Tin mừng chúng ta vừa nghe thuật lại cho chúng ta về việc Gioan Tẩy Giả bị chất vấn.

  1. Phái Đoàn Đến Chất Vấn Gioan Tẩy Giả Hôm Nay Gồm Hai Nhóm.

Nhóm thứ nhất có các thầy tư tế và người Lêvi. Họ chú ý đến Gioan Tẩy Giả là điều tự nhiên, vì ông là con của Giacaria, mà Giacaria là thầy tư tế (Lv l,5).

Trong Do Thái giáo, chức vụ tư tế là do cha truyền con nối. Người nào không phải là hậu duệ của Aaron, thì không có gì làm cho người ấy trở thành thầy tư tế được.

Còn nếu người ấy là con cháu của Aaron thì đương nhiên sẽ trở thành tư tế. Do đó dưới con mắt của các nhà cầm quyền, Gioan Tẩy Giả quả là một thầy tư tế, và tự nhiên các thầy tư tế phải tìm hiểu xem tại sao lại có một thầy tư tế hành động bất thường như vậy.

* Nhóm thứ hai gồm những người đại diện cho giới Biệt phái. Rất có thể là sau lưng họ còn có Toà án Tối Cao.

Một trong những nhiệm vụ của Tòa án Tối Cao là phải đối phó với những ai bị nghi ngờ là tiên tri giả. Gioan Tẩy Giả là một nhà truyền đạo được dân chúng mến chuộng và theo rất đông. Có lẽ Tòa án Tối cao thấy họ có trách nhiệm phải tra xét xem ông có phải là tiên tri thật hay không. Gioan Tẩy Giả đã không theo đúng cung cách bình thường của một thầy tư tế và ông cũng không theo đúng phong thái của một nhà giảng đạo. Chính vì thế mà các nhà chức trách tôn giáo thời đó bó buộc phải nhìn ông với cặp mắt nghi kỵ. Đó cũng là một điều hết sức tự nhiên.

1. Họ hỏi ông có phải là Đấng Messia không ? Tại sao họ lại hỏi ông như thế ? Thưa vì dân Do Thái đã trông chờ Đấng Messia từ rất lâu. Thậm chí cho đến lúc đó người ta cũng vẫn còn đang trông chờ. Bất cứ một dân tộc nào đang bị đô hộ cũng trông mong được giải phóng như thế. Dân Do Thái tin rằng họ là tuyển dân của Chúa Giavê nên họ không nghi ngờ gì về việc chẳng chóng thì chày Thiên Chúa sẽ can thiệp để cứu dân Ngài. Họ trông chờ một Đấng Messia sẽ đem hòa bình đến cho cả thế giới. Cho nên khi họ hỏi Gioan Tẩy Giả xem ông có phải là một Đấng Messia hay không thì đó là một điều rất hợp lý.

Gioan bác bỏ hoàn toàn việc tung hô đó: “Tôi không phải là Đấng Messia.”

2. Họ hỏi ông có phải là Êlia không.

Dân Do Thái tin rằng trước khi Đấng Messia giáng lâm, Êlia sẽ trở lại để loan báo trước và chuẩn bị cho thế gian tiếp rước Ngài. Đặc biệt Êlia sẽ đến để dàn xếp mọi bất hoà. Ngài sẽ phân định những gì và những ai là thanh sạch hay không thanh sạch. Ngài sẽ phân chia đâu là người Do Thái, đâu là người ngoại bang. Ngài sẽ đem lại đoàn kết, hoà thuận cho các gia đình từng xa lạ với nhau.

Họ tin tưởng điều đó mạnh đến nỗi luật xưa của người Do thái nói rằng nếu có gì về tiền bạc hay của cải còn đang tranh chấp, hoặc bất cứ tài sản nào còn bị xem là vô chủ thì đều phải đợi “cho tới khi nào Êlia đến”. Niềm tin rằng Êlia phải đến trước Đấng Messia bắt nguồn từ Malakia 4,5. Người ta còn tin rằng chính Êlia sẽ xức dầu cho Đấng Messia làm vua cũng như tất cả các vua đã được xức dầu.

Gioan Tẩy Giả cũng phủ nhận tất cả những vinh dự đó.

3. Họ hỏi ông có phải là nhà tiên tri được hứa ban và mọi người trông đợi không.

Căn cứ vào lời bảo đảm của lãnh tụ Môsê với dân trong sách Thứ Luật 18,15: “Từ giữa anh em, trong số các anh em của anh (em), Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để giúp anh (em); anh em hãy nghe vị ấy”.

Đó là lời hứa mà dân Do Thái sẽ không bao giờ quên. Họ chờ đợi sự xuất hiện của một nhân vật sẽ là tiên tri vĩ đại nhất và trông mong nhân vật ấy như là nhà “tiên tri lý tưởng”. Có nhiều người còn nghĩ rằng cả Isaia và nhất là Giêrêmia cũng sẽ trở lại lúc Đấng Messia đến.

Nhưng lại một lần nữa Gioan Tẩy Giả không thừa nhận vinh quang là của mình.

Vậy họ hỏi ông là ai ?

Ông nói mình chỉ là tiếng nói khuyến giục mọi người dọn đường cho Nhà Vua. Ý ông muốn nhắc lại một lời trong Isaia 40,3 mà tất cả các Tin Mừng đều trích dẫn câu này để ám chỉ Gioan Tẩy Giả. Ý niệm ẩn tàng trong câu ấy là: “Đường đi bên Đông phương, mặt đường gồ ghề và thường chỉ là những lối mòn. Khi một vị vua sắp đến thăm một tỉnh, hoặc khi nhà chinh phục sắp kéo quân đi qua lãnh thổ của mình thì đường xá phải được san bằng, dọn thẳng thu xếp lại cho có trật tự.” Điều mà Gioan Tẩy Giả muốn nói với mọi người là: “Ta chẳng là ai cả, ta chỉ là tiếng kêu, kêu gọi các người hãy chuẩn bị sẵn sàng đợi nhà vua đến”. Ông muốn nhắc lại rằng: “Hãy tự sửa soạn đi! Nhà vua đã lên đường rồi đó”. Ông muốn mọi người hãy quên ông đi để chỉ thấy Nhà Vua mà thôi.

2. Bài Học

Tới đây chúng ta có thể dừng lại. Thử hỏi chúng ta có thể tìm được bài học nào cho chúng ta trong hoàn cảnh hôm nay hay không ? Có rất nhiều bài học nhưng tôi xin được nói tới sự trung thực nơi con người của Gioan.

Trước hết là sự trung thực trong lời nói: Rất trung thực khi nói về chính mình, không dám nhận những vinh quang mà người đời gán cho.

Thứ đến là trung thực với lòng mình. Chính vì muốn trung thực với lòng mình nên ngài đã vui lòng chấp nhận một cuộc sống khổ hạnh, không phô trương, không giả dối.

Vá cuối cùng là trung thực trong những phán đoán về người khác. Ngài đã không sợ khi phải thẳng thắn khuyên vua Hêrôđê không được phép lấy vợ của anh mình. Vì sự sự trung thực này mà Ngài đã phải trả giá bằng cái chết chẳng toàn thây. Nhưng sự trung thực ấy đã làm sáng lên cuộc đời chứng nhân của mình.

Đức Cha Tiamer Toth trong một cuốn sách viết cho giới trẻ có tựa đề là “Chí khí người thanh niên” có nói đến một tấm gương mà ngài ước mong mọi người hãy nhìn vào đó mà bắt chước. Truyện như thế này: Regulus là một tướng của La Mã bị quân Carthage bắt làm tù binh. Sau một thời gian mệt mỏi vì chiến tranh, người Carthage muốn cầu hòa với người La Mã. Người mà thành Carthage chọn để đứng đầu phái đoàn lại chính tướng Regulus. Trước khi lên đường dân Carthage bắt Regulus phải thề: nếu sứ mạng cầu hòa của họ bị thất bại thì Regulus phải trở về nhà tù trở lại. Regulus đã thề.

Chúng ta có thể tưởng tượng được sự xúc động của tướng Regulus khi về tới La Mã, thành phố quê hương yêu quý của ông như thế nào không! Rất vui mừng nhưng cũng đầy khó khăn. Regulus sẽ phải hành động làm sao đây ?

Với tất cả tài lợi khẩu, ông yêu cầu thượng nghị viện cứ tiếp tục chiến tranh; nghị viện yêu cầu ông ở lại La Mã, viện cớ rằng: lời thề vì cưỡng bách không có giá trị. Nhưng ông trả lời:

“Các ngài có muốn để tôi mất danh dự không ? Tôi thừa biết rằng những khổ hình và giờ chết đang đợi tôi khi tôi trở lại. Nhưng những cái ấy không thấm thía vào đâu khi so sánh với sự ô nhục của một hành động bất lương với sự tổn thương của tâm hồn do một lời nói dối. Đành rằng tôi sẽ lại là tù binh của dân Cathage nhưng ít ra tôi vẫn giữ được chí khí của tôi mà dân La Mã sẵn có với sự trong sạch của nó. Tôi đã thề hứa sẽ trở về với họ thì tôi giữ lời hứa cho đến cùng. Vì thế các ngài hãy phó mặc mạng sống tôi cho các Thần Thánh”.

Và Regulus đã trở về Cathage, ở đấy tướng công đã chết giữa những cực hình khủng khiếp.

Đó là chí khí và lòng quả cảm của một người công dân La Mã!

Gioan cũng đã sống như vậy và Chúa Giêsu Chúa của chúng ta chắc cũng muốn cho chúng ta sống như thế. Amen.

Kính thưa anh chị em

Hằng năm cứ mỗi lần Mùa Vọng trở về là chúng ta có dịp gặp lại một trong những khuôn mặt rất đặc biệt của Tin Mừng. Tôi muốn nói đến Gioan Tẩy Giả.

I. Hồi ấy Gioan xuất hiện trong hoang địa miền Giuđêa. Ông xuất hiện với một cung cách hơi đặc biệt. Tin Mừng nói về ông như sau: “Ông mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da thú, cũng chẳng muốn khác người, nhưng ông làm thế là vì ông ý thức về sứ mệnh cao cả của mình. Ông đã từ bỏ hầu như hết mọi thứ mà người đời thường tìm kiếm.

a/ Ăn mặc: Ông ăn mặc rất đơn sơ dân dã.

Làm người ai mà chẳng muốn ăn ngon mặc đẹp ? Gioan có đủ và có thể nói còn có dư điều kiện để làm việc đó. Chúng ta nhớ ông là người con duy nhất của một gia đình giàu có. Cha mẹ ông là người có địa vị, có thế giá trong xã hội. Vì cha của Gioan Thuộc giai cấp tư tế. Thế nhưng Gioan đã hy sinh.

Của ăn thức uống của ông không phải là những thứ cao lương mỹ vị. Tin Mừng cho chúng ta biết ông ăn châu chấu và thêm vào đó có một chút mật ong trong rừng. Áo mặc của ông cũng không phải là thứ đắt tiền. Chúng được làm bằng lông da thú, một thứ áo mặc thường dùng của những người mục tử nghèo khó. Đôi dép ông mang ở dưới chân cũng thế. Tất cả đều bằng da thú – vừa sẵn có vừa rẻ tiền.

b/ Về cuộc sống thường ngày của ông thì thánh Luca bảo: ngay từ thuở còn niên thiếu ông đã chọn chốn hoang vu làm nơi cư ngụ cho mình. Ông tự nguyện sống một cuộc sống khắc khổ khó khăn như thế để tự rèn luyện mình nên một con người sắt đá hầu có thể đối mặt, đương đầu với những thách đố do sứ mệnh của ông đòi buộc sau này.

Claude Tassin nói về ông như thế này: “Ông không lập dị nhưng ông coi thường những tiện nghi vật chất. Ông muốn sống hoàn toàn tự do không để cho mình bị ràng buộc vào bất cứ một thứ gì mà người trần thế coi trọng”. Ta có thể tóm lại trong hai tiếng: Ông muốn sống siêu thoát để ông được tự do hành động theo sứ mạng của ông. Đó là sứ mạng dọn đường cho Chúa

Một khách du khách nhân lúc mệt mỏi trưa vắng đã ghé vào túp lều tranh của vị thừa sai trong một làng xa xôi hẻo lánh tại Ấn Độ. Bước vào lều, người khách chỉ thấy có cái chõng tre trải chiếu sơ sài, cái bàn cái ghế cũng bằng tre với đống sách trong góc nhà.

Anh không hiểu sao một linh mục thừa sai mà sống đơn sơ nghèo khó đến thế, có thể nói được khắc khổ nữa là khác. Anh ngạc nhiên hỏi linh mục:

– Thưa Cha, đồ đạc của Cha chỉ có bấy nhiêu đó thôi sao ? Vị thừa sai mỉm cười đáp:

– Vậy chớ đồ đạc anh bao nhiêu ? Chỉ có chiếc ba lô nhỏ đó chớ gì.

Anh thành thật đáp:

– Nhưng con chỉ là khách du lịch. Con đi đường vài ngày, đâu cần mang theo đồ đạc nhiều. Còn cha ở luôn đây.

Vị thừa sai hóm hỉnh nói:

– Anh là khách đi đường. Tôi cũng thế. Tôi chỉ là khách dọn đường

Phải chăng vị thừa sai và thánh Gioan Tiền hô muốn dạy chúng ta: muôn dọn sẵn đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đến cứu chúng ta, chúng ta phải hy sinh từ bỏ tất cả những gì là chướng ngại vật.

II. Bây giờ chúng ta hãy nghe lại nội dung những lời ông tuyên bố trong bài Tin Mừng hôm nay: Hãy dọn đường cho Chúa.(Mc 1,3)

Vâng “Hãy dọn đường”. Đường đi có một giá trị rất quan trọng trong cuộc sống.

Chắc anh chị em đã từng được đi trên những con đường cao tốc mới có ở Việt nam gần đây. Những ai đã từng được đi trên con đường cao tốc, chúng ta đã cảm nhận được sự tiện lợi và thoải mái như thế nào.

Vâng! Con đường vật lý mà đã cần như thế thì con đường thiêng liêng còn cần như thế nào. Nếu con đường vật chất hư hỏng thì tai nạn sẽ rất dễ xảy ra. Cũng vậy nếu con đường thiêng liêng không tốt đẹp thì sự tương giao gặp gỡ giữa người với người hay giữa người với Thiên Chúa sẽ bị bế tắc.

Như vậy, ta cần có những con đường thiêng liêng thật tốt để đón Chúa đến.

Thật ra Chúa đã đến từ lâu, từ hơn hai mươi thế kỷ nay nhưng nhiều người vẫn chưa gặp được Chúa. Tại sao thế ?

Thưa vì tâm hồn con người còn có những đỉnh đồi kiêu ngạo luôn muốn nâng mình lên, luôn khoe khoang, không bao giờ chịu thua kém người khác.

Vì Tâm hồn con người còn có những ngọn núi cao tự ái, không bao giờ chịu nhận lỗi, không bao giờ chịu tha thứ.

Vì tâm hồn con người còn có những hố sâu tham lam muốn chiếm đoạt tất cả, muốn thu vén tất cả vào túi riêng.

Vì tâm hồn con người còn có những hố sâu chia rẽ, thích gây ra bất hoà, luôn giận hờn, luôn ganh ghét, luôn nghi kỵ.

Vì tâm con người còn có những hố sâu đam mê, miệt mài đuổi theo danh, lợi, thú.

Vì tâm con người còn có những hố sâu dục vọng nặng nề thú tính.

Vì tâm con người còn có những khúc quanh co của sự dối trá, không thành thật với Chúa, không thành thật với người khác và không thành thật với cả chính mình.

Vì tâm con người còn có những khúc quanh co của sự trốn tránh bổn phận, của sự giả hình, của sự thiếu duyệt xét lương tâm.

Vì tâm con người còn có những lượn sóng gồ ghề của những lời nói độc ác, tàn nhẫn.

Vì tâm con người còn gồ ghề vì thói lười biếng không chịu cố gắng thăng tiến bản thân, ưa phê bình chỉ trích thiếu tính cách xây dựng.

Vâng! Tất cả những ngọn đồi, những vực sâu, những khúc quanh co, những lượn sóng gồ ghề ấy đang ngăn chặn Chúa đến với ta. Chính vì thế mà hôm nay, thánh Gioan Tẩy Giả mời gọi ta hãy sửa con đường thiêng liêng cho tốt đẹp để đón Chúa Giêsu đến.

Đổi mới một con đường vật chất thì dễ, nhưng đổi mới tâm hồn không dễ chút nào. Nhiều khi phải thật can đảm người ta mới có thể làm được

Charles de Foucauld là một sĩ quan kỵ mã, vì mê cô đào Mimi, phạm quân kỷ, nên đã bị loại khỏi gia đình quân đội. Từ đó Charles de Foucauld đã sống một đời tội lỗi, xa bỏ Chúa. Vì mất ơn Chúa, đức tin trở nên yếu ớt, Charles de Foucauld đã có những tư tưởng chống đạo. Một lần kia, đến gặp cha Huvelin, Charles de Foucauld muốn bày tỏ những tư tưởng nghịch đạo, và xin giải đáp những thắc mắc. Cha Huvelin biết Charles de Foucauld là người đạo dòng, sống xa Chúa, kém đức tin; và như được ơn Chúa soi sáng, cha nói với Charles de Foucauld:

– Anh cứ dọn mình xưng tội đi đã, rồi tôi sẽ giải đáp mọi thắc mắc cho anh cách thỏa đáng.

Cha Huvelin đã giúp cho Charles de Foucauld dọn mình xưng tội cách sốt sắng. Sau khi lãnh phép giải tội, ơn Chúa đổ tràn xuống tâm hồn anh, khiến đức tin anh trở nên mạnh mẽ, đến nỗi khi cha Huvelin hỏi:

– Bây giờ có thắc mắc gì anh hãy nói.

Charles de Foucauld trả lời:

– Thưa cha, sau khi chịu phép giải tội, con thấy các thắc mắc và tư tưởng chống đạo đều tan biến hết.

Rồi từ lúc đó, Charles de Foucauld quyết chí bỏ thế gian, đi tu làm linh mục, lập tu hội Tiểu đệ và Tiểu muội, chuyên lo việc thờ phượng Chúa và thực thi đức bác ái giúp đỡ tha nhân.

Trong chúng ta cũng thế, tội nhẹ là quả đồi, tội trọng là quả núi, đã ngăn cản con đường không cho Chúa đến ban ơn cho ta. Vậy trong Mùa Vọng này, Giáo hội khuyên chúng ta hãy dọn mình xưng tội, để bạt đồi núi trong linh hồn, để dọn cho Chúa một con đường nhẵn nhụi và phẳng phiu, để Chúa đến ban ơn cho chúng ta trong ngày lễ Giáng sinh của Chúa như Chúa đã ban ơn cho cha Charles de Foucauld sau khi chịu phép giải tội.

Hôm nay bắt đầu đổi mùa: Mùa Vọng

A. Vọng là gì ?

Người ta vẫn thường nói: Hy vọng, thất vọng.

Mong chờ một Tin Vui sẽ có: Hy vọng.

Mong chờ một tin vui nhưng không bao giờ có: Thất vọng.

Vua Fédéric nước Đức xưa tính mỗi năm chim sẻ sẽ ăn hết 2.000.000 thùng lúa. Ông cho mở chiến dịch bài trừ chim sẻ – Toàn dân hưởng ứng: mỗi đầu chim sẻ là một phần thưởng. Ông hy vọng một vụ mùa bội thu. Nhưng rồi ông thất vọng vì lúc lúa mới trổ bông thì từng đoàn từng đoàn sâu bọ khổng lồ bò ra ăn sạch những cây lúa mới trổ bông trên quê hương đất nước của ông. Ông hối hận: “Giá những con chim sẻ kia không bị tiêu diệt thì chúng sẽ giúp ông thanh toán những đàn sâu bọ này… Nhưng bây giờ thì đã quá muộn rồi. Thế là hy vọng biến thành thất vọng.

Ngược lại trong Tin Mừng… Người mù ăn xin ở vệ đường… Khi nghe tin Chúa đi qua… Anh mong gặp được Chúa với hy vọng Chúa sẽ chữa cho anh. Anh đã gặp được Chúa và Ngài đã cho anh được sáng mắt. Hy vọng của anh đã biến thành sự thật…

B. Khi lập ra Mùa Vọng Giáo Hội muốn nói với chúng ta điều gì ?

Giáo Hội muốn nói tới một tin vui: Tin Vui ấy chính Chúa cũng đã nói trước. Đó là ngày Chúa trở lại trong vinh quang của Ngài.

Vọng là mong chờ cái Ngày Vinh quang đó của Chúa.

Thánh Cyrillô thành Giêrusalem cắt nghĩa vấn đề này rất hay: “Những gì liên hệ tới Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta thường diễn ra hai lần. Hai lần Người sinh ra: một lần bởi Thiên Chúa từ trước muôn đời; một lần bởi đức Trinh nữ vào lúc thời gian viên mãn.

Hai lần Người xuống thế: lần thứ nhất thì lặng lẽ như hạt mưa rơi xuống lông chiên; Còn lần thứ hai, chắc chắn sẽ xảy ra trong tương lai thì oai hùng rực rỡ.

Lần giáng lâm thứ nhất, Người được bọc tã đặt nằm trong máng cỏ; lần thứ hai người khoác cẩm bào là muôn ánh hào quang.

Lần thứ nhất. Người vác Thập Giá chẳng nề nhuốc hổ; còn lần thứ hai, Người chiến thắng khải hoàn có thiên thần hộ tống.

Vậy chúng ta đừng dừng lại ở lần giáng lâm thứ nhất mà phải đợi chờ lần giáng lâm thứ hai. Lần thứ nhất chúng ta đã tung hô Người: Chúc tụng đấng ngự đến nhân danh Chúa thì chúng ta sẽ lập lại y như thế trong lần thứ hai. Lúc đó chúng ta sẽ cùng với các thiên thần ra nghênh đón Chúa mà thờ lạy và tung hô: Chúc tụng đấng ngự đến nhân danh đức Chúa”

C. Như vậy Mùa Vọng là mùa giúp ta nhìn về tương lai… Tương lai huy hoàng của Chúa Giêsu Chúa chúng ta.

Một thắc mắc có thể đặt ra ở đây ? Mùa Vọng có ăn nhằm gì với việc mừng lễ Giáng Sinh hay không ? Và việc mừng lễ Giáng sinh sẽ đem lại những ích lợi cụ thể nào ?

Vâng! Mùa Vọng nào cũng được kết thúc bằng lễ Giáng Sinh. Giáo Hội đặt ra Mùa Vọng trước lễ Giáng Sinh không đơn thuần chỉ là nhắc lại một việc của quá khứ. Vâng! Không phải đơn giản như vậy. Không phải nhắc lại một quá khứ như một kỷ niệm nhưng là như một biến cố, biến cố cống hiến cho chúng ta một kinh nghiệm sống và một hướng đi giúp chúng ta chuẩn bị ngày Chúa Kitô lại đến để hoàn tất chương trình cứu độ của Ngài một cách tốt đẹp hơn. Như vậy mỗi lần chúng ta mừng lễ Giáng sinh là mỗi lần chúng ta có kinh nghiệm thêm về việc gặp Chúa trong cuộc sống hôm nay để tiến dần đến việc chiếm hữu được Chúa trong vinh quang của Người. Và đó là ý nghĩa chính của Mùa Vọng

D. Vậy thì chúng ta phải sống tâm tình Mùa Vọng như thế nào ?

Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa đã chỉ dẫn cho chúng ta. Chúa bảo chúng ta: “Hãy tỉnh thức”(Mc 13,37). Chỉ trong một đoạn văn ngắn ngủi Chúa nhắc đi nhắc lại điều này tới 4 lần.

Tỉnh thức không có nghĩa là không ngủ, vì đó là điều bất khả về phương diện thể lý. Để hiểu đúng ý mà Chúa Giêsu muốn nói, chúng ta có thể nghĩ đến một lời mời gọi tỉnh thức đặc biệt mà chính Chúa đưa ra cho các môn đệ thân tín của Người trong một hoàn cảnh khác. Trong vườn Ghếtsêmani, vào đêm Chúa Giêsu bị bắt, Người nói với ba đồ đệ thân tín: “Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện” (14,38). Trong vườn Ghếtsêmani, lời mời gọi này phải được hiểu trước hết theo nghĩa đen của các từ ngữ. Nhưng điều đó không ngăn cản chúng ta giải thích rằng sự tỉnh thức sâu xa ra, chính là một thái độ sống hoàn toàn quy hướng một cách rõ ràng về Thiên Chúa, tức là một thái độ cầu nguyện ở mức độ thâm sâu và thực chất. Áp dụng cách hiểu đó vào lời mời gọi ở đây chúng ta có thể hiểu: sự tỉnh thức mà Chúa Giêsu muốn nói đến chính yếu là một cách sống hoàn toàn trong ý thức liên tục quy hướng về ông chủ và nhiệm vụ mà ông trao phó. Người đầy tớ tỉnh thức là người luôn luôn đặt mình trong ý thức về tư cách của mình là người phục vụ ông chủ và thi hành một cách tốt nhất nhiệm vụ mà ông trao phó cho mình. Khi ông chủ đi xa, người đầy tớ dễ bị cám dỗ quên ông và quên nhiệm vụ ông trao phó, từ đó hành xử như thể mình là ông chủ, theo hướng riêng của mình từng lúc. Người đầy tớ tỉnh thực sẽ luôn luôn gắn kết cuộc sống mình với ông chủ và luôn luôn sẵn sàng trả lời ông về việc thực hiện nhiệm vụ mà ông đã trao phó cho mình. Khi Chúa Giêsu nói các môn đệ của Người phải tỉnh thức như các đầy tớ trong dụ ngôn phải tỉnh thức, là Người muốn nhấn mạnh đến thái độ sống đó, chứ không phải là một sự canh thức về phương diện thể lý đơn giản.

Kết thúc diễn từ cánh chung, Chúa Giêsu khẳng định: “Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là: phải tỉnh thức!” (c.37). Chúa Giêsu không ngần ngại nhắc đến tư cách và vị trí đặc biệt của bốn đồ đệ thân tín đang nghe Người tâm sự đây. Họ là những đồ đệ đầu tiên mà Người đã kêu gọi để biến đổi thành những kẻ lưới người (x. 1,16-20). Nhưng lời kêu gọi tỉnh thức và sẵn sàng không chỉ dành riêng cho họ mà thôi. Chúa nói rõ ý của Người là kêu gọi tất cả mọi người đều phải tỉnh thức như vậy, không trừ một ai. Nói cách khác, ở bên dưới lời khẳng định này là một lệnh truyền được ngỏ với các môn đệ thân tín, sai họ đi thông truyền cho tất cả mọi người điều mà Chúa Giêsu đang nói với họ đây, để mọi người đều tỉnh thức đón chờ Ngài đến hoàn thành công trình cứu độ của Ngài.

Ngày kia có một khách du lịch dừng chân trước một biệt thự rất sang trọng cạnh một hồ nước trong xanh ở Thụy Sĩ, nhưng không phải trên con đường mà khách vãng cảnh thường qua lại. Khách du lịch gõ vào hàng rào sắt, tức thì một cụ già coi vườn ra mở cái cổng nặng nề vẫn đóng chặt. Sung sướng vì được thấy một người khách, cụ dẫn ông tham quan cả một khu vườn rộng lớn. Người khách hỏi:

– Cụ ở đây bao lâu rồi ?

– Thưa ông, tôi ở đây đã được hai mươi bốn năm.

– Chủ của cụ ít khi ngủ lại biệt thự này, có phải không ? Cụ đã trông thấy ông ta mấy lần rồi ?

– Tôi đã trông thấy ông ấy bốn lần. Lần cuối cùng cách đây đã mười hai năm.

– Ông có viết thư cho cụ chăng ?

– Chẳng bao giờ.

– Thế ai trả công cho cụ ?

– Người quản gia của ông.

– Thế người quản gia này có năng đến đây không ?

– Tôi chưa hề thấy mặt ông. Ông ấy luôn liên lạc với tôi qua thư từ.

– Thế thì ai hưởng sự đẹp đẽ này ?

– Trừ vợ tôi và tôi thì không ai hưởng hết.

– Cụ à, tôi có cảm giác như là cụ coi sóc vườn này, sân hoa này, bãi cỏ này cách chu đáo, như là ngày mai ông chủ cụ sẽ đến vậy!.

– Ồ! Thưa ông, tôi phải làm như chủ tôi phải đến ngày hôm nay, vâng thưa ông, ngày hôm nay.

Vâng chúng ta hãy sống như là chủ – Chúa của chúng ta đến với chúng ta ngay trong ngày hôm nay. Nếu chúng ta tỉnh thức như thế thì chắc chắn chúng ta sẽ không phải ngỡ ngàng và phần thưởng cho một người sẽ nằm trong tay chúng ta.

Bài Tin mừng chúng ta vừa nghe là một trong những câu truyện sống động nhất của Chúa Giêsu và bài học Chúa dạy cũng hết sức rõ ràng. Bài học đó là Thiên Chúa sẽ phán xét chúng ta theo những việc chúng ta làm cho nhau trong cuộc sống hằng ngày. Sự phán này không tùy thuộc vào kiến thức chúng ta có, sự may mắn hay tiếng tăm chúng ta đã đạt được, nhưng tùy vào sự giúp đỡ chúng ta làm cho nhau.

Như vậy rõ ràng qua câu truyện này Chúa muốn chúng ta phải giúp đỡ người nhau.

1. Ta phải giúp đỡ nhau từ những nhu cầu thật đơn giản trong cuộc sống của mọi người như kẻ đói cần được cho ăn, kể khát cần được cho uống, những người khách lạ cần được tiếp đón, những kẻ bị cầm tù cần phải được viếng thăm.

Ngày nay Mẹ Têrêsa còn cho biết thêm: có nhiều người đói thức ăn, nhưng cũng có nhiều người đói những thứ khác như đói được biết đến, đói được yêu thương, đói được tôn trọng …

Trần truồng không phải chỉ là không quần áo, mà còn là không nhân phẩm, không trong sạch, không tự trọng.

Vô gia cư không phải chỉ là không có nhà, mà còn là bị ruồng bỏ, bị coi là vô dụng.

Chứng bệnh nặng nhất của thế giới hôm nay là cảm giác bị bỏ rơi không ai để ý đến, không ai quan tâm chăm sóc….

Sự ác lớn nhất của thế giới hôm nay là thiếu tình yêu là dửng dưng với người bên cạnh.

Đó là những việc này chúng ta có thể gặp hàng ngày. Tất cả cần phải được quan tâm.

2. Phải giúp đỡ nhưng giúp đỡ với tinh thần nào ? Thưa là tinh thần không tính toán.

Tất cả những người đã giúp đỡ người khác trong câu truyện hôm nay đều không ai nghĩ rằng họ đã giúp đỡ Chúa Giêsu và tích trữ công đức đời đời cho mình. Họ giúp vì không thể không giúp, đó là bản chất tự nhiên không tính toán, phát xuất từ lòng yêu thương thật.

Oscar Wilde đã viết một câu chuyện rất đẹp, tựa đề là The Happy Prince, như sau:

Một ông Hoàng kia sống một cuộc đời rất hạnh phúc .

Vì thế khi ông chết, người ta đã làm một bức tượng của ông đặt trên một cái bệ cao giữa thành phố và đặt tên là ông Hoàng Hạnh Phúc, như là biểu tượng may mắn sẽ mang hạnh phúc đến cho mọi người dân trong thành.

Một buổi nhiều đầu mùa đông, một con chim én đến đậu dưới chân pho tượng. Bỗng một giọt nước rơi xuống đầu nó. Nó nhìn lên và ngạc nhiên vì đó là giọt nước mắt của ông Hoàng. Ông đang khóc.

– Tại sao ông khóc ? Ông là ông Hoàng Hạnh Phúc kia mà!.

– Từ khi đứng trên cao nhìn thấy cảnh sống của dân thành, ta đau lòng quá và không còn hạnh phúc nữa. Ta muốn đi giúp họ lắm, nhưng đôi chân ta bị chôn chặt ở cái bệ này nên không thể nào đi được. Bạn có thể giúp ta không ?

– Không được, tôi phải bay đi Ai Cập.

– Hãy làm ơn giúp ta đêm nay đi.

– Thôi được! Bây giờ ông muốn tôi làm gì ?

– Trong một túp lều đàng kia có một người mẹ đang khóc vì con bà bị bệnh mà bà không có tiền gọi bác sĩ. Bạn hãy lấy viên ngọc ở chuôi kiếm của ta đem cho bà ấy.

Chim én dùng mỏ lấy viên ngọc ra và bay đến cho bà mẹ nghèo. Nhờ có tiền, bà đã lo cho con bà khỏi bệnh.

Hôm sau ông Hoàng lại xin chim én nán lại một đêm nữa để mang viên ngọc khác đến cho một người nghèo khác. Rồi hôm sau nữa đến giúp một người nghèo khác nữa. Cứ thế hết ngày này đến ngày khác, con chim én lấy các thứ trang sức của ông Hoàng đem cho người nghèo. Cuối cùng trên mình ông Hoàng không còn gì quý giá nữa. Và lúc đó mùa đông đã tới, trời đổ lạnh rất nhiều. Sáng hôm đó, người ta thấy xác con chim én đã chết cóng dưới chân pho tượng ông Hoàng trần trụi. Phía dưới thành phố, mọi người đều hạnh phúc. Họ có biết đâu hạnh phúc của họ là nhờ sự hy sinh của ông Hoàng Hạnh Phúc và con chim én nhỏ bé kia.

Vâng có ai ngờ những việc tốt chúng ta làm cho nhau lại là làm cho chính Chúa: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính ta vậy” (Mt 25,40).

Ngược lại như Lời Chúa quả quyết những gì chúng ta từ chối không giúp đỡ người khác cũng có nghĩa là chúng ta không giúp Chúa.

Khi đã không muốn giúp đỡ những người khác thì người ta có thể nại ra đủ mọi thứ lý do để từ chối.

Năm 1880, ở thành phố Paris, có một Linh mục ăn mặc nghèo hèn đến gõ cửa nhà một Cha Sở xin được trọ qua đêm. Cha Sở tiếp rất thờ ơ rồi chỉ cho Linh mục ấy lên chiếc gác xép nhà xứ. Linh mục ấy tên là Gioan Bosco, từ Turin nước Ý sang Paris để quyên tiền về xây trường giáo dục các thiếu niên.

Nhiều năm sau, Giáo Hội đã tôn phong Gioan Bosco lên bậc hiển thánh. Khi nghe tin đó, Cha Sở nọ nói:

“Phải chi lúc đó tôi biết ông ấy là Don Bosco thì tôi đâu có để Ngài ở trên cái gác xép ấy, trại lại tôi đã dành phòng khách sang trọng nhất cho Ngài rồi.

Quả thật chúng ta không bao giờ biết rõ những kẻ chúng ta gặp là những người như thế nào. Nhưng điều này không quan trọng. Điều quan trọng đối với những kẻ có đức tin là chính Chúa hiện thân trong những người ấy.

Giúp đỡ để được người ta khen ngợi, cám ơn và công bố ra cho nhiều người biết, thì không phải là giúp đỡ nữa mà là kiêu ngạo, ích kỷ trá hình. Sự giúp đỡ đẹp lòng Chúa là sự giúp đỡ không vì mục đích nào ngoài sự giúp đỡ cả.

3. Và cuối cùng Chúa cổ võ tình yêu thương qua việc chúng ta phải giúp đỡ lẫn nhau để làm gì ? Câu trả lời cũng không khó lắm. Thưa để thiết lập Nước Trời của Chúa ngay trên trần gian này và mai sau được hưởng hạnh phúc Nước Trời.

Ngày xưa người Do Thái hiểu Nước Thiên Chúa chính là Nước Do Thái, một nước Do Thái hùng cường phồn vinh làm bá chủ nhiều nước khác. Hiểu như vậy là sai.

Ngày nay nhiều người hiểu Nước Thiên Chúa là Giáo Hội, một Giáo Hội có rất đông tín đồ, một Giáo Hội có tổ chức quy mô, khiến cho người ngoài nể phục. Hiểu như vậy có đúng không ? Thưa chỉ đúng một phần thôi, là phần bề ngoài, phần hình thức, phần tổ chức.

Một câu chuyện vui:

Một buổi sáng tưng bừng, một bà sang trọng đi chiếc xe hơi bóng láng, lóng lánh như kim cương tới cửa Thiên đàng. Nghe tiếng còi điện lừng vang, thánh Phêrô vội vã mở cửa dẫn vào. Khi thấy Thánh Cả chỉ cho bác tài xế của mình một tòa nhà đồ sộ, bà ta sung sướng nghĩ bụng:

– Bác tài mà còn được ở một tòa nhà nguy nga tốt đẹp như thế! Tôi sẽ phải được một tòa nhà nguy nga lộng lẫy đến chừng nào!

Và bà ta xoa tay sung sướng.

Ngờ đâu khi bác tài đi rồi, Thánh Phêrô quay lại chỉ vào một túp lều lụp xụp nhỏ ở bên góc, nói:

– Đó là nhà của bà!

Bà ta hốt hoảng, cả đầu óc choáng váng lên:

– Nhà của tôi đó thật sao ? Không tôi không thể nào sống trong một căn lều xấu xí như thế được!

Thánh Phêrô đem tay vân vê chòm râu bạc, trả lời giữa hai cái nháy mắt:

Thưa bà, tôi rất tiếc không thể làm hơn thế được. Với vật liệu bà gởi tới cho tôi xưa nay, tôi chỉ có thể làm được ngần ấy thôi ?.

Một nhà giàu hỏi xem thiên đàng ở đâu ?

Ngày lễ Mông Triệu, cha xứ giảng về thiên đàng. Sau lễ, cha gặp người giàu có nhất làng. Ong này mới nói: “Thưa cha, cha vừa giảng một bài rất hay về thiên đàng, nhưng cha đã không nói thiên đàng ở đâu ?” Cha xứ trả lời: “Này ông, tôi sẽ nói cho ông biết thiên đàng ở đâu. Bên kia đường, trong một căn nhà nghèo nàn, có một bà góa sống với 2 đứa con nhỏ. Cả 3 đều lâm bệnh, đói khát và cùng khổ. Ông hãy chu cấp cho bà những gì bà cần và hãy trả tiền bác sĩ cho bà. Sau đó hãy đọc đoạn 25 Phúc âm thánh Matthêo, đoạn này nói đến phán xét cuối cùng và tôi chắc chắn là ông sẽ biết thiên đàng ở đâu. Nếu ông không biết nữa, thì hãy đến đây và tôi sẽ nói cho ông biết”. Người giàu kia làm những gì cha sở bảo và giúp đỡ tận tình bà góa. Sau này, khi gặp cha xứ, ông nói: “Thưa cha, con như ở thiên đàng trong ngày đó. Cha không thể tưởng tượng được con vui sướng hạnh phúc trong tâm hồn biết dường nào, và niềm vui ấy kéo dài cho đến ngày hôm nay”. Chính vì Thiên đàng là một trạng thái tâm hồn, là “sự bình an và niềm vui của một lương tâm ngay chính”.

Anh chị em thân mến,

Hôm nay chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội Việt Nam vui mừng mừng kính các anh hùng tử đạo tại Việt Nam của chúng ta. Trong bầu khí linh thiêng và cảm động này tôi muốn chia sẻ với anh chị em một vài tâm tình của tôi.

1. Tâm tình thứ nhất là tâm tình tự hào.

Các thánh Tử đạo Việt Nam của chúng ta làm cho chúng ta tự hào.

Chúng ta phải tự hào vì chúng ta đã có được những vị tổ tiên anh hùng thật xứng đáng. Các Ngài đã được sinh ra, đã làm việc, đã cùng sống với những người Việt Nam chúng ta ngay trên mảnh đất quê hương thân yêu này. Các ngài đã sống như biết bao nhiêu những con người khác đã sống, nhưng các Ngài đã sống hơn hẳn rất nhiều người khác ở chỗ các ngài đã biết sống anh hùng, không để cho mình bị mua chuộc, không để cho mình bị khuất phục. Tiền bạc không làm cho các ngài mù tối. Khổ đau không làm cho các ngài chùn bước, nhục hình không làm cho các ngài ngã quỵ, và cả cái chết cũng không uốn cong được lòng trung tín của các ngài.

Lịch sử còn ghi lại những hình phạt mà người ta đã nghĩ ra và đã dùng để phạt những người theo đạo như sau:

– Nhẹ nhất là bị gông cùm. Bị xiềng xích, bị nhốt trong cũi, bị đánh đòn, bị bỏ đói cho tới chết.

– Nặng hơn một chút thì bị voi dày, bị trói ném xuống sông, bị chôn sống, bị đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng.

– Quyết liệt hơn một chút thì bị xử trảm, xử giảo (thắt cổ) và thiêu sống.

– Ác liệt nhất là bị xử lăng trì (phân thây ra từng mảnh) hay bá đao (bị xẻo từng mảnh thịt cho tới chết)

Tôi xin trích ra đây một đoạn trong bản báo cáo về việc xử cha cố Du tại Thợ Đức ngày 30-11-1835:

“Họ cột chân tay ngài vào một cây cột. Hai bên lính cầm kìm chờ sẵn. Sau hồi chuông báo hiệu, tên lính cầm kìm đã được nung đỏ kẹp vào ngực kéo ra hai miếng thịt nơi vú liệng xuống đất. Tên khác cầm dao xẻo thịt phía sau hông – rồi đến dùi thì chúng lấy kìm kéo thịt ra rồi dùng lưỡi dao xẻo đứt từng miếng. Cha ngất đi, đầu rũ xuống và ngài tắt hơi về chầu Chúa lúc 17 giờ.

Cha chết rồi, lính chặt đầu ngài cho vào một chiếc thùng đầy vôi….đoạn họ cởi trói lật úp xác xuống, phân thây ra từng khúc bỏ vào thùng vôi. Tiếp theo họ lấy đầu đầu của ngài treo giữa chợ ba ngày, rồi lấy xuống nghiền nát ra bỏ vào thùng đựng xác rồi vứt tất cả xuống biển cho mất tích”

Vâng, kính thưa anh chị em.

Gian khổ có cao, hình phạt có nặng nhưng lòng thành của các ngài còn cao hơn. Cái chết của các Ngài thật đáng làm cho chúng ta phải tự hào. Trong sắc phong chân phước cho 64 anh hùng tử đạo Việt Nam ngày 27-5-1900 Chính Đức Thánh Cha Léo XIII đã nói về các Ngài với tất cả lòng khâm phục như sau: “Đây là những chiến sĩ trung liệt và kiên cường không kém gì những chiến sĩ ngày xưa vào những thế kỷ khai nguyên của Giáo Hội Chúa Kitô”.

2. Tâm tình thứ hai là lòng biết ơn.

Việc mừng lễ hôm nay làm tôi nhớ lại những lời rất cảm động sau đây của Chúa Giêsu: “Kẻ gieo người gặt đều vui mừng. Kẻ này gieo, người kia gặt. Thầy sai các con đi gặt những gì chúng con không vất vả làm ra. Những kẻ khác đã khó nhọc, còn các con thừa hưởng công lao khó nhọc của họ ” (Ga 4,36-37).

Sử gia Tertulianô ngày xưa khi nhìn lại những năm trời Giáo Hội bị bách hại và những cuộc trở lại đạo hàng loạt sau đó, ông đã phải viết lên những lời rất rất đáng cho chúng ta suy nghĩ như thế này: “Những hạt máu của những vị tử đạo là những hạt giống làm nảy sinh ra những người Kitô hữu khác”

Chúng ta phải tạ ơn Chúa vì Chúa đã cho chúng ta có được những con người anh hùng như thế. Đồng thời chúng ta cũng phải biết ơn các ngài vì chính nhớ các ngài mà hạt giống Đức tin đã nảy mầm và lớn lên trong chúng ta.

3. Tâm tình thứ 3 là bổn phận phải sống làm sao cho xứng đáng với đáng với danh nghĩa con cháu của những anh hùng.

Châm ngôn Việt Nam có câu rất hay: “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”

Phải sống xứng đáng để những thệ mai sau khi nhìn vào thế hệ này, họ cũng phải cảm thấy tự hào.

Năm 1934 khi nhắn nhủ một số các em nhỏ đến mừng sinh nhật của mình, nhà bác học nổi danh nhất của thế kỷ thứ 20, Albert Einstein đã nói với các cháu những lời cảm động như sau: “Các cháu nên nhờ rằng những điều kỳ diệu các cháu được học ở trường hôm nay là do công lao của biết bao thế hệ trên khắp thế giới đã hăng hái gắng sức và cặm cụi làm việc không ngừng rồi truyền lại cho các cháu như một di sản để cho các cháu tiếp nhận, tôn trọng, tăng gia thêm và một ngày nào đó các cháu sẽ lại trung thành truyền lại cho con cháu các cháu. Nhờ vậy mà chúng ta, những con người hữu sinh hữu tử mới thành bất tử trong những vật trường tồn mà chúng ta tạo ra chung với nhau”

Chúng ta đang thừa hưởng một di sản vô cùng quí giá do cha ông chúng ta để lại. Cách trả ơn tốt nhất đối với các Ngài là tiếp nhận và trung thành truyền lại cho các thế hệ mai sau.

Nhưng truyền lại bằng cách nào ?

– Thưa bằng chính cuộc sống mà tổ tiên của chúng ta đã sống.

Văn hào Tagore khi bàn về cái chết của Thánh Gandhi, đã nói: “Có lẽ thánh Gandhi không thành công, có lẽ thánh sẽ thất bại như Đức Thích Ca đã thất bại, như Đức Giêsu đã thất bại vì chưa hủy diệt được lòng ác độc của loài người. Nhưng loài người luôn nhớ tới Thánh vì thánh đã đem đời mình ra để làm bài học cho muôn thế hệ mai sau”

a- Bài học đầu tiên mà mỗi người chúng ta phải noi gương bắt chước đó là phải trung thành với niềm tin.

Đức tin là ơn nhưng không Thiên Chúa ban cho chúng ta.

Hãy bảo vệ lấy, đừng để cho nó bị hao mòn đi.

Phaolô Mợi bị bắt, bị giải đến quan.

Quan dụ:

– Anh đạp ảnh đi, tôi sẽ cho anh một nén bạc.

Phaolô không trả lời.

Quan lại hỏi:

– Vậy một nén vàng!

– Bẩm quan chưa đủ.

– Vậy anh muốn bao nhiêu ?

– Bẩm quan lớn, quan lớn muốn cho tôi quá khóa thì quan phải cho tôi đủ vàng để mua được một linh hồn khác.

Nguyễn văn Lựu: “Đạo đã nhập vào xương tủy tôi, làm sao tôi có thể bỏ được.”

b- Bài học thứ hai phải can đảm sống niềm tin đó.

Trong một bài diễn văn đọc cho binh lính trước khi họ lâm trận, Hitler đã nói: “Thế giới này sẽ thuộc về những kẻ gan dạ”

Victor Hugo: “Đồi Calvario ở đầu đường và hào quang cũng xuất hiện ở đó”

Chúa Giêsu: “Nước Trời phải dùng sức mạnh mà chiếm lấy”(Mt 11,12)

Không có chiến thắng cho những kẻ chưa lâm trận đã đầu hàng.

Không có vinh quang cho những kẻ hèn nhát.

Phần thưởng càng lớn, vinh quang càng cao thì cái giá phải trả cho nó càng đắt.

Phải sử dụng sức mạnh mới chiếm hữu được Nước Trời.

Lời cuối cùng của tôi. Tôi xin mượn lời của Thánh Phaolô:        “Trong mọi thử thách, chúng ta sẽ toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” Và Ngài kết luận: “Tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, chiều cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thụ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện nơi Đức Kitô Chúa chúng ta.”(Rm 8,35-39). Amen.

Kính thưa anh chị em

A. Dụ ngôn chúng ta vừa nghe là một trong những dụ ngôn quen thuộc trong Tin Mừng. Nếu chỉ nhìn dụ ngôn dưới con mắt của người Việt thì chúng ta thấy câu truyện xem ra có vẻ bày đặt, thiếu tự nhiên. Tuy nhiên nếu chúng ta đặt nó vào hoàn cảnh đất nước Do thái thì chúng ta sẽ thấy khác. Ở bên nước Do thái thì câu truyện này là một câu chuyện có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Hôm nay cũng vẫn còn như vậy.

Tại vùng quê ở xứ Palestine thì đám cưới là một cơ hội rất trọng đại. Cả làng đi đưa đôi tân hôn về ngôi nhà mới của họ. Thường thì đôi tân hôn thích đi bằng con đường dài – càng dài càng tốt để họ có thể nhận được những lời chúc mừng vui vẻ của nhiều người. Và càng nhiều người chúc mừng thì càng vui, càng “hên”.

Hầu như mọi người trong làng từ sáu đến mười sáu tuổi đều tham dự. Họ đi theo tiếng trống cưới. Các Rabi còn cho phép mọi người gác lại việc học hỏi và nghiên cứu luật pháp để họ có giờ chia sẻ niềm vui với đôi tân hôn.

Đây là phong tục của người Do thái. Nó khác xa với phong tục của chúng ta.

Tiến sĩ Alexander Findlay có lần đi du lịch tại xứ Palestine về, đã kể lại những điều ông đã được chứng kiến ở xứ Palestina cho những người nghe ông như sau: “Khi chúng tôi đến gần cổng một thị xã Gallilê…tôi thấy mười cô gái được hướng dẫn bởi một đoàn thanh niên rất đông, vừa đi vừa vỗ tay và đánh đàn rất vui vẻ. Họ nhảy múa dọc theo con đường phía trước xe chúng tôi. Tôi hỏi họ:

– Các bạn đang làm gì vậy ?

Người hướng dẫn trả lời:

– Chúng tôi đang ra nhập bọn với cô dâu để chờ chàng rể đến.

Tôi hỏi người đó xem tôi có thể quan sát đám cưới này được không thì người đó lắc đầu và sau đó người đó cắt nghĩa:

– Không thể được vì đám cưới có thể là tối nay, tối mai hay có khi cả hai tuần lễ nữa, không ai biết chắc khi nào thì đám cưới cử hành.

Sau đó anh còn cho chúng tôi biết: một trong những niềm vui lớn nhất trong một đám cưới thuộc giới trung lưu ở miền Palestine này là làm sao bắt gặp nhà gái đang ngủ. Chính vì vậy mà chàng rể thường đến bất ngờ. Đôi khi vào lúc nửa đêm.

Rồi cũng theo tục lệ ở đây thì trước khi đến chàng rể phải cho một người đi phía trước để la lên: “Kìa chàng rể đang đến!”. Việc này có thể xảy ra bất cứ lúc nào nên nhà gái phải luôn sẵn sàng để đón chàng rể khi anh đến.

Một chi tiết khác cũng khá quan trọng là không ai được phép ở ngoài đường lúc trời đã tối ngoại trừ khi họ có đèn cầm ở tay và khi chàng rể đã đến – cửa đã đóng lại thì những người đến trễ không được phép vào. Xét như thế thì dụ ngôn Chúa kể cũng không có gì là khác với thực tế là bao.

B. Bây giờ chúng ta tự hỏi Chúa muốn dạy gì khi đưa ra dụ ngôn này ?

Chúng ta có thể trả lời: Cũng giống như những dụ ngôn khác, dụ ngôn này cũng bao hàm nhiều ý nghĩa.

* Đối với người Do Thái lúc đó thì ý nghĩa đã quá rõ. Họ là dân được Thiên Chúa tuyển chọn. Cả lịch sử của họ lý ra phải là một cuộc chuẩn bị sửa soạn cho việc đón nhận Đấng Cứu thế khi Ngài tới. Đáng lý ra thì phải là như thế. Nhưng họ đã không làm như vậy. Chính vì họ không chuẩn bị để đón tiếp Ngài cho nên họ đã bị bỏ ra ngoài. Đây là tấn thảm kịch về sự mất mát lớn lao mà người Do thái phải chịu. Chúa đã khôn khéo tế nhị cho họ thấy điều đó thế nhưng rồi mọi sự đâu cũng vào đó. Thật là xót xa cho Chúa và cũng xót xa cho cả dân tộc được Chúa yêu thương một cách đặc biệt này.

* Tuy nhiên câu chuyện không phải chỉ dừng lại ở đây. Nó còn mang nhiều ý nghĩa sâu xa hơn.

1. Trước hết là bài học về bổn phận hằng ngày của mỗi người. Bổn phận đó đòi hỏi chúng ta phải chu toàn qua từng giây từng phút của cuộc đời chứ không phải là dành mãi đến phút chót mới làm.

Một học sinh đến ngày thi mới chuẩn bị thì quá trễ.

Nếu một người không chuẩn bị sẵn sàng về khả năng và phẩm cách để làm một công việc nào đó sẽ được trao phó thì khi công tác cần đến, người đó sẽ không còn thời giờ để chuẩn bị nữa.

Đối với Chúa, cũng vậy, nếu không có sự chuẩn bị sẵn sàng để gặp Chúa thì khi Ngài đến chúng ta khó mà kịp trở tay và hậu quả lúc đó như thế nào thì ai cũng biết.

Người biết chuẩn bị là người khôn. Người không biết dự phòng là người dại. Hậu quả của hai thái độ đó như thế nào thì chắc là ai cũng hiểu

2. Đàng khác dụ ngôn cũng còn dạy chúng ta một chân lý nữa: Có những điều chúng ta không thể vay mượn được. Những cô trinh nữ dại khi khám phá ra đèn của mình hết dầu rồi mới đi cầu cứu thì lúc đó mới thấy được cả một thực tế phũ phàng.

Người ta chẳng có thể nào mà đi mượn được mối giây liên hệ với Chúa nếu chính họ không tự làm ra mối giây liên hệ đó.

Chúng ta cũng không thể vay mượn được nhân cách. Mỗi người phải có nhân cách riêng của mình.

Chúng ta không thể cứ sống nhờ mãi vào người khác. Đến một lúc nào đó thì chúng ta phải tự chịu trách nhiệm về cuộc sống của mình. Đến lúc đó thì chúng ta không còn có thể cậy dựa vào bất cứ một ai hay bất cứ một quyền lực nào. Không có tiếng chuông báo tử nào nặng ký bằng tiếng chuông rung lên hai chữ “Quá muộn”.

3. Và cuối cùng là sự khôn ngoan của cuộc sống. Người sống khôn là người biết sống luôn sẵn sàng như cuộc sống chỉ là bây giờ, chỉ là hôm nay. “Các chị ra hàng mà mua thì hơn, e không đủ cho các em và các chị”

Ma quỉ rất sợ những con người như thế. Bởi vì phần thắng đã nằm ở trong tay họ.

Một ngày kia quỉ vương hỏi các quỉ cố vấn:

– Làm thế nào để những người trên trần thế sa đọa và thua mình ?

Các cố vấn đề nghị là nên phỉnh gạt người ta là không có Thiên Chúa hoặc không có sự trừng phạt gì ở đời này và đời sau. Quỉ vương suy nghĩ và chê các ý kiến đó là không hữu hiệu. Sau đó một hồi lâu, một quỉ nhỏ lại lên tiếng đề nghị: “Xin Ngài hãy nói với họ là ngày giờ còn rộng, còn dài, hãy thư thả rồi sẽ tính”

Vua quỉ vội đứng dậy vỗ tay khen hay:

– Đúng, mày nói đúng, chỉ có cách này mới làm cho con người an tâm mà xa thần thánh và không sợ trừng phạt. Bấy giờ ta sẽ mặc sức xúi dục chúng sa đọa theo ý của ta.

Các tôn giáo đã cống hiến cho chúng ta câu châm ngôn: “Hãy sống ngày hôm nay như ngày cuối cùng của đời mình để chúng ta trở về cõi thực, canh tân nếp sống.

Mẹ Têrêxa có lần đã phát biểu:

“Tôi dâng lễ này như là lễ đầu tiên, như là lễ cuối cùng và như là lễ độc nhất cuộc đời của tôi”

Nói một cách khác biết sống từng giây phút của hiện tại của đời mình một cách đầy đủ ý nghĩa – đó là cách chuẩn bị tốt nhất cho mọi tình huống có thể bất chợt xảy ra. Đó là cách giữ cho chiếc đèn đức tin của chúng ta lúc nào cũng có dầu và không bao giờ sợ bị tắt. Amen.

Anh chị em thân mến,

Tuần trước chúng ta cùng nhau suy niệm về một vấn đề được coi là cốt lõi trong đạo của Chúa . Đó là vấn đề có liên quan đến giới luật yêu thương. Hôm nay Giáo hội muốn cho chúng ta suy gẫm tiếp về một trong những khía cạnh khác cũng có liên hệ đến vấn đề trên. Có thể nói đây là khía cạnh quan trọng nhất để giúp cho chúng ta dễ thực hiện giới luật yêu thương của Chúa. Đó là sự khiêm nhường, một nhân đức mà các nhà tu đức gọi là nhân đức nền tảng của đời sống thiêng liêng.

I. Như anh chị em đã biết khiêm nhường thì đối nghịch với kiêu ngạo. Mà Chúa thì không thích sự kiêu ngạo vì người kiêu ngạo thường không sống thực với lòng của mình.

– Người kiêu ngạo thường đánh giá mình theo cái mình có hơn là theo cái mà công đồng Vat gọi là cái mình là.

– Trong Tin Mừng chúng ta thấy Chúa hay đả kích những người Biệt phái và luật sĩ cũng chỉ vì họ sống như thế.

* Họ tưởng họ có được một mớ hiểu biết về luật pháp là họ đương nhiên trở thành Thầy dạy mọi người.

* Họ tưởng họ có cái quyền nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo là tất nhiên họ trở thành nhà mô phạm đối với mọi người.

* Họ tưởng họ có được một chỗ nhất trong đám tiệc, một chỗ cao trong hội đường là tự nhiên họ phải được mọi người nể vì và kính phục.

– Rõ ràng Chúa không bằng lòng với kiểu tự đánh giá mình như thế. Chúa có một cái nhìn khác về cuộc sống chứ không theo cái nhìn tầm thường như vậy.

* Đối với Chúa thì cuộc sống của những người biệt phái và luật sĩ chỉ là cuộc sống hình thức mà không có nội dung – có cái ở bên ngoài mà không có thực chất ở bên trong.

* Đã có rất nhiều lần Chúa quở trách họ một cách rất nặng lời. Thậm chí Chúa ví họ như những mồ mả bên ngoài sơn phết rất đẹp nhưng bên trong thì toàn là mùi xú uế.

– Đối với Chúa thì có phải nói có, không thì phải nói không. Và Chúa nhấn mạnh thêm: thêm điều đặt chuyện là do ma quỉ mà ra.

– Chúa thích cái gì là thật, là đúng.

Trong Tin Mừng Chúa đã nói: “Sự thật sẽ giải thoát anh em.” André Frossard thuộc viện hàn lâm Pháp là bạn thân của Đức thánh Cha Gioan Phaolô II có lần đã hỏi Ngài: “Thưa Đức Thánh Cha, nếu phải chọn lấy một lời duy nhất của Tin Mừng để công bố thì Đức Thánh Cha sẽ chọn lời nào ?” Không một chút trần trừ, không cần phải suy nghĩ, Đức Thánh Cha trả lời ngay: “Sự thật sẽ giải thoát anh em”. Sống theo sự thật là sống khiêm nhường. Thánh Têrêsa Avila đã quả quyết như thế.

2. Vậy thì sống khiêm nhường là sống như thế nào ?

– Thay vì đưa ra một ý kiến riêng tôi xin mượn cách trả lời của văn hào Dostoievsky. Theo ngôn ngữ của Dostoievsky thì sống theo sự thật là biết sống thực với căn tính của mình và góp phần vào việc xây dựng một mối quan hệ hoàn toàn mới đối với những người khác.

* Căn tính của tôi là gì ? – Chỉ là một thụ tạo không hơn không kém. Là một thụ tạo cho nên tôi phải lệ thuộc vào Thiên Chúa, phải đặt mình dưới uy quyền của Ngài. Trong Tin Mừng có lần Chúa kể một câu truyện về hai người lên đền thờ để cầu nguyện: Một người biệt phái và một người thu thuế. Người biệt phái cầu nguyện trong tư thế đứng thẳng, đứng giữa cung thánh và cầu nguyện bằng cách phô trương công đức trước Thiên Chúa. Thái độ như thế không phải là thái độ của người khiêm nhường. Ngược lại người thu thuế cảm thấy mình bất xứng trước Thiên Chúa cho nên anh ta đứng cúi đầu xuống đấm ngực ăn năn và cầu xin lòng thương xót của Chúa. Thái độ như thế là thái độ của một thụ tạo khi đối diện với Đấng tạo thành. Và đó là thái độ của kẻ khiêm nhường. Trong Tin Mừng chúng ta còn thấy một lần kia, sau khi được chứng kiến mẻ cá lạ, Phêrô một ngư phủ dầy dặn về nghề đánh bắt cá, đã quì sụy lạy dưới chân Chúa Giêsu và thưa với Người: “Lạy Ngài . xin tránh xa con vì con là một người tội lỗi.” Thái độ đó là thái độ của một thụ tạo và đó cũng là thái độ của người khiêm nhường.

* Và từ thái độ của một thụ tạo trước Thiên Chúa mà tôi phải đi tới một thái độ khác đó là tôi phải coi và đối xử với mọi người như anh em. Lý do tại sao thì Chúa đã cho biết trong Bài TM hôm nay: “Tất cả anh em đều là anh em với nhau”. Chúng ta là con của cùng một Thiên Chúa là Cha…và cùng là người được Chúa Giêsu cứu chuộc. Mọi thái độ có tính cách “cha-chú” đối với nhau đều không phải là thái độ của những người anh em và chắc là không phải là thái độ của những người biết sống khiêm nhường.

* Hơn thế nữa, nếu đọc kỹ bài Tin Mừng hôm nay chúng ta thấy Chúa còn cổ võ một nếp sống có tính cách quyết liệt và cao hơn nữa: “Trong các ngươi ai quyền thế hơn sẽ phải là người phục vụ”. Đây quả là một quan niệm thật mới và táo bạo thời đó . Giữa lúc các xã hội còn đang bị chi phối bởi chế độ quân chủ và đầu óc con người còn nặng chất phong kiến mà Chúa đã có một quan niệm như thế thì phải nói là rất cách mạng. Không những Chúa nói mà Chúa còn sống như thế: “Thầy đến không phải được phục vụ mà là để phục vụ”.

II. Ngày 22.10.1978, trước mặt đầy đủ các vị trong hồng y đoàn, có khoảng chừng 100 phái đoàn ngoại giao và có khoảng 70.000 tín hữu tụ tập lại ở công trường Thánh Phêrô để tham dự buổi lễ đăng quang của người kế vị đức Gioan Phaolô I trên ngôi giáo hoàng, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tuyên bố sự khởi đầu triều đại Giáo hoàng của ngài bằng những lời rất cảm động sau đây: “Người kế vị mới của Phêrô trên tòa Roma này hôm nay xin được dâng lên Chúa Kitô một lời nguyện cầu thật chân thành, khiêm tốn và tin tưởng. Đó là xin cho có thể làm một nô bộc hay đúng hơn: làm nô bộc của các nô bộc của Người. Và rồi người ta đã thấy Ngài đã sống như thế.

Trước đó, một vị Giáo hoàng cũng lấy danh hiệu là Gioan Phaolô. Đức Gioan Phaolô thứ I. Ngài chỉ sống trong chức vụ Giáo hoàng của Ngài một thời gian rất ngắn ngủi: chỉ có 33 ngày. Nhưng cuộc sống của Ngài đã để lại nhiều ấn tượng thật tốt đẹp. Jean Villot vị thư ký riêng của Ngài đã nói về Đức Thánh Cha với những lời lẽ cảm động như thế này: “Bên cạnh Ngài, tôi đã được sống những kinh nghiệm đạo đức phong phú nhất cuộc đời của tôi”

Trở về trước đó một chút nữa, ngày 14-12-1975, nhân dịp kỷ niệm 10 năm Giáo Hội Roma và Giáo hội chính thống Constantinopolis xóa bỏ sự khai trừ lẫn nhau có từ thế kỷ thứ 11 dẫn tới sự ly khai như Lịch sử đã cho chúng ta biết, một buổi lễ chính thức đã được cử hành long trọng trong nhà nguyện Sixtine nơi vẫn diễn ra các cuộc bầu cử Giáo hoàng. Tham dự buổi lễ hôm đó có 40 vị hồng y, toàn thể ngoại giao đoàn, các đại diện dòng tu nam nữ. Buổi lễ diễn ra trong một bầu khí thật đạo đức và thánh thiện. Vào gần cuối buổi lễ, Đức Thánh Cha Phaolô VI đã làm cho mọi người tham dự phải sửng sốt. Ngài tiến lại gần Đức Tổng Giám Mục Mêliten, vị Giáo chủ chính thống giáo, Ngài quì xuống, vén áo và hôn chân vị Giáo chủ này. Mọi người đều ngỡ ngàng.

Phải chăng đây là một sự hạ mình quá đáng ? Làm như vậy có thế mất thể diện chăng ? – Không. Không phải là hạ mình, cũng không phải là mất thể diện, mà là thể hiện tinh thần của Bài TM hôm nay. “Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”. Dostoievsky nói: “Nếu mọi người hiểu được điều ấy thì thế gian này sẽ trở thành Thiên đàng”. Amen.

Chúng ta đã nghe bài Tin Mừng hôm nay rất nhiều lần và những gì Chúa nói chúng ta đã thuộc lòng ngay từ khi còn nhỏ.

1. Khi người ta hỏi Chúa xem giới răn nào là lớn nhất, thì câu trả lời của Chúa là hai giới răn và cả hai giới răn này đều đã có sẵn trong Cựu Ước. Chúa đã trưng dẫn cả hai và đặc biệt hơn là Chúa đã làm cho chúng có tầm quan trọng như nhau. Chính vì thế mà chúng ta không được tách riêng ra, như trong thực hành chúng ta thường làm như thế.

Một số người nghĩ rằng, nếu chúng ta có đủ đức tin thì cuộc sống chúng ta sẽ êm trôi suôn sẻ. Nghĩ như vậy thôi chứ thực tế không phải như vậy. Đức tin không che chắn cho chúng ta khỏi những va chạm đau thương của cuộc đời.

Vào thời các tu sĩ còn sống ở trong sa mạc, có một tu sĩ tên là Moses nổi tiếng là thánh thiện. Lễ Phục Sinh sắp đến nên các thầy họp nhau lại, bàn xem nên làm gì để chuẩn bị mừng lễ cho sốt sáng và đem lại nhiều ích lợi. Họ cùng quyết định sẽ ăn chay trọn vẹn Tuần Thánh. Để thực hiện quyết tâm này, mỗi thầy phải trở về nơi mình ở, và ở đó họ phải ăn chay và cầu nguyện.

Công việc lúc ban đầu diễn tiến rất tốt đẹp, nhưng, đến giữa tuần thì có hai thầy khách lang thang đến thăm thầy Moses. Nhận thấy rằng họ đang đói, thầy Moses nấu một chút rau cho họ ăn. Để cho họ đỡ ngại ngùng và cảm thấy thoải mái, thì chính thầy cũng ăn một ít.

Trong khi đó, thì các thầy khác thấy khói bốc lên từ chỗ ở của thầy Moses. Việc đó có nghĩa là thầy Moses đã đốt lửa để nấu ăn. Nói một cách khác, thầy đã vi phạm luật ăn chay và điều này đã làm cho họ bị dội. Chỉ trong nháy mắt cái nhìn của nhiều người đối với thầy Moises đã thay đổi hoàn toàn. Họ coi thầy như đã rơi từ đỉnh cao của sự thánh thiện xuống vực thẳm.

Nhận ra sự sự đánh giá trong mắt những người anh em, thầy Moises hỏi: “Tôi đã phạm tội gì khiến các thầy lại nhìn tôi như thế ?”

Họ trả lời: “Thầy đã vi phạm luật giữ chay.”

Thầy Moises bình tĩnh trả lời “Vâng! Đúng là tôi đã làm thế. Tôi đã vi phạm giới luật của con người trong việc chia sẻ của ăn với những người anh em của chúng ta. Nhưng tôi đã giữ giới răn của Thiên Chúa là chúng ta phải yêu thương nhau.”

Khi nghe nói như vậy, các thầy trở nên yên lặng và khôn ngoan rút lui một cách khiêm tốn.

Vâng! Có những người tuyên bố là mình yêu mến Thiên Chúa nhưng trong thực tế lại không quan tâm tới bổn phận yêu thương người khác. Những người như thế họ mới chỉ sống có một nửa của Tin Mừng.

Ngược lại, lại có những người đi đến thái cực đoan khác. Họ đã tỏ ra rất nhiệt tình để xây dựng một thế giới tốt đẹp nhưng chưa bao giờ họ nghĩ đến Thiên Chúa hoặc cầu nguyện với Người. Họ cũng chỉ là những người sống nửa phần của Tin Mừng.

Đức Kitô dạy chúng ta phải sống trọn vẹn cả Tin Mừng, nghĩa là vừa phải yêu mến Thiên Chúa và đồng thời cũng phải yêu người thân cận như chính mình. Người đã không nói rằng hai chuyện đó chỉ là một, nhưng muốn bảo rằng chúng ta không thể làm việc này mà bỏ việc kia, nghĩa là chỉ yêu mến Thiên Chúa mà lại không thương yêu anh em.

2. Đức Giêsu còn nói: “Anh em hãy yêu thương người thân cận như chính mình.”

Chỉ khi nào chúng ta chấp nhận mình và bắt đầu yêu thương chính mình, chúng ta mới có thể bắt đầu yêu thương người khác như Thiên Chúa truyền dạy.

Đối với những người mà trong lòng còn chất đầy sự căm ghét và hận thù hận, thì dứt khoát là họ sẽ không có khả năng yêu thương người khác. Họ thường đổ lỗi và khiển trách người khác những điều mà họ không thích nơi chính mình. Rõ ràng người khác là đối tuợng để họ bộc lộ chính con người của họ.

Một cụ già đang ngồi trên băng ghế ở bìa làng thì có một người tới hỏi:

– Những người dân trong làng này như thế nào ?

Cụ già hỏi lại:

– Thế những người trong ngôi làng trước đây của ông ra sao ?

Người đó trả lời:

– Họ rất tốt, quảng đại, và và giả như cụ có đến đó mà gặp khó khăn thì họ sẽ làm cho cụ tất cả những gì cụ cần.

Cụ già nói:

– Vậy tôi nghĩ rằng ông cũng sẽ thấy có nhiều người như thế trong làng này.

Ít lâu sau đó, lại có một người khác cũng tới gặp cụ già và hỏi cùng một câu hỏi như trước:

– Những người dân trong làng này như thế nào ?

Và cụ già cũng hỏi lại một câu y như cụ đã hỏi người thứ nhất:

– Thế những người trong ngôi làng trước đây của ông ra sao ?

Người đó trả lời:

– Đó là một nơi kinh khủng. Thật sự là tôi rất mừng vì đã rời khỏi nơi đó. Người dân nơi đó keo kiệt, không tốt và nếu cụ đến đó mà gặp khó khăn thì chắc là cụ sẽ không gặp được ai nhấc một ngón tay để giúp cụ đâu.

Cụ già nhìn người khách là và hóm hỉnh trả lời:

– Tôi e rằng ông cũng sẽ gặp rất nhiều người như thế trong làng này.

Điểm chính yếu mà tác giả trong câu chuyện muốn chia sẻ với chúng ta là: “ Nếu chúng ta nhìn người khác không như họ lànhư chúng ta là thì chúng ta sẽ gặp rất nhiều thảm họa cho cuộc sống của chúng ta. Nếu chúng ta nhìn người khác bằng cái nhìn xấu thì đó là dấu hiệu cho thấy rằng chính chúng ta đang có rất nhiều bất ổn. Một người không có sự bình an nơi chính mình thì sẽ rất dễ dàng gây sự với những người chung quanh mình”.

Người ta kể một giai thoại về Mẹ Têrêsa Calcutta. Một lần kia trong cuộc phỏng vấn trên truyền hình, Mẹ Têrêsa phải đối diện với một phỏng vấn viên không mấy thiện cảm đối với Giáo Hội Công giáo. Ông ta đặt cho mẹ Têrêsa câu hỏi:

– Bà yêu thương và phục vụ người nghèo, tốt lắm, thế còn bao nhiêu của cải của toà thánh Vatican và Giáo hội thì sao ?

Mẹ Têrêsa là một người thành thực đến độ thẳng thắn mà không phật lòng người đối diện. Mẹ nhìn thẳng vào mắt người phóng viên và nói với ông:

– Ông quả là người không được hạnh phúc, có một cái gì đó đang gặm nhấm tâm hồn ông, ông không có sự bình an trong tâm hồn.

Lời nói đơn xơ và thành thực của Mẹ Têrêsa như mũi tên phóng vào tim người đối diện khiến ông để lộ rõ sự bối rối trên khuôn mặt của ông. Không để mất cơ hội, Mẹ Têrêsa như người mẹ hiền ân cần lo lắng đã ôn tồn nói với ông:

– Tôi nghĩ rằng ông nên có đức tin.

Đến đây người phóng viên như cá cắn câu, ông thành thật hỏi:

– Tôi phải làm gì để có đức tin ?

Mẹ Têrêsa đáp:

– Ông hãy cầu nguyện và tôi cũng sẽ cầu nguyện cho ông. Ông hãy cố gắng mỉm cười với những người xung quanh ông, một nụ cười có thể đánh động người khác, một nụ cười có thể cho chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa trong cuộc sống chúng ta.

Quả nếu chúng ta không yêu thương chính mình, chúng ta cũng không thể yêu thương người khác. Vậy trước hết, chúng ta phải yêu thương chính mình và phải yêu cho đúng đúng cách, bằng không thì chúng ta sẽ chẳng có đủ khả năng để yêu thương người khác như Chúa mong muốn.

Có người bảo rằng yêu mình là sai, thậm chí còn là một điều tội lỗi. Dĩ nhiên, có một hình thức tự ái không đúng. Chúng ta gọi nó là sự ích kỷ hoặc cố chấp. Nhưng có một hình thức yêu mình có ích lợi và nếu không có nó chúng ta không thể thật sự yêu thương người khác.

Chúng ta không thể bay mà không có cánh. Chúng ta không thể lớn lên mà không có gốc rễ. Chúng ta không thể sưởi ấm cho người khác nếu lò sưởi của chúng ta lạnh lẽo và trống rỗng. Chúng ta chỉ có thể yêu với mức độ tình yêu chúng ta có nơi chúng ta.

Thật là dễ dàng khi yêu một người nào đó mà họ dễ thương. Nhưng không dễ yêu một người nào đó khi họ có khuyết điểm một cách rõ ràng và hiển nhiên. Đó là một trắc nghiệm về tình yêu thật sự. Nơi nào không có tình yêu, hãy gieo rắc tình yêu và bạn sẽ được hưởng tình yêu. Nơi nào không có tình yêu, hãy đặt tình yêu, và bạn sẽ khám phá ra tình yêu.

Vâng đó là điều Chúa muốn nói với chúng ta hôm nay. Amen.

Hôm nay, ngày CHÚA NHẬT TRUYỀN GIÁO, Hội Thánh muốn chúng ta suy nghĩ về việc đem Tin Mừng cứu độ của Chúa Giêsu đến cho anh em lương dân, để cho họ cũng được trở nên môn đệ của Chúa như chúng ta.

Theo Công đồng Vaticanô II thì chúng ta không thể sống đẹp lòng Chúa nếu không thao thức làm cho anh chị em lương dân trở thành môn đệ của Người. Vậy, chúng ta hãy nhìn lại lịch sử xem việc truyền giáo đã được thực hiện như thế nào để rồi qua đó chúng ta sẽ thấy được bổn phận chúng ta phải làm gì.

1. Trước hết là thời các Tông đồ,

Ngay sau khi Chúa Giêsu về trời, các tông đồ đã cất bước lên đường đi rao giảng TM khắp nơi như lệnh truyền của Chúa: “Anh em hãy đi” (Mt 28,19-20). Sách Tông Đồ Công Vụ đã cho chúng ta thấy các tông đồ ngay lập tức đã lên đường đi rao giảng Đức Giêsu trong các hội đường. (Cv 9,20)

Lý do các tông đồ nêu ra là: “Người truyền cho chúng tôi phải rao giảng cho muôn dân, và long trọng làm chứng rằng chính Người là Đấng Thiên Chúa đặt làm thẩm phán, để xét xử kẻ sống và kẻ chết.(Cv 10,42)

Trong thư gửi giáo đoàn Côrintô, thánh Phaolô nói:”Quả vậy, Đức Kitô đã chẳng sai tôi đi làm phép rửa, nhưng sai tôi đi rao giảng Tin Mừng.(1Cr 1,17)

Vì ý thức việc rao giảng Tin Mừng quan trọng như vậy nên các tông đồ đã hăng hái đi rao giảng khắp mọi nơi.

Đầu tiên là cho những người Do thái: “Từ đó ông Saolô cùng với các Tông Đồ đi lại hoạt động tại Giêrusalem. Các ngài mạnh dạn rao giảng nhân danh Chúa.(Cv 9,28)

Sau đó các ngài đã đi khắp nơi.

Phêrô Phaolô đã sang đến tận Roma.

Tục truyền Toma đã sang tới tận Ấn Độ.

“Ông Philipphê xuống một thành miền Samaria và rao giảng Đức Kitô cho dân cư ở đó.(Cv 8,5) Các ngài “Rao giảng lời Chúa tại Pécghê, rồi xuống Áttalia.(Cv 14,25) Các ông đi qua miền Phyghia và Galát, rao giảng lời Chúa ở Axia.(Cv 16,6)

Các ngài rao giảng rất mạnh dạn.(Cv 28,31) và sẵn sàng chịu mọi khổ nhục vì Chúa Kitô;

Sau thời các tông đồ Giáo Hội còn được chứng kiến thêm nhiều sứ giả khác tiếp tục công việc của các Ngài nhất là vào thời Trung Cổ. Từng đoàn, từng đoàn các nhà truyền giáo đã đi về phía Châu Mỹ. Một số đi về phía trời Đông. Một trong số những người này chúng ta phải đặc biệt nói đến một nhân vật mà Hội Thánh đã đặt làm bổn mạng các xứ Truyền Giáo. Người đó chính là Thánh Phanxicô Xaviê.

Tháng 4 năm 1541 ngài xuống tàu tại Lisbon và mãi 14 tháng sau mới đến được Goa bên Ấn Độ. Trong suốt 10 năm truyền giáo (1542-1552) ngài đã đi cả trăm ngàn cây số. Trong 7 năm đầu, ngài truyền giáo ở vùng Mũi Cormorin, sau đó ở Ceylan, Malaysia và từ đó đến Indonesia

Rồi trong vòng 2 năm (1549-1551) ngài đã thành lập một cộng đoàn tín hữu ở Nhật Bản; trước khi ra đi, ngài trao lại cho một Linh mục Bồ đào Nha; 20 năm sau, cộng đoàn này đã lên đến 30 ngàn người. Cuối cùng vì muốn vào Trung Hoa truyền đạo, ngài đã đến đảo Thượng Xuyên ngay cửa khẩu Quảng Châu, để chờ thuyền lén lút đưa ngài vào Trung quốc. Tiếc rằng tại đây ngài ngã bệnh và qua đời. Vài tuần lễ sau, người ta từ Goa đến tìm xác ngài, đem về Goa để chôn cất.

Chúng ta cũng không thể không nói tới những nhà truyền giáo đã đi về hướng Châu Phi. Một nhân vật mà chúng ta không thể quên đó là BÁC SĨ ALBERT SCHWEITZER

“Tôi đã bỏ địa vị Giáo sư tại Đại Học Strasbourg, bỏ công việc tìm tòi khảo cứu khoa học của tôi, bỏ thú tiêu khiển ưa thích nhất của tôi là chơi đàn phong cầm để ra đi hành nghề bác sĩ tại các vùng nhiệt đới Châu Phi.

Vào năm 1952, nhà truyền giáo và là bác sĩ Albert Schweitzer đã nhận được giải thưởng Nobel về hòa bình.

Phải nói rằng những cuộc truyền giáo đã đem lại những kết quả hết sức tốt đẹp.

2. Sau đó Giáo Hội được bổ sung bằng một hình thức truyền giáo khác âm thầm hơn, lặng lẽ hơn nhưng cũng hiệu quả không kém: Đó là truyền giáo bằng cầu nguyện và hy sinh. Đại diện cho hình thức truyền giáo này là thánh Têrêsa HDGS.

Dù chỉ là một nữ tu dòng kín, chị đã khát khao trở thành một vị truyền giáo đi tới hang cùng ngõ hẻm của trái đất bao la này! Nguyện ước này đã được bề trên chấp thuận với chương trình gửi chị qua dòng kín Sài Gòn, Việt Nam nhưng ý Chúa nhiệm mầu! Chị đã ngã bệnh lao phổi trầm trọng…. và giã từ cuộc sống này lúc vừa tròn 24 xuân xanh.

Trước giờ chết, chị đã nói như tạm biệt cộng đoàn: “Tôi không chết, tôi bước vào cõi sống”. Và như một vị tiên tri, chị nói với mẹ Bề Trên;” A! Con biết lắm, rồi cả thế giới sẽ yêu thương con”. Liền sau cuộc mai táng tại nghĩa trang của thị trấn, có một trận mưa hoa hồng ngay trên mộ của nữ tu trẻ tuổi này, vì chị đã hứa: “Tôi về trời, là để làm điều tốt cho thế gian”.

Tại Paris nhân ngày Đại hội giới trẻ thế giới lần thứ 12 (21-24.8) năm 1997, ngày bế mạc Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đã loan báo: Giáo Hội sẽ tôn phong thánh Têrêsa lên hàng Tiến sĩ Hội Thánh vào ngày Chúa nhật Truyền giáo 19.10.1997.

Như vậy qua việc đặt Têrêsa HDGS làm bổn mạng và phong Ngài làm tiến sĩ Hội Thánh GH đã công khai thừa nhận việc hy sinh và đời sống cầu nguyện cũng có một giá trị truyền giáo không kèm gì việc ra đi truyền giáo như các tông đồ thuở xưa.

3. Việc truyền giáo hôm nay.

Ngày nay việc truyền giáo còn được làm phong phú hơn bằng một phương pháp mới: Truyền Giáo bằng chứng tá của cuộc sống.

Khi các nhà truyền giáo Công giáo hỏi ý kiến ông Gandhi về việc họ phải làm gì để các người theo đạo Hinđu chấp nhận bài giảng trên núi của Đức Giêsu. Ông Ganđhi trả lời: “Các ông hãy nghĩ về bí quyết của những bông hoa hồng. Mọi người đều yêu thích chúng, vì ngoài vẻ đẹp và màu sắc sặc sỡ, hoa còn tỏa ra mùi thơm thoang thoảng như diệu kỳ của nó. Vậy các ông hãy “tỏa hương thơm!”

Đức Thánh Cha Phao-lô VI đã thật chí lý khi nói rằng: “Con người thời đại chúng ta thích nghe các chứng nhân hơn là các bậc thầy, hoặc nếu có nghe các bậc thầy thì chính vì những vị thầy này là chứng nhân”

Người đại diện nổi bật nhất và cũng là mẫu mực nhất của việc truyền giáo bằng phương pháp này chính là mẹ thánh Têrêsa Calcutta.

Ngày nay, công việc của Dòng Bác Ái Truyền Giáo thì nhiều loại và được chia ra như sau:

Việc Tông Ðồ qua những lớp Giáo Lý, học hỏi Kinh Thánh, nhóm hoạt động Công Giáo, và thăm viếng bệnh nhân, người già và tù nhân.

Chăm Sóc Y Tế qua các nhà thương, bệnh viện người cùi, những em bị tật nguyền tâm lý và thể lý, những người hấp hối và tuyệt vọng, người bị bệnh AIDS và ho lao, những trung tâm suy dinh dưỡng và những bệnh xá lưu động.

Việc Giáo Dục qua các trường tiểu học trong các khu nhà nghèo, lớp dạy may cắt, lớp thương mại, lớp cho người tàn tật, lớp mẫu giáo ở làng, và những chương trình giữ trẻ.

Dịch Vụ Xã Hội qua chương trình an sinh và giáo dục trẻ em; giữ trẻ; nhà cho người vô gia cư, người nghiện rượu và thuốc sái; nhà cho những người mẹ không chồng; nơi tạm cư ban đêm; và trung tâm dạy điều hoà sinh sản.

Dịch Vụ Cứu Tế qua những trung tâm thực phẩm và quần áo…

Một nhà truyền giáo tại Ấn Độ, ông Gordon Marsuel đã xin một tín đồ Ấn độ giáo, đến sống bên cạnh để dạy ông học tiếng bản xứ. Nhưng tín đồ Ấn này từ chối, anh ta nói:

– Thưa Ngài, tôi không thể đến dạy tiếng bản xứ cho ngài, vì lẽ tôi không muốn trở thành Kitô hữu.

Nhà truyền giáo trả lời:

– Tôi muốn học tiếng bản xứ để có thể giao tiếp với những người chung quanh để hiểu biết họ hơn, chứ không nhằm bắt họ trở lại với đạo Chúa.

Nhưng người tín đồ Ấn giáo đáp lại:

– Thưa ngài, tôi biết vậy. Nhưng đối với tôi, tôi nhận thấy rằng: không một ai có thể sống bên cạnh ngài mà không bị ngài cảm hóa để tin vào Chúa. Tôi không thể dạy ngài vì tôi đã nghĩ, không thể nào sống bên cạnh ngài mà không trở thành Kitô hữu.