khi ít mà là nhiều. Nhiều người dâng những số tiền rất lớn. Xem ra là rất nhiều nhưng Chúa lại bảo là ít vì họ dâng những cái dư thừa. Ngược lại một bà góa, bà chỉ bỏ vào hai đồng tiền nhỏ. Đó là đồng gọi là lepton, nghĩa đen là một đồng mỏng, là đồng tiền có giá trị nhỏ nhất trong các đồng tiền. Thế nhưng Chúa Giêsu lại nói phần đóng góp đó là nhiều hơn tất cả mọi người khác, và Chúa cắt nghĩa: vì những người khác bỏ vào đó số tiền họ đã dành dụm được khá dễ dàng và vẫn còn giữ lại khá nhiều, trong khi bà góa nghèo này đã bỏ vào tất cả những gì bà có. Nhiều đối với Chúa không phải ở số lượng bỏ ra mà là ở tấm lòng và sự hy sinh của người dâng hiến.

Ngày xưa, lâu lắm rồi, một ông vua ở Ấn Độ, mời Đức Phật vào cung làm lễ. Hôm ấy vua cho đốt rất nhiều đèn dầu trong cung nhất là dọc theo hành lang từ cung vua đến cung Phật ở. Lúc đó có một bà góa nghèo khó cũng muốn dâng lên Đức Phật ngọn một ngọn đèn dầu, nhưng không làm sao có tiền để mua. Bí quá Bà phải đi ăn xin suốt một ngày ròng, khắp kinh đô…mãi đến tối mới được hai đồng. Bà dùng hai đồng đó…. tất tả ra phố mua dầu, đốt một đĩa đèn dâng lên Phật. Bà khấn: “Nếu đời sau con được thành đạo, thì xin ngọn đèn này được sáng suốt đêm mà không tắt”.

Sáng hôm sau, khi một nhà sư lên cung Phật đi tắt đèn thì thấy mọi ngọn đèn của vua đã tắt tự bao giờ, riêng dĩa đèn của bà ăn xin vẫn tỏa sáng ngời ngợi, không làm cách nào tắt được. Nhà sư thấy sự lạ, lên thưa với Đức Phật. Người bảo: “Bà cụ tâm thành tu thân tích đức, về kiếp sau sẽ trở thành Phật Như Lai”.

Vua nghe chuyện, hỏi một vị quan trong triều, tại sao vua cúng đèn nhiều như sao sa vậy mà chẳng được như bà lão chỉ dâng có một ngọn đèn? Quan đáp: “Bởi vì bà của ít lòng nhiều, bà dâng có một dĩa đèn, nhưng tấm lòng bà thành kính thiết tha”.

Câu truyện tình tiết xem ra có hơi khác nhưng nội dung sao mà giống với truyện của bà góa quá. Xem ra đạo nào cũng thế. Chân lý chỉ có một.

Lạy Chúa Giêsu,
khi đến với nhau,
chúng con thường mang những mặt nạ.
Chúng con sợ người khác thấy sự thật về mình.
Chúng con cố giữ uy tín cho bộ mặt
dù đó chỉ là chiếc mặt nạ giả dối.

Khi đến với Chúa,
chúng con cũng thường mang mặt nạ.
Có những hành vi đạo đức bên ngoài
để che giấu cái trống rỗng bên trong.
Có những lời kinh đọc trên môi,
nhưng không có chỗ trong tâm hồn,
và ngược hẳn với cuộc sống thực tế.

Lạy Chúa Giêsu,
chúng con cũng thường ngắm mình trong gương,
tự ru ngủ và đánh lừa mình,
mãn nguyện với cái mặt nạ vừa vặn.

Xin giúp chúng con cởi bỏ mọi thứ mặt nạ,
đã ăn sâu vào da thịt chúng con,
để chúng con thôi đánh lừa nhau,
đánh lừa Chúa và chính mình.
Ước gì chúng con xây dựng bầu khí chân thành,
để chúng con được lớn lên trong bình an.

Kính thưa anh chị em,

Bài Tin Mừng hôm nay chúng ta đã nghe đi nghe lại nhiều lần. Những gì Chúa muốn nói với chúng ta qua bài Tin Mừng hôm nay chúng ta cũng dư biết. Ở đây tôi chỉ xin được đưa ra một vài nhận định để rồi sau đó chúng ta cố rút ra một vài bài học thực tế cho chúng ta.

1. Trước hết là vấn đề được đặt ra với Chúa hôm nay.

Đây là vấn đề vốn được bàn cãi rất nhiều trong giới Rabbit Do thái.

Vào thời của Chúa Giêsu thì Luật được coi là chính thức gồm 613 điều trong đó có 248 điều buộc phải làm và 365 điều cấm không được làm.

Vấn đề mà người luật sĩ đặt ra với Chúa hôm nay không phải là vấn đề con số nhưng là giá trị. Trong số những khoản luật đó, khoản nào là quan trọng nhất?

Để trả lời, Chúa Giêsu đã trưng ra hai điều luật tương đối được nhiều người cho là quan trọng. Điều thứ nhất như sau:

“Hỡi Israel, hãy nghe đây, Giavê Chúa chúng ta là Thiên Chúa độc nhất

Đây là điều mà người Do thái coi là hết sức quan trọng. Chính vì thế mà

+ họ phải được đọc câu này lên mỗi khi khởi sự giờ thờ phượng trong nhà hội,

+ những người Do thái ngoan đạo còn ghép câu này lại trong các thẻ bài bằng da rồi đeo trên trán và trên cườm tay để đọc mỗi khi cầu nguyện

+ Rồi còn được chép lên một tấm bảng đặt vào trong một hộp nhỏ hình trụ gọi là Mezuzah để treo lên trước cửa nhà cũng như trên cửa các phòng trong nhà, để nhắc cho người ta nhớ đến Chúa lúc đi ra cũng như đi vào.

Khi Chúa Giêsu trích dẫn câu này và coi như một điều răn quan trọng, thì ai cũng thấy điều đó là quá đúng rồi, không còn phải bàn cãi chi nữa.

Tiếp đến Chúa trưng ra một câu thứ hai. Câu này được trích từ sách Lêvi 19,18.”Hãy yêu thương người lân cận như chính mình” Trong câu này, Chúa Giêsu có sửa đổi lại một chút. Sách Lêvi xác định rất rõ kẻ lân cận là người Do thái, chứ không bao giờ bao hàm cả những người ngoại bang, là kẻ mà dân Do thái được phép thù ghét. Còn Chúa khi trích dẫn câu này thì Ngài không xác định, cũng không giới hạn đối tượng của nó. Như vậy Ngài đã lấy một điều luật cũ rồi đổ vào đó một ý nghĩa mới.

Và sau đây mới là điều hoàn toàn mới: Chúa ghép chung hai điều răn này lại với nhau. Trước đó chưa hề có một rabbit nào dám làm như vậy. Với việc ghép chung lại như thế, Chúa muốn xác định một cách dứt khoát đạo của Chúa là đạo Tình yêu: Yêu Chúa và yêu người. Và Ngài cũng ngụ ý dạy rằng phương pháp duy nhất để người ta chứng minh được mình yêu mến Thiên Chúa  yêu thương người khác.

Ông kinh sư hôm nay quả là một người rất thông minh. Ông nắm bắt được ý của Chúa một cách rất nhanh. Ông cũng là người biết tôn trọng sự thật, dám công khai nhìn nhận những điều Chúa dạy là đúng là phải trước mặt mọi người.

2. Nội dung câu chuyện đơn sơ như vậy, nhưng nó cho chúng ta thấy cốt lõi đạo của Chúa nằm ở chỗ nào: Nằm trong hai tiếng yêu thương.

Thánh Gioan Tông đồ viết: Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình yêu. (1Ga 1, 7- 8).

Albert Camus một nhà văn lớn của Pháp tuy không có cảm tình gì mấy với Chúa Giêsu nhưng ông cũng đã nói một cách rất chân thành: “Nếu tôi phải viết một cuốn sách về luân lý, thì cuốn sách ấy sẽ dài 100 trang, mà 99 trang để trống, trên trang cuối cùng, tôi sẽ viết: tôi chỉ  biết có một nghĩa vụ, và nghĩa vụ đó là yêu thương.”

Pascal cũng đã từng nói: “Tất cả những gì không dẫn đến yêu thương đều là giả tạo.”

Léon Bloy Bạn sống như thế nào đối với người bạn thân của bạn mỗi ngày: kính trọng hay khinh khi? Nào bạn không biết rằng Đức Kitô ở giữa mọi người, Ngài đảm nhiệm tất cả, gánh chịu tất cả, đau khổ vì tất cả. Bởi thế, xúc phạm đến một người là xúc phạm đến Ngài, hạ nhục một người là hạ nhục chính Ngài, nguyền rủa một người là nguyền rủa chính Ngài, giết hại một người là giết hại chính Ngài.”

Mục tiêu của toàn bộ Kinh thánh cũng chính là lòng bác ái yêu thương.

Trong thư gửi tín hữu Rôma, thánh Phaolô viết: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, trừ phi là tình mến, vì kẻ yêu người là chu toàn lề luật.”

Chúa Giêsu đã đến không phải là để hủy bỏ lề luật và các tiên tri, mà là để kiện toàn. Và Ngài kiện toàn lề luật bằng cách qui mọi giới răn và lệnh truyền vào giới răn: mến Chúa yêu người. Luân lý Kitô-giáo do đó không phải là một hệ thống gồm những điều phải làm và những điều không được làm, mà thiết yếu là con đường dẫn đến sự sống và hạnh phúc thật.

3. Không có tình yêu cuộc sống sẽ không còn ý nghĩa nhưng sống yêu thương điều đó mới đẹp làm sao!

Một vị Giám mục kiểm tra khả năng của một nhóm ứng viên xin lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy. Ngài hỏi:

– Bằng vào dấu chỉ nào người khác nhận ra các con là người Công giáo?

Không có tiếng trả lời. Rõ ràng không có ai ngờ một câu hỏi như thế. Vị Giám mục lập lại câu hỏi và ngài lập lại thêm một lần nữa, lần này ngài làm dấu thánh giá có ý mách nước cho các người dự tòng một câu trả lời đúng. Bất chợt một ứng viên trả lời:

– Đó là “Tình yêu”.

Hãy nhớ lại lời của Chúa Giêsu: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy là chúng con thương yêu nhau”.

Tại đất nước Bangladesh, một trong những nước nghèo nhất thế giới, có một người đàn ông nọ đi bộ về nhà sau một ngày làm việc cực nhọc tại xưởng thợ.

Vì quá mệt mỏi, ông dừng lại ngồi nghỉ dưới bóng cây ven đường và ngủ thiếp đi lúc nào không biết. Khuôn mặt tiều tụy của ông khiến người đi đường tưởng ông là một người hành khất kiệt sức và ngất xỉu. Và người ta chạnh lòng thương, ai đi qua cũng bỏ vào chiếc mũ của ông vài đồng xu.

Khi thức giấc người công nhân già hết sức ngạc nhiên thấy chiếc mũ cũ kỹ của mình đầy những đồng xu. Số tiền đếm được còn nhiều hơn một ngày công thợ của ông. Ông mỉm cười tự nghĩ mình đã là một người hành khất bất đắc dĩ.

Trên đường về nhà, ông nhìn thấy nhiều người ăn mày đui mù tàn tật, ông lặng lẽ chia đều cho họ số tiền vừa mới nhận được. Và hơn ai hết, người công nhân nghèo ấy hiểu được: được nhận lãnh và được chia sẻ cũng đều là một niềm hạnh phúc không gì có thể sánh bằng.

Lạy Chúa,

xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin

để nhận ra Chúa hôm nay và hằng ngày,

nơi khuôn mặt khốn khổ

của tất cả những người bị thử thách,

những kẻ đói không chỉ vì thiếu của ăn,

nhưng vì thiếu Lời Chúa;

những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước,

nhưng còn vì thiếu sự bình an, sự thật,

công bằng và tình thương;

những kẻ vô gia cư,

không chỉ tìm kiếm một mái nhà,

nhưng còn tìm trái tim hiểu biết, yêu thương; những kẻ bệnh hoạn và hấp hối,

không chỉ trong thân xác,

nhưng cả trong tinh thần,

bằng cách thực thi lời hy vọng này:

“ Điều các con làm cho

người bé mọn nhất trong anh em

là các con làm cho chính Ta”.

Mẹ Têrêxa Calcutta

Bài giảng Chúa Nhật 30 Thường Niên, năm B của Cha Gioan Baotixita Đỗ Quốc Vinh

Lễ 9h00 ngày 28/10/2018 tại nhà thờ Tân Định.

 

Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu làm phép lạ chữa cho một người mù.

A. Hoàn cảnh của người mù:

Người mù trong bài Tin Mừng hôm nay có tên là Bartimê: Con của Timê. Như vậy người ta chỉ biết anh là con của Timê chứ người ta không biết tên thật của anh là gì.

Hoàn cảnh nghèo đã khiến anh phải sống bằng nghề ăn xin. Nói một cách văn chương thì ta bảo là khất thực.

Tin Mừng không cho chúng ta biết anh ta bị mù từ bao giờ nhưng xác định thật rõ chỗ anh ta chọn để hành nghề của mình. Đó là vệ đường, chỗ có nhiều người qua lại. Chọn cho mình một chỗ để ngồi khất thực bên vệ đường nơi có nhiều người qua lại là một chọn lựa có một ý đồ rõ rệt: Tỷ lệ những người mà anh ta hy vọng sẽ giúp đỡ anh sẽ cao hơn.

Tin Mừng không cho chúng ta biết làm sao mà anh đã biết Chúa thế nhưng chúng ta có thể phỏng đoán rằng anh ta đã được người ta nói cho anh về nhân vật đặc biệt này.

Hôm đó anh đang ngồi ở vệ đường để khất thực như thường lệ, một công việc được lặp đi lặp lại… nhiều khi đến nhàm chán, thì bỗng dưng như có một cái gì khác thường sắp sửa xẩy ra: những người qua lại có vẻ nhiều hơn. Có lẽ có ai đó đã báo cho anh ta biết về việc Chúa Giêsu sắp đi ngang qua cho nên ngay khi Chúa còn cách xa, anh đã kêu thật lớn tiếng: “Lạy ông Giêsu con Vua Đavid, xin thương xót tôi”.

Nhiều người cùng đi với Chúa Giêsu đã nghe thấy những lời đó. Đáng lý ra thì họ phải thương anh, tìm cách cho anh được tiếp cận với Chúa. Thế nhưng không hiểu lý do gì mà không những họ không giúp đỡ mà ngược lại họ còn ngăn cấm anh nữa.

Bất chấp sự ngăn cấm của mọi người anh càng la to hơn và sự việc này đã đến tai Chúa. Chúa dừng lại và cho gọi anh tới. Thái độ của Chúa khác hẳn với thái độ của nhiều người và lập tức thái độ của những người đi theo Chúa cũng thay đổi theo. Bây giờ không còn phải là những lời ngăn cấm mà là những lời đầy an ủi: “Hãy an tâm đứng dậy. Ngài cho gọi anh”.

Thật là cơ hội ngàn vàng đã tới. Quá vui sướng và tràn trề hy vọng, anh vứt bỏ chiếc áo choàng cũ kỹ anh vẫn mang trên mình để được nhẹ nhàng đến với Chúa.

Bây giờ Chúa đã đối diện với anh nhưng anh chưa nhận ra Người. Người thừa biết anh muốn gì thế nhưng để cho anh cảm thấy anh đang được gần Chúa, Chúa đã sử dụng ngôn ngữ có âm thanh để giúp anh nhận ra Ngài. Ngài hỏi anh:

“Anh muốn Tôi làm gì cho anh?”

Không cần phải suy nghĩ anh thưa ngay: “Lạy Thầy, xin cho con được xem thấy”. Cách anh sử dụng để xưng hô với Chúa “Rabboni: Lạy Thầy” là cách biểu lộ lòng kính trọng.

Và bằng một cử chỉ và thái độ đầy tình yêu thương Chúa nói với anh:

“Được đức tin của anh đã cứu anh”.

B. Bài học

Điều mà anh mù trong bài Tin Mừng hôm nay xin với Chúa cũng chính là điều mà mỗi người chúng ta cần xin: Xin cho con thấy được.

Thấy là một sinh hoạt tâm lý rất quan trọng trong sinh hoạt tri thức của con người. Chúa đã gọi “con mắt là cửa linh hồn”. Chúng ta cũng vẫn thường nói: “Trăm nghe không bằng mắt thấy”.

Mù không phải là không có mắt nhưng cặp mắt không còn khả năng thị giác. Người mù xin với Chúa: Xin cho con thấy được có nghĩa là xin Chúa phục hồi lại khả năng thị giác cho anh: (Restore my sigth). Không có khả năng thị giác người ta sẽ bị thiếu xót rất nhiều trong nhận thức. Thiếu sự nhận thức, con người sẽ dễ bị rơi vào tình trạng sai lầm.

 Nói tới đây tôi nhớ tới một giai thoại có liên hệ đến một nhà bác học nổi tiếng nhất của thế kỷ 20 này. Đó là nhà bác học Albert Einstein.

Một hôm có một sinh viên không hiểu được thuyết “Tương đối” của ông cho nên mạnh miệng xin ông cắt nghĩa cho. Thay vì trả lời theo kiểu một bài học thì ông lại trả lời bằng một câu chuyện. Ông bảo: “Một hôm tôi đi đường, tôi gặp một người mù, tôi hỏi anh ta: Anh có muốn uống một ly sữa không?”

Người mù hỏi lại tôi:

– Sữa là gì?

Tôi cắt nghĩa:

– Sữa là một thứ nước trăng trắng.

Người mù hỏi lại:

– Nước thì tôi biết nhưng trắng là thế nào?

– Trắng là cái mầu giống như lông con ngỗng.

– Lông thì tôi biết rồi nhưng con ngỗng là con như thế nào?

– Ngỗng là một loại chim có cái cổ dài và cong được.

– Cái cổ thì tôi biết nhưng cong là gì?

Nhà bác học Einstein liền nắm cánh tay của người mù dang thẳng ra và bảo:

– Thế này gọi là ngay. Rồi ông bẻ cánh tay lại và bảo: Thế này thì gọi là cong.

Vừa nói đến đây thì người mù vui sướng như đã khám phá ra được một chân lý bí mật… Anh ta nói với nhà bác học:

– Bây giờ thì tôi hiểu rồi… Sữa là cái cánh tay cong lại giống cái cổ của con ngỗng.

Chúng ta có mắt. Mắt chúng ta sáng. Từ chỗ chúng ta thấy đến chỗ nhận biết, con đường chẳng có bao xa. Nhưng vấn đề là trong cuộc sống chúng ta có thực sự thấy được tất cả hay không?

“Lạy Chúa xin cho con thấy được”.

Lời cầu xin xem ra có vẻ rất đơn sơ, nhưng xét cho thấu tình đạt lý thì chẳng phải là một điều dễ. Tại sao? Tại vì tầm nhìn của cặp mắt chúng ta quá bị hạn chế.

Một tác giả Ấn Độ có kể câu truyện ngụ ngôn được Thu Giang Nguyễn Duy Cần ghi lại trong tác Phẩm “Cái cười của thánh nhân” như sau :

Có một người kia sinh ra đã bị mù. Sống trong một căn phòng nhưng bởi không thấy gì cả, nên anh phủ nhận tất cả những gì người chung quanh quả quyết là có: “Tôi không tin vì tôi không thấy'”

Một vị lương y đem lòng thương hại đi tìm một thứ linh dược trên dẫy Hy-mã-lạp-sơn về chữa anh ta lành bệnh. Anh ta sung sướng tự phụ bảo:

– Giờ đây tôi thấy được tất cả sự thật chung quanh tôi rồi.

Nhưng có kẻ nói với anh:

– Bạn ơi, bạn chỉ thấy được những vật chung quanh bạn trong căn phòng này. Như thế thì có là bao. Ngoài kia người ta còn thấy được mặt trời, mặt trăng, các tinh tú, còn biết bao vẻ đẹp lộng lẫy và màu sắc mà bạn chưa thấy.

Nhưng anh ta không tin.

– Làm gì có được những cái đó: tôi chưa thấy những cái đó, những gì có thể thấy được tôi đã thấy tất cả rồi.

Một y sĩ khác liền leo lên tận núi cao, được Sơn Thần chỉ cho một thứ linh dược khác đem về giúp cho anh ta có được cặp mắt nhìn xa hơn những vật chung quanh căn phòng. Bấy giờ thì anh ta thấy được mặt trời, mặt trăng, các tinh tú. Mừng quá! Rồi lòng tự phụ dâng lên, anh thốt lên:

– Trước đây tôi không thấy, nhưng bây giờ tôi thấy, tôi tin. Như thế bây giờ chẳng còn cái gì mà tôi không thấy không biết, đâu còn ai hơn tôi được.

Nhưng có một hiền giả có cặp mắt thần nói với ánh ta:

– Cậu ơi. Cậu vừa hết mù nhưng cậu vẫn còn chưa biết gì cả. Tại sao lại quá tự phụ như thế. Cũng như khi cậu ở trong căn phòng. Tầm con mắt cậu không vượt khỏi bốn bức tường, cậu không tin có vật gì ngoài căn phòng của cậu. Giờ đây tầm mắt cậu vượt khỏi bốn bức tường và thấy được nhiều vật xa hơn. Nhưng với chừng mực của tầm mắt và lỗ tai, cậu làm gì biết được những vật ngoài ngàn dặm mà tai mắt cậu không làm sao nghe được, thấy được. Cậu có thấy được những nguyên nhân cấu tạo ra cậu khi cậu còn nằm trong bào thai của mẹ cậu không? Ngoài cái vũ trụ nhỏ bé mà cậu đang sống, còn biết bao nhiêu vũ trụ khác vô cùng to lớn và nhiều không thể kể như cát sông Hằng. Tại sao cậu dám tự phụ rằng tôi đã thấy cả, tôi biết cả? Cậu vẫn còn là một anh mù, cậu vẫn còn lấy tối làm sáng và lấy sáng làm tối.

Lạy Chúa xin cho chúng con thấy được. Mãi mãi chúng ta phải xin như thế.

Thấy những gì? Thấy những điều Chúa muốn cho chúng ta thấy để chúng ta được biết bước đi dưới sự dẫn dắt của Chúa, thấy được tình thương của Người để chúng ta cảm nghiệm được niềm vui khi được làm con cái của Người. Hạnh phúc hay bất hạnh ở trong cuộc sống tùy thuộc rất nhiều vào sự việc này. Thấy được tình thương của Chúa chúng ta sẽ có hạnh phúc. Không thấy được tình thương của Chúa chúng ta sẽ bất hạnh. Amen.