Bài Tin Mừng hôm nay có thể chia này thành 2 phần tương đối rõ rệt,

* Phần đầu (các câu 37-39) Đức Giêsu dạy các môn đệ về sự từ bỏ:

* Phần sau (các câu 40- 42) dạy về sự tiếp đón

A. VỀ SỰ TỪ BỎ.

1. Có nhiều loại từ bỏ.

– Tôi soạn lại tủ áo của tôi. Nhiều áo quá. Có những chiếc đã cũ và lỗi thời, tôi có thể bỏ bớt để đem cho người nghèo.

– Trong sân nhà tôi có hai cây mọc cạnh nhau. Nếu cứ để như thế thì hai cây vẫn sống, nhưng không cây nào lớn mạnh tốt được. Tôi nên bỏ bớt một cây để cây kia mọc tốt hơn.

– Nha sĩ khám thấy có một chiếc răng của tôi đang bị hư nặng. Ông bảo phải bỏ nó đi, nếu không, nó sẽ lây cho những chiếc bên cạnh.

Đức Giêsu kêu gọi người đi theo Ngài hãy từ bỏ. Bỏ những gì và bỏ cách nào?

– Có những thứ ta có thể bỏ. Thí dụ bớt chút thức ăn, bớt chút giờ ngủ khi ta ăn chay hãm mình.

– Có những thứ ta nên bỏ để cuộc sống của ta nên tốt hơn. Thí dụ khi ta nhường nhịn không trả đũa, không đòi lại của cải hoặc danh dự bị người khác làm tổn thương, mất mát.

– Có những thứ ta bó buộc phải bỏ như: tội lỗi, thói xấu, dịp tội.

2. Xét như thế thì Chúa muốn chúng ta từ bỏ để được nên tốt hơn.

Người ta kể lại rằng: khi nhà danh họa Lêô Nardô de Vinci đem bức tranh nổi tiếng của mình là bức tranh vẽ Chúa Giêsu trong bữa tiệc ly ra trưng bày cho mọi người thưởng lãm. Đây là một bức tranh rất đẹp. Chúa Giêsu ở giữa và chung quanh là các môn đệ của Người. Lúc triển lãm bức danh, tác giả cố ý núp ở một chỗ trong một phòng kín có ý để quan sát. Ông vô cùng ngạc nhiên khi thấy điểm thu hút sự chú ý của mọi người không phải là khuôn mặt của chúa Giêsu mà là cánh hoa ông vẽ bên góc bức họa. Ngay lập tức ông đã nhận ra sự sai lầm của mình đó là đã thêm một cánh hoa vào bức tranh làm cho người xem bị phân tâm không còn chú ý tới trọng tâm của bức tranh là Chúa Giêsu nữa. Ông liền lấy cọ bôi bỏ cánh hoa đó. Và sau đó thì mọi người xem đều dán chặt mắt vào khuôn mặt Chúa Giêsu.

Việc bỏ cánh hoa là việc rất nên. Chính vì thế mà Vinci đã đạt được ước nguyện của mình.

Đàng khác vấn đề mất và được ở trên thế gian này có gì là tuyệt đối đâu.

Ngày xưa có một ông lão ở gần cửa ải mất một con ngựa. Có người đến thăm chia buồn vì sự rủi ro đó. Ông đáp:

– Biết đâu chuyện mất ngựa chẳng là điều may.

Vài ngày sau, con ngựa cũ trở về lại rủ thêm được một con ngựa Hồ rất hay. Có người cho đó là điều may mắn nên đến chúc mừng. Ông nói:

– Chưa hẳn được ngựa là may đâu.

Ông có đứa con trai, thấy ngựa Hồ hay, liền bắt cởi thử, chẳng may bị ngã ngựa té gãy chân. Nhiều người cho rằng xui xẻo. Ông lại nói chưa biết chừng đây là điềm báo trước điều phúc cho gia đình ông. Qua năm sau, giặc Hồ tràn sang nước ông. Theo lệnh vua, các trai tráng trong làng đều phải sung vào cơ ngũ đi dẹp loạn, 10 người chỉ sống sót được một. Con trai ông vì tàn tật nên được miễn dịch, nhờ đó mà thoát chết, gia đình ông được an toàn. Nên việc họa phúc không biết đâu mà ngờ được.

Sống theo chúa Giêsu là đặt ngài làm trọng tâm của cuộc sống, nhìn thấy Ngài trong mọi sự. Đó là bí quyết của các thánh. Chúa Giêsu không chỉ là bậc thầy, vạch ra một con đường cho người khác đi theo. Ngài còn tự xưng mình là con đường duy nhất, Ngài đòi hỏi con người phải đi theo Ngài một cách tuyệt đối, nghĩa là vì Ngài sẵn sàng từ bỏ tất cả và từ bỏ tức khắc: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy… không xứng với Thầy… Ai giữ lấy mạng sống mình thì sẽ mất…  (Mt.. 10,37.39). Đi theo chúa, bỏ tất cả, hiến mạng sống làm gia nghiệp đó là đòi hỏi Chúa Giêsu đã kể ra trong Tin mừng hôm nay cho chúng ta.

Đi theo chúa Giêsu cũng có nghĩa là sống thế nào để mọi người nhìn vào đều thấy được gương mặt Ngài. Một cuộc sống như thế đòi nhiều hy sinh từ bỏ, cũng như nhà họa sĩ sẵn sàng bôi bỏ một cánh hoa để thu hút sự chú ý của khán giả vào gương mặt của Chúa Giêsu. Cũng thế người môn đệ Ngài luôn sẵn sàng tháo gỡ và dứt bỏ mọi thứ vướng bận để chỉ sống cho Ngài và làm cho mọi người nhận ra gương mặt của Chúa qua cuộc sống của chính mình” (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày” Tập II).

B. Vần Đề Thứ hai về sự tiếp đón:

1. Thánh Kinh đã ghi lại những cuộc tiếp đón rất đẹp và rất dễ thương.

a. Abraham thấy 3 người khách lạ đang đi trong sa mạc. Ông chạy ra năn nỉ họ vào nhà và ân cần chăm sóc họ. Đó là 3 sứ giả của Thiên Chúa. Đáp lại tấm lòng của Abraham, 3 sứ giả này ban ơn cho vợ chồng son sẻ của Abraham có con trai đầu lòng (St 18);

b. Một gia đình ở Sunam chẳng những tiếp đón ngôn sứ Elisê, mà còn dọn hẳn cho ông một căn phòng để những lần sau ông tới có chỗ trọ. Đáp lại, Elisê cũng giúp họ thoát khỏi tình trạng son sẻ (bài đọc I);

c. Gia đình Matta, Maria và Lazarô ở Bêtania là nơi thường xuyên tiếp đón Đức Giêsu và các môn đệ. Đáp lại, Đức Giêsu đã làm cho Ladarô sống lại.

2. Phần thưởng của tấm lòng quảng đại ấy là gì?

Là sự sống: Một đứa con cho cặp vợ chồng già, hai đứa con trai đầu lòng cho hai vợ chồng son sẻ, và mạng sống được trả lại cho Ladarô đã chết 4 ngày. Xét cho cùng, ơn ban sự sống ấy không phải do những người khách, mà chính Thiên Chúa, nguồn mạch sự sống, ban cho họ.

Những câu chuyện rất đẹp trên đây khuyến khích chúng ta hãy quảng đại tiếp đón:

– Tiếp đón không chỉ là đón người vào trọ trong nhà mình, cho họ ăn, cho họ nghỉ, mà còn là biết quan tâm tới nhu cầu của người khách và đáp ứng theo khả năng của mình.

– Khi tiếp đón, dĩ nhiên chúng ta phải mất mát: mất giờ, mất tiền của, mất công…Nhưng Thiên Chúa sẽ trọng thưởng chúng ta: Ngài sẽ cho sức sống thần linh của Ngài thêm lớn mạnh trong sự sống chúng ta.

Tiến sĩ Marcello Candia là một người Ý đã dùng tất cả tài sản để xây một nhà thương dành cho người nghèo ngay giữa khu rừng già Amazon của đất nước Brazil. Hơn thế nữa, ông cũng tình nguyện ở lại đó và làm việc bên cạnh những người nghèo mà ông hết sức yêu quí ông tâm sự:

– Khi còn học trung học, tôi được cùng một nhóm trưởng sinh hoạt dưới sự hướng dẫn của một cha dòng Phanxicô. Chúng tôi thường đi thăm các gia đình nghèo tại ngoại ô thành phố Milano.

Rồi một hôm, một tu sĩ già trong dòng đã nhờ tôi phân phát thức ăn cho những người thiếu đói đang tìm đến tu viện. Tôi chú ý thấy trong căn phòng có treo một tấm hình cha Daniel Samarate, một vị thừa sai của Dòng Phanxicô đã chết vì bệnh cùi sau một thời gian phục vụ các thổ dân ở Brazil.

Trong suốt buổi phân phát thức ăn hình ảnh ấy cứ luôn hiển hiện trước mắt tôi nơi những con người nghèo khổ. Kể từ lần ấy, ước muốn phục vụ những người phong cùi đã nảy sinh trong tôi.

Sau khi tốt nghiệp đại học, Marcello đã tình nguyện đi làm việc không công tại nhiều quốc gia nghèo trên thế giới. Sau một chuyến ghé thăm ruột vùng cư dân nghèo nàn lạc hậu ở Brazil, Marcello đã trở về và quyết định bán hết gia sản thừa kế và chuyển sang Brasil học lấy bằng tiến Y khoa. Ông đã xây cất được một bệnh viện với 120 giường, được trang bị đầy đủ các dụng cụ để phục vụ riêng cho người nghèo.

Chúng ta vừa nghe một trong những đoạn Tin Mừng có nhiều chất an ủi nhất ở trong Tin Mừng. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II rất thích đoạn Tin Mừng này. Ngài đã chọn để đọc trong ngày lễ đăng quang của Ngài.

Chỉ trong một đoạn văn vắn như thế mà 3 lần Chúa Giêsu bảo với các môn đệ: “Đừng sợ”.

1. Mệnh lệnh thứ nhất được ghi ở trong câu 26-27. Đừng sợ. Lý do:

a/ Vì chẳng có gì che giấu mà sẽ không bị lộ ra và chẳng có gì kín đáo mà sẽ không được biết đến.

Khi nói như thế Chúa muốn nói rằng: Sự thật sẽ toàn thắng. Châm ngôn Latinh có câu: “ Sự thật là vĩ đại. Sự thật sẽ toàn thắng”. Khi vua Giacôbê VI hăm dọa treo cổ hoặc lưu đày Andrê Meville, ông đã nói thẳng với nhà vua: “Vua không thể treo cổ và lưu đầy sự thật được”. Khi Kitô hữu chịu khổ hay hy sinh, thậm chí có phải chết vì đạo đi nữa thì cũng phải nhớ rằng một ngày kia mọi sự sẽ được phơi bày. Lúc đó quyền lực của kẻ bách hại và sự anh dũng của người theo Chúa sẽ được minh giải và mỗi người sẽ nhận được đúng với những gì mình đã làm.

Chính vì thế mà người theo Chúa phải biết mạnh dạn rao giảng những gì Chúa truyền dạy. Phải nói điều mình đã nghe và đã sống, dù việc loan báo như thế có phải chuốc lấy vạ vào thân hay thậm chí có phải mất mạng đi nữa.

Tại sao lại như thế? Thưa vì thế gian không ưa thích sự thật. Nhà triết học Diogene bảo: “Sự thật như ánh sáng chiếu vào mắt làm cho mắt bị đau”.

Một lần kia Giáo sĩ Latimer giảng. Hôm đó có cả vua Henri tham dự. Ngài biết mình sắp phải nói điều nhà vua không ưa. Được Chúa soi sáng từ trên tòa giảng Ngài nói thật lớn như nói với chính mình: “Latimer. Latimer, Latimer…Hãy coi chừng điều ngươi sắp nói…Có Đức Vua nghe đấy” Sau đó ngài ngừng một chút rồi nói tiếp: “Latimer. Latimer, Latimer..Hãy coi chừng điều ngươi nói.Vì có Đức Vua của các vua đang ở đây”. Người loan báo Tin Mừng loan báo cho loài người nhưng phải loan báo trong sự hiện diện của Thiên Chúa.

Khi chôn Gioan Knox người ta đã nói về ông như thế này: “Đây là nơi an nghỉ của một người kính sợ Thiên Chúa đến nỗi không bao giờ sợ hãi trước mặt loài người”.

Chứng nhân của Chúa Kitô là người không biết sợ vì biết rằng sự phán xét đời đời sẽ điều chỉnh lại sự phán xét tạm thời.

2. Mệnh lệnh thứ hai nằm ở trong câu 28.

Một cách đơn giản điều Chúa Giêsu muốn nói ở đây phải hiểu là không có hình phạt nào của con người có thể so sánh được với số phận tối hậu của một người cả dám phạm tội bất tuân đối với lệnh Chúa truyền. Con người chỉ có thể giết chết được thân xác. Thiên Chúa mới là Đấng có thể lên án chết cho cả xác và hồn.

Người Do thái hiểu rất rõ điều Chúa muốn nói: nếu Chúa mà trừng phạt thì thật là khủng khiếp. Sách khôn ngoan có chép: “Quả thực Thiên Chúa có quyền trên sự sống và sự chết. Ngài đưa xuống tận âm phủ rồi lại kéo ra. Còn người ta do lòng gian ác có thể giết chết, nhưng khi linh hồn xuất ra rồi, nó không tài nào dẫn về được, cũng không giải thoát linh hồn ra khỏi âm phủ được”.

Trong cuộc khởi nghĩa Maccabê, lúc phải chịu chết vì đạo 7 anh em trong gia đình đã dùng những lời như thế này để khích lệ nhau: “Đừng sợ những kẻ tưởng có thể giết chết được chúng ta. Những cực nhọc và đau đớn khủng khiếp của phần hồn trong sự trừng phạt đời đời đang chờ đợi những ai dám vi phạm giới răn của Đức Chúa Trời”

b/ Phải nhớ rằng những hình phạt của loài người chẳng có nghĩa gì đối với sự trừng phạt của Thiên Chúa cũng như phần thưởng người thương ban.

3. Mệnh lệnh thứ 3 nằm ở trong câu 31

Đừng sợ vì Thiên Chúa luôn chăm lo cho những ai biết phụng sự Người.

Nếu Người đã chăm sóc cả đến những con chim sẻ thì chẳng lẽ Người lại không lưu tâm để ý đến những kẻ phụng sự Người sao?

Mathêo nói: hai con chim sẻ được bán để lấy một xu, ấy thế mà có con nào rơi xuống đất mà Chúa không để ý đến đâu.

Luca diễn tả lời Chúa nói dưới một hình thức khác “Năm con chim sẻ há chẳng bán được hai đồng sao? Thế mà trước mặt Thiên Chúa không một con nào bị bỏ quên” (12,6).

Chắc chắn khi Chúa phán những lời đó, người Do thái hiểu rất rõ. Chẳng có dân tộc nào hiểu rõ sự chăm sóc tỉ mỉ của Thiên Chúa đối với con người bằng dân tộc được Chúa tuyển chọn một cách đặc biệt.

Rabi Chania nói: “Ở trần gian này không ai làm tổn thương đến ngón tay mình trừ khi Thiên Chúa đã định” Trong sách của các Rabi còn ghi lại câu này: “Chúa Giavê nuôi cả thế giới từ cái sừng trâu cho đến cái trứng rận”

Tình thương của Thiên Chúa không phải chỉ được diễn tả qua việc tạo thành hay trong những biến cố lớn lao của Lịch sử mà chúng ta còn có thể tìm thấy được cả trong sự chăm nuôi của Thiên Chúa dành cho con người cũng như các thụ tạo của Người.

Như vậy thì chúng ta còn phải sợ ai ?

II. Vâng kính thưa anh chị em. Đó là những lời đầy lòng yêu thương của Chúa. Nhưng trong thực tế thử hỏi rằng những người theo Chúa có dám sống như Chúa mong muốn hay không? Câu trả lời là vừa có vừa không. Trong cơn bách hại chắc chắn có những người sẽ trung thành nhưng bên cạnh đó chắc chắn cũng có những người phản bội. Chúa đã thấy trước điều đó và chính vì thế mà Chúa long trọng nói lên như một lời hứa, như một lời thề “Vậy ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời thì Thầy sẽ tuyên xưng người ấy trước mặt Cha Thầy là Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt người đời thì Thầy sẽ chối người đó trước mặt Cha Thầy là Đấng ngự trên trời.”

Nhìn lại Lịch sử của Giáo Hội, chúng ta đã thấy có rất nhiều anh hùng. Đầu tiên là nhóm 12. Ngoại trừ một mình Giuđa. Giuđa có tội bán Chúa. Nhưng cái tội lớn hơn theo tôi đó là tội thất vọng, tội mất niềm vào Chúa và vì thế Ông đã kết thúc cuộc đời của mình một cách thảm bại. Còn các tông đồ khác, các Ngài đã trung thành tới cùng mặc dầu trên con đường theo Chúa họ có cả những lỗi lầm. Chúng ta còn nhớ lời tuyên bố thật rõ ràng của Phêrô và Gioan trước Thượng Hội đồng của người Do Thái: “Chúng tôi không thể không nói lên những điều chúng tôi đã mắt thấy tai nghe”

Sau đó chúng ta được chứng kiến những trang sử hào hùng của 3 thế kỷ đẫm máu, thời mà Giáo Hội phải thở bằng máu. Dù bị phanh thây phơi xác, các anh hùng tử đạo cũng luôn trung thành.

Nhìn vào Giáo Hội VN những trang sử ban đầu cũng thế… đẫm máu, nhưng đó là những trang sử hào hùng để lại cho những thế hệ mai sau một niềm tự hào thánh thiện vì họ là dòng dõi của những tổ tiên anh hùng .

Rồi trải qua suốt dòng lịch sử, những chứng nhân kiên cường và anh hùng vẫn không thiếu.

Mới đây tại Algérie một nhóm tu sĩ Trappiste bị nhóm Hồi giáo cực đoan bắt cóc và sau đó Bộ trưởng Nội Vụ Algérie tuyên bố là đã tìm thấy xác 7 đan sĩ đã bị giết. Trong một lá thư gửi cho gia đình cách đây hai năm, một tu sĩ trong nhóm bị sát hại đã viết: “Nếu con có chết thì cũng đừng coi cái chết của con như là một sự tử đạo. Việc tử đạo quá dễ. Nhưng hãy coi cái chết của con như là việc hoàn thành một hy tế mà Đức Giêsu muốn con cùng dâng hiến với Ngài”.

Mình Máu Thánh Chúa! Một mầu nhiệm vừa tế nhị vừa rất khó hiểu.

I. CÁI NHÌN LỊCH SỬ

Cũng như Mầu nhiệm Phục sinh, mầu nhiệm Mình Máu Thánh Chúa có liên hệ rất mật thiết với cuộc đời của mỗi người chúng ta

Để chuẩn bị cho các tông đồ đón nhận mầu nhiệm Phục sinh, Chúa đã thực hiện ba phép lạ:

1/ Cho con gái ông Giairô mới chết được sống lại.

2/ Phục sinh chàng thanh niên con bà góa thành Naim, đã chết, người ta đang khiêng đi chôn,

3/ Cuối cùng là phục sinh Lazarô, người đã chết và đã chôn trong mộ bốn ngày.

Cũng vậy để chuẩn bị cho các tông đồ và những người tin Chúa đón nhận Màu nhiệm Thánh Thể, Chúa đã làm 2 phép lạ thật lớn: Hóa bánh ra nhiều hai lần và cộng thêm vào đó là một bài giảng rất dài và rất quyết liệt về Bánh hằng sống. Chúa nói thật rõ: “Thịt ta thật là của ăn và máu Ta thật là của uống – Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta sẽ được sống đời đời”(Ga 6,55)

Lời Chúa là như thế nhưng tin vào bánh trở thành thịt và rượu trở thành máu Máu Chúa vẫn còn là một khoảng cách rất dài.

Vào thế kỷ thứ 8 tại Lanciano nước Ý, một linh mục dòng thánh Basiliô đang khi cử hành thánh lễ, sau khi truyền phép xong, bỗng nghi ngờ sự hiện diện của Chúa dưới hình bánh rượu thì lập tức Phép lạ đã xảy ra ngay trong tay vị linh mục đó: Bánh trở nên thịt sống và rượu trở nên máu tươi.

Đây là phép lạ hàng đầu- và có thể coi là phép lạ lớn nhất trong số hơn 40 phép lạ Chúa đã làm trải dài qua dòng thời gian cho đến ngày hôm nay, để củng cố niềm tin của con người trước mầu nhiệm kỳ diệu này.

Phép lạ tại Lanciano còn được lưu giữ cho đến ngày hôm nay tại nhà thờ Thánh Phanxicô bên Ý. Giáo quyền đã cho phép thực hiện nhiều cuộc giảo nghiệm do giáo quyền cùng làm việc với những người chuyên môn:

Năm 1574 do Đức Cha Rodriguez.

Năm 1637 do Cha Tổng đại diện Giáo phận

Năm 1770 do Đức Cha Cervasone

Năm 1886 do Đức Cha Fetrarco

Và gần đây nhất vào thời đại của chúng ta, do nhu cầu cần phải xác minh thêm một lần nữa, giáo quyền đã cho phép thực hiện một cuộc giảo nghiệm mới, với những phương tiện mới hơn để khẳng định một cách khách quan hơn về tính cách lạ lùng của Phép lạ này.

Được giáo quyền cho phép, ngày 18/11/1970 các cha dòng Phanxicô, những người có trách nhiệm bảo lưu đã trao thánh tích cho một nhóm chuyên viên khoa học để họ làm công việc tế nhị và khó khăn này.

Nhóm này do Giáo sư Odoardo Linoli với sự cộng tác của Giáo sư Ruggero Bartelli thuộc đại học nổi tiếng Siena điều khiển.

Công việc được thực hiện một cách hết sức khoa học và nghiêm túc. Đến ngày 4/3/1971 tại nhà thờ Thánh Phanxicô chính Giáo sư Linoli chủ tọa buổi đúc kết công trình nghiên cứu trước sự hiện diện của giáo quyền, chính quyền, đại biểu giới văn học, y học. Các cuộc phân tích được minh họa bằng một loạt các hình ảnh chụp dưới kính hiển vi.

Sau đây là kết luận của công trình nghiên cứu được nhiều tạp chí khoa học trên thế giới đăng tải

1. Thịt này là thịt thật. Máu này đúng là máu thật.

2. Thịt và máu là thịt và máu của con người

3. Thịt và máu đều thuộc cùng nhóm A-B

4. Đồ hình của Máu này giống với đồ hình của máu người được trích lấy từ một cơ thể con người trong một ngày.

5. Thịt được làm thành từ mô cơ tim.

6. Thịt máu hoàn toàn giống với thịt máu của một người sống thực sự.

7. Không hề tìm thấy dấu vết việc tẩm ướp mô tế bào bởi bất cứ một hóa chất nào được dùng trong kỹ thuật bảo trì bằng tẩm ướp.

8. Miếng thịt này được lấy ra từ phần thịt của trái tim một cách khéo léo tuyệt mỹ như do một nhà phẫu thuật tài ba thực hiện.

9. Hàm lượng các protéin chứa trong máu được phân phối đều đặn theo tỷ lệ y hệt như trong đồ hình protéin huyết thanh của máu tươi bình thường.

10. Trong máu có các chất chlorua, photspho, manhêdi, potassium, sodium và calcium.

11. Việc các di vật thánh này được lưu giữ một cách tự nhiên từ bao thế kỷ, bất chấp ảnh hưởng của những xúc tác vật lý, không khí, sinh vật…là một hiện tượng không sao giải thích được theo phương diện khoa học.

Như vậy chúng ta có thể nói sau khi được mời gọi để thẩm định, Khoa học đã nói lên tiếng nói khách quan của mình về phép lạ Chúa đã làm tại Lanciano.

II. CHÚA LẬP BÍ TÍCH THÁNH THỂ ĐỂ LÀM GÌ?

a/ Trước hết để thực hiện một lời hứa: “Thầy sẽ ở với chúng con mọi ngày cho đến tận thế”(Mt 28,20)

Thiên Chúa muốn được gần gũi với con người, tạo vật kỳ diệu nhất trong chương trình sáng tạo của Thiên Chúa.

Ngay từ trong Cựu Ước, ý muốn đó đã được nói lên:

* Nói lên bằng lời: “Niềm vui của Ta là được ở giữa loài người.”

* Nói lên một cách cụ thể bằng hòm bia thánh.

* Nói lên bằng một việc làm cụ thể: Đó là Bí tích Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể – nói theo Cha Teilhard de Chardin – là để Chúa có thể hiện diện tràn lan trên khắp địa cầu.

b/ Để tiếp tục bày tỏ cho con người biết là Thiên Chúa luôn luôn yêu thương con người và cho con người được sống sự sống của Ngài.

Về điểm này Cha Teilhard de Chardin diễn tả rất hay: “Nhờ hiệu quả của việc Ngài dấn mình vào giữa lòng thế giới mà những dòng nước lớn của vật chất êm đềm có đầy sức sống. Nhìn bề ngoài thì chẳng có gì xao động dưới cuộc biến dạng khôn tả này. Tuy nhiên khi tiếp xúc với Lời Bản thể thì vũ trụ đã trở thành nhục thể Ngài cách kỳ diệu”.

Con người được sống chính sự sống của Thiên Chúa. Thiên Chúa chia sẻ sự sống của Chúa cho con người. Chẳng có gì hạnh phúc hơn. Chẳng có gì kỳ diệu hơn.

c/ Cuối cùng, Chúa ở trong Bí tích Thánh Thể để giúp cho mọi người nhận ra mình là anh chị em với nhau trong Chúa.

Trong cuộc khủng hoảng con tin xảy ra ở Perou cách đây không lâu. Một cuộc khủng hoảng dai dẳng, nghẹt thở kéo dài nhiều tuần lễ, người ta đã hết lời ca tụng một người. Người đó chính là cha Juan Julio Wicht. Ngài được thả vào ngày nhưng ngài tình nguyện ở lại. Việc Ngài ở lại đã làm nức lòng thủ lãnh của quân khủng bố. Ngày 18/4/1965 nhân ngày sinh nhật của Ngài, Nestor Cerpa Carlotini thủ lãnh quân khủng bố có gửi đến Ngài một điện văn như sau: “Mặc dù giữa chúng ta có những khác biệt nhưng chúng tôi muốn gửi đến cha những lời chúc tốt đẹp nhất nhân ngày sinh nhật của cha cũng như lòng kính trọng của chúng tôi với quyết định ở lại của cha”.

Sau này khi được hỏi về những ngày bị giam giữ, Cha Juan Julio Wicht đã nói: “Các du kích đã không làm gì xúc phạm đến chúng tôi trong lời nói cũng như trong việc làm”

Chính sự hiện diện của Cha đã làm cho mọi người đối xử tốt với nhau hơn.

Chúa Giêsu cũng thế. Đây là tâm sự của cha Jacques Loew: “Tôi có thể nói như hai môn đệ Emmau: Tôi nhận ra Ngài lúc Ngài bẻ bánh. Chính lúc bẻ bánh chúng tôi mới nhận ra chúng ta là anh chị em trong Đức Kitô. Có những người mà trước đó gặp ngoài đường, chúng ta dửng dưng như người xa lạ, nhưng trên bàn tiệc thánh, chúng ta thấy gần gũi với nhau. Tôi gặp Chúa Kitô nơi họ, cũng như họ gặp Chúa Kitô nơi tôi. Bởi chúng tôi cùng tin Phúc Âm, cũng lãnh nhận một của ăn là Mình và Máu Thánh Chúa Kitô”.

Kính thưa anh chị em,

Suốt trong thời gian thật dài vừa qua, chúng ta đã có dịp nói với nhau nhiều về Chúa Giêsu.

Tuần vừa qua chúng ta đã suy niệm về Chúa Thánh Thần.

Hôm nay Giáo Hội dẫn chúng ta vào trọng tâm quan trọng nhất của niềm tin khi Giáo Hội, hướng chúng ta về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm cột trụ của Đạo.

Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm rất khó trình bày. Khó không phải về phía Thiên Chúa mà khó về phía con người chúng ta. Ngôn ngữ của chúng ta không đủ sức để diễn tả về một mầu nhiệm cao cả như thế này.

Ở đây tôi cũng không dám có một tham vọng làm cho anh chị em hiểu thật rõ mầu nhiệm này. Tuy nhiên tôi cũng phải cố gắng nói một điều gì đó cho việc cử hành phụng vụ hôm nay.

Tôi xin dựa vào Thánh Kinh để nói với anh chị em. Vậy thử hỏi Thánh Kinh đã nói gì về mầu nhiệm này?

A. Trước hết là Cựu ước.

Có thể nói Cựu ước không có một chỉ dẫn nào rõ rệt về Mầu nhiệm này.

a- Hình ảnh đầu tiên mà người ta gặp ở trong Cựu Ước về Thiên Chúa là hình ảnh về một Thiên Chúa đầy uy quyền và đáng sợ.

+ Ngay từ chương đầu của sách Sáng Thế Ký, chúng ta đã thấy điều đó. Chỉ cần một lời là Thiên Chúa đã làm nên mọi sự. Cả công trình sáng tạo: Chỉ cần Thiên Chúa phán một lời là có tất cả. Đối với con người thì cách diễn tả có hơi khác một chút nhưng tựu trung thì chúng ta thấy Thiên Chúa chẳng cần phải vất vả gì Người cũng làm được mọi sự Người muốn.

+ Nhưng bên cạnh đó ta cũng thấy một Thiên Chúa thật đáng sợ. Thiên Chúa tập trung mọi quyền hành trong tay của Người, sẵn sàng trừng phạt tất cả những ai dám chống đối, dám đi ngược lại với những cấm kỵ mà Người đã ban bố. Câu chuyện Adam-Evà và nhất là câu truyện lụt Đại Hồng Thủy cho chúng ta thấy điều đó. Thiên Chúa sẵn sàng dìm gần như cả loài người xuống nước khi loài người cố tình đi xa đường lối của Chúa. Cha Maurice Zundel gọi Thiên Chúa của thời kỳ này là “Thiên Chúa cảnh sát.”

b- Bước sang giai đoạn thứ hai của Cựu Ước.

Bên cạnh hình ảnh một Thiên Chúa đầy uy quyền, chúng ta còn thấy một Thiên Chúa độc tôn, duy nhất và xa cách với con người.

+ Bài sách thánh thứ I mà chúng ta vừa nghe khẳng định một chân lý thật quan trọng trong giai đoạn này: Thiên Chúa là Đấng thống trị, Chúa duy nhất.

+ Thiên Chúa duy nhất đó vẫn còn là một Thiên Chúa đáng kính sợ…loài người không xứng đáng được gần Người. Moise phải tụt giày ra mới được chạm tới nơi Người ngự xuống. Dân chúng thì phải cách xa hơn…kẻ nào dám vượt qua cái giới hạn đã được vạch sẵn thì lập tức sẽ phải chết.

+ Sau này khi hòm bia Giao Ước được trao cho con người gìn giữ thì cũng chỉ có những ai được chỉ định đặc biệt mới được vào mà dâng hương. Ngoài ra thì không ai được bén mảng tới. Kẻ nào mà dám liều lĩnh thì hình phạt sẽ không thể lường được.

Đó là hình ảnh về một Thiên Chúa mà chúng ta gặp trong Cựu Ước.

B. Bước sang thời Tân Ước, chúng ta đã thấy có một bước nhảy vọt thật đáng mừng. Thiên Chúa không còn phải là Thiên Chúa đầy uy quyền và xa cách với con người nữa mà đã trở thành một Thiên Chúa gần gũi với con người.

+ Chúng ta hãy nhớ lại câu chuyện sứ thần truyền tin cho Đức Maria. Thật là một sự thể không ai có thể tưởng tượng trước được. Một Thiên Chúa làm người. Người trở thành EMMANUEL…nghĩa là Thiên Chúa ở giữa chúng ta. Thiên Chúa không còn xa cách con người nữa nhưng đã đi vào cuộc sống và sống như một con người, bằng xương bằng thịt. Thánh Gioan đã viết cho các tín hữu của Người như thế này: “Chúng tôi đã sờ thấy Ngôi Lời hằng sống” Phêrô cũng viết tương tự như thế: “Chúng tôi đã được cùng ăn cùng uống với Người”

+ Thời đại của một Thiên Chúa đáng sợ và xa cách đã chấm dứt để nhường chỗ cho một Thiên Chúa hiền lành và khiêm nhường ở giữa loài người. Tuy nhiên đó chưa phải là hình ảnh mà Thiên Chúa muốn cho con người chúng ta có về Người.

+ Hình ảnh đúng mà con người phải có về Thiên Chúa là hình ảnh về một Thiên Chúa Ngôi vị. Đây là mặc khải quan trọng nhất trong cuộc đời công khai của Chúa Giêsu. Hình ảnh này phải đợi mãi tới những ngày cuối cùng trong cuộc đời trần thế của Chúa Giêsu chúng ta mới được Người mặc khải cho chúng ta khi Người nói cho chúng ta về Chúa Cha và Chúa Thánh Thần…và nhất là lệnh truyền của Người khi Người sai các sứ giả phải nhân danh Chúa Cha – Chúa Con và Chúa Thánh thần mà rao giảng cho mọi người biết về một Thiên Chúa yêu thương loài người.

Vâng chính vì yêu thương mà Chúa đã dựng nên loài người. Cũng vì yêu thương mà Người đã cứu chuộc và cũng chính vì yêu thương mà Người vẫn tiếp tục thánh hóa loài người chúng ta. Người chính là Tình yêu.

Chúng ta hãy hết lòng thờ kính Người.

C. Abraham từ ngày được Chúa chọn ngày càng sống tâm tình với Chúa và xa cách các thần tượng. Thấy thế ông thân sinh dẫn Abraham đến trước mặt vua Ramos.

Nhà Vua hỏi Abraham:

– Tại sao nhà ngươi lại không tôn thờ các thần tượng của vương quốc?

+ Tâu hoàng thượng! – Abraham trả lời một cách cương quyết. Bởi vì lửa có thể thiêu rủi các thần tượng ấy.

– Như vậy thì hãy tôn thờ lửa. Nhà vua nói.

Abraham thưa lại:

+ Nếu thế thì hạ thần tôn thờ nước thì tốt hơn. Vì nước dập tắt được lửa.

– Thế thì hãy tôn thờ nước.

+ Tâu hoàng thượng, không. Hạ thần tôn thờ mây thì tốt hơn bởi vì nước từ mây mà ra.

– Thế thì hãy tôn thờ mây đi.

+ Tâu hoàng thượng không. Vì gió mạnh hơn mây và gió thổi làm mây phải tan biến.

– Vậy thì hãy tôn thờ gió.

Nghe thế Abraham trả lời vua Ramos:

– Nếu gió là Thiên Chúa…thì ta hãy tôn thờ con người vì con người có hơi thở.

Nhà vua đã bắt đầu có dấu hiệu không còn đủ kiên nhẫn, tuy nhiên nhà vua cũng ráng giữ vẻ ôn tồn bảo Abraham:

– Vậy thì hãy tôn thờ con người

Abraham trả lời:

+ Tâu hoàng thượng không ! Vì con người phải chết.

Nhà vua giận dữ quát lên:

– Vậy hãy tôn thờ sự chết đi.

Abraham dõng dạc trả lời: “Đấng duy nhất phải tôn thờ là Chúa tể của cả sự sống và sự chết. Đấng đó là Thiên Chúa, Chúa của hạ thần”.

Vâng chúng con cũng vậy. Chúng con xin tôn thờ Chúa là Chúa của chúng con. Chính Chúa đã ban cho chúng con sự sống. Chính Chúa cứu chuộc chúng con để chúng con được sống dồi dào. Vận mệnh của mỗi người chúng con ở trong tay Chúa. Xin Chúa giữ gìn và thánh hóa chúng con, giúp chúng con đạt tới quê hương trên trời mai sau. Amen.

Các bản văn Phụng Vụ hôm nay ít nhiều đều nói về Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần có một vai trò rất quan trọng trong công trình sáng tạo, cứu độ và thánh hoá loài người của Thiên Chúa. Hoạt động của Chúa Thánh Thần rất phong phú và đa dạng. Nhân lễ Chúa Thánh Thần hôm nay chúng ta sẽ nói về một số những hoạt động của Người.

A. Trước hết Chúa Thánh Thần hoạt động trong lịch sử ơn Cứu độ.

Câu đầu tiên của Sách Thánh ghi như thế này: “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Ðất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước”(St 1,1-2).

Như vậy ngay từ giây phút đầu tiên khi trời đất muôn vật vừa được tạo thành thì Thần Khí Thiên Chúa đã có mặt để thực hiện việc sáng tạo nên muôn loài muôn vật và cả con người.

Rồi trong Tân ước, cũng chính Thần Khí đó luôn có mặt từ lúc Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm người cho đến ngày Giáo Hội được sinh ra.

Thánh Luca ghi lại những giây phút đầu tiên thật cảm động :”Bà Êlizabeth vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. (Lc 1,42)

Chúa Thánh Thần hoạt động trong Giáo hội sơ khởi và thực hiện bao nhiêu việc lạ lùng qua các tông đồ như lời của Chúa Giêsu: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Jêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất.”(Cv 1,8)

Và Chúa Thánh Thần luôn hiện diện, hoạt động trong Hội thánh và trong mỗi người chúng ta cho đến ngày tận cùng thế giới. (Theo “Con đường hạnh phúc”).

B. Bây giờ chúng ta hãy dừng lại trước biến cố trước mà sách Tông Đồ Công Vụ đã tường thuật lại một cách đặc biệt hôm nay. Chúa Thánh Thần đã đổi mới các tông đồ của Chúa.

1. Đầu tiên là đổi mới trí khôn.

Chúng ta biết các Tông đồ xưa là những người làm nghề chài lưới, ít học. Suốt 3 năm ở bên cạnh Chúa Giêsu, các ngài đã được Chúa dạy dỗ nhiều điều nhưng các ngài vẫn không hiểu. Vậy mà sau khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, trí khôn các ngài như được mở ra. Không những các ngài hiểu biết về Chúa, hiểu biết giáo lý của Chúa, mà còn có thể đi giảng dạy cho người khác nữa.

Ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Ngài đã biến những con người thất học nên hiểu biết. Ngài đã đổi những tâm trí u mê thành sáng suốt.

2. Thứ đến là đổi mới ý chí.

Từ khi Chúa Giêsu bị bắt và bị kết án, các Tông đồ sống trong sợ hãi. Các ngài đã trốn chạy. Tông đồ Phêrô đã chối Chúa. Các ngài ẩn nấp trong nhà đóng kín cửa. Nhưng khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, con người các ngài đã hoàn toàn thay đổi. Các ngài mở tung cửa ra đi rao giảng Tin Mừng cho mọi người. Bị đe dọa, các ngài vẫn không sợ. Bị đánh đòn, các ngài vẫn kiên cường. Không gì có thể ngăn cản các ngài rao giảng, làm chứng cho Đức Kitô phục sinh. Sau cùng tất cả các ngài đã chịu đổ máu, hiến mạng sống mình để làm chứng cho Chúa.

Ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Ngài đã biến những con người yếu đuối nên vững mạnh. Ngài đã biến những con người nhút nhát nên can đảm.

3. Sau cùng là đổi mới trái tim.

Trước kia các ngài còn mang nặng những ước mơ trần tục. Theo Chúa để mong được chức trọng quyền cao, mong được ngồi bên tả bên hữu Chúa, tranh dành nhau chỗ cao chỗ thấp. Có thể nói, trước kia các ngài theo Chúa vì bản thân, vì chính các ngài. Các ngài chưa yêu mến Chúa bằng yêu mến bản thân. Nhưng từ khi được ơn Chúa Thánh Thần, trái tim của các ngài đã hoàn toàn thay đổi. Từ nay các ngài không còn tranh dành nhau chỗ cao chỗ thấp, ngồi bên tả hay bên hữu. Nhưng các ngài biết sống nhường nhịn yêu thương. Từ nay các ngài dành trọn trái tim cho Chúa, yêu mến đến sẵn sàng chịu mọi đau khổ, và nhất là sẵn sàng chết vì Chúa.

Ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Đã biến đổi những trái tim chai đá thành những trái tim bằng thịt. Đã biến đổi những trái tim ích kỷ thành những trái tim yêu thương.

Chính vì thế mà khi bàn về vai trò của Chúa Thánh Thần đối với Giáo Hội, Thượng phụ Athénagoras không ngần ngại quả quyết: “Không có Thánh Thần, Thiên Chúa sẽ ở xa, Đức Kitô bị khép lại ở trong quá khứ, Tin Mừng sẽ chỉ là những dòng chữ chết. Hội Thánh sẽ chỉ là một tổ chức bình thường, quyền bính sẽ trở thành một thứ áp bức, và công việc truyền giáo sẽ trở thành một việc tuyên truyền không hơn không kém. Rồi việc tế tự, một trong những sinh hoạt quan trọng nhất trong đạo của chúng ta sẽ chỉ còn là một thứ tưởng niệm và hoạt động Kitô giáo sẽ chỉ là một thứ đạo đức nô lệ.”

Hôm nay ta hãy tha thiết xin ơn Chúa Thánh Thần đến đổi mới con người xưa cũ của ta.

Đổi mới Trí khôn u mê không hiểu Lời Chúa, không nhận biết thánh ý Chúa thành trí khôn biết bén nhạy với Lời Chúa.

Đổi mới Ý chí bạc nhược không đủ sức làm việc lành, hèn nhát không dám làm chứng cho Chúa thành ý chí biết phục thiện và can đảm làm chứng cho chân lý.

Đổi mới Trái tim nhơ uế vì những ích kỷ nhỏ nhen, vì những ham muốn trần tục thành trái tim quảng đại, biết tha thứ và yêu thương.

Xin được kết thúc bắng một chứng từ rất cảm động đã xảy ra tại một giáo xứ nọ.

Trong giáo xứ tôi có cụ già tên là Thomas ngoài trăm tuổi. Cụ thường sống cô đơn vì các bạn cùng tuổi với cụ đã ra đi. Một hôm cụ lâm bệnh và qua đời. Tôi tự nhủ:

– Chắc không có ai đến dự đám tang của cụ. Vì thế tôi nhất định đến tiễn cụ đến nơi an nghỉ cuối cùng.

Hôm ấy lại là ngày xấu trời, mưa tầm tã. Theo sau xe tang không có một bóng người, đường xá vắng tanh. Khi xe chạy tới cổng nghĩa trang, tôi thấy có một người đàn ông trong y phục quân đội đứng đợi. Ông đi theo xe tang đến huyệt và có mặt trong suốt thời gian an táng. Trước khi hạ huyệt ông đưa tay ngang trán, nghiêm chỉnh chào cụ Thomas như một vị vua.

Chôn cất xong, tôi đi theo ông ra cổng nghĩa trang. Một cơn gió mạnh bay tốc áo mưa, để hộ ra mấy cái huy chương trên áo ông. Thì ra ông không chỉ là một binh lính thường mà còn là một sĩ quan cao cấp. Như đọc được sự tò mò của tôi, ông nói:

– Có lẽ ông ngạc nhiên vì sự có mặt của tôi hôm nay trước linh cửu của cụ Thomas. Trước đây cụ là thầy dạy của tôi. Lúc đó tôi là một đứa trẻ tinh nghịch làm khổ cụ rất nhiều. Tôi được như ngày hôm nay là nhờ ơn của cụ. Vì thế hôm nay tôi đến tạ ơn và chào vĩnh biệt cụ, với tất cả tấm lòng trìu mến tri ân của tôi đối với cụ

Thử hỏi: Ai đã làm cho lời giáo hóa và gương sáng của cụ Thomas sinh hoa trái? Đâu là sức mạnh đổi mới tâm hồn đứa trẻ tinh nghịch nên một con người có thế giá?

Thưa chính là Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần đã âm thầm tác động làm cho những lời dạy và tấm lòng tốt của cụ Thomas đem đến những kết quả lạ lùng như thế.

Anh chị em thân mến

Hôm nay chúng ta cùng với Giáo hội mừng lễ Chúa Giêsu lên trời. Nói một cách văn vẻ hơn một chút thì chúng ta gọi là Chúa Giêsu thăng thiên. Việc lên trời hay Thăng Thiên của Chúa phải được hiểu như thế nào?

1. Chc chn chúng ta không được hiu theo nghĩa hoàn toàn vt cht.

Tôi nhớ đến một câu chuyện xảy ra cách đây cũng đã khá lâu: ngày 5-9-1961. Sau khi Nga sô đã đưa được người đầu tiên lên không gian, trong một cuộc phỏng vấn, Tổng Bí thư Krouchev của Nga đã nói với ký giả của tờ New York Time lúc đó rằng: “ Để điều tra trên trời có Thiên Đàng thật như người ta nói hay không, chúng tôi đã gửi một thám tử lên không trung: Youri Gararine. Anh đã đi vòng quanh quả địa cầu mà chỉ trông thấy những bóng đen dày đặc, không có chi giống như Thiên Đàng cả. Sau đó chúng tôi đã suy nghĩ và chúng tôi lại gửi một thám tử khác lên: German Titov. Chúng tôi đã bảo anh rằng: “Hãy bay lâu hơn một chút nữa. Có lẽ Gagarine chưa thấy Thiên Đàng vì chàng chỉ mới bay có một tiếng rưỡi thôi. Vậy chuyến này anh hãy nhìn cho kỹ”

Titov đã trẩy đi, rồi trở về và anh xác nhận lời tuyên bố của Gagarine: “Hư vô! Chỉ có Hư vô!”

Rồi Krouchev kết luận: “Cho nên người cộng sản chúng tôi không tin có đời sau”.

 

Đó là cái nhìn của một người cộng sản, một cái nhìn hoàn toàn duy vật. Đúng hay không thì chúng ta không cần phải xét những chắc chắn đó không phải là cái nhìn của chúng ta.

2. Với biến cố lên trời hôm nay chúng ta thấy cuộc đời trần thế của Chúa được khép lại và một sứ mệnh mới được mở ra, mở ra cho các tông đồ thuở xưa và mở ra cho chúng ta hôm nay. Chính sự đan kết ý nghĩa này, mời gọi chúng ta suy niệm mầu nhiệm Thăng Thiên của Chúa một cách nghiêm chỉnh hơn và đồng thời chúng ta cũng phải lưu tâm đến trách nhiệm thừa sai của chúng ta.

Thăng thiên là mu nhim Chúa Giêsu được tôn vinh cách công khai.

– Thực ra thì Chúa Giêsu đã được tôn vinh ngay từ khi Phục sinh những tầm nhìn của các môn đệ chưa vươn tới.

– Phải cần một thời gian với sự hiện ra của Chúa các môn đệ mới được sáng mắt ra và sau đó bằng màu nhiệm Thăng thiên, các tông đồ mới thực sự thấy Chúa Giêsu được Thiên Chúa Cha tôn vinh như thế nào.

Như vậy việc thăng thiên chỉ là sự chia tay vắng mặt bằng con người các môn đệ có thể nhìn bằng mắt, bắt bằng tay chứ không phải là hoàn toàn vắng mặt bởi vì ngay trước khi về trời Chúa Giêsu đã khẳng định một cách hết sức rõ rệt với các tông đồ: “Thy s vi anh em mi ngày cho đến tn thế”(Mt 28,20).

Chúa ở như thế nào?

Chắc không phải là như trước đó. Suốt ba năm trời Chúa đã hiện diện giữa các môn đệ của Ngài. Hiện diện gần gũi, xương thịt, đến nỗi tông đồ Gioan đã phải nói lên: “Chúng tôi đã sờ thấy Ngôi Lời hằng sống”. Phêrô cũng phải xác nhận trước cộng đoàn những người Do thái: “Chúng tôi đã được cùng ăn cùng uống với Người”. Sự hiện diện như thế quả là rất cụ thể. Lịch sử cũng đã xác nhận. Đây không còn phải là một vấn đề phải tranh cãi.

Những với sự việc lên trời hôm nay, chúng ta thấy rõ, sự hiện diện cụ thể như thế không còn hay nói đúng hơn: không cn na.

Rõ ràng với việc được tôn vinh trong biến cố lên trời Chúa đã đổi cách thức hiện diện của Chúa: Đổi từ hữu hình sang vô hình. Đổi từ cuộc sống xác thịt sang cuộc sống thần linh, đổi để Người có thể hiện diện rộng lớn hơn, phổ quát hơn. Cha Teilhard de Chardin gọi sự hiện diện này là sự hin din tràn lan, tràn lan khắp địa cầu.

Lúc đầu các môn đệ chưa có thể chấp nhận được điều đó. Chính vì thế mà Chúa đã phải để một thời gian tương đối dài: 40 ngày sau Phục Sinh để tập cho các môn đệ làm quen với sự hiện diện đó bằng những lần hiện ra với các ông, cá nhân cũng như với tập thể, để rồi sau đó các ngài dám sống cuộc sống chứng nhân một cách triệt để hơn, mạnh dạn hơn, bất chấp những thách đố, bắt bớ và kể cả sự chết vì có Chúa luôn ở với các ngài.

Vâng! Nhờ có Chúa ở cùng mà cuộc sống của các tông đồ sau đó đã hoàn toàn đổi mới.

Cộng thêm với sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các ngài đã trở thành những chứng nhân không biết mệt mỏi trên con đường rao giảng và làm chứng. Kết quả các ngài để lại đã làm cho Voltaire một trong những nhà văn hào lớn của nhân loại đã phải ghen tức mà nói lên: “Ông Giêsu với 13 môn đệ của mình đã thay đổi cả bộ mặt của thế giới”.

3. Bây gi đến lượt chúng ta.

Như anh chị em biết, đền thờ Thánh Phêrô ở Roma là một trong 8 kỳ công lớn của Thế giới. Dịp năm thánh trước đây tin tức cho biết đã có 3.000.000 người hành hương về đây. Trong ngôi đền thờ này có một nhà nguyện nhỏ: Đó là nhà nguyện Sixtina rất nổi tiếng. Nguyện đường này đã được Đức giáo hoàng Sixto thứ 4 cho xây cất vào cuối thế kỷ thứ 15. Không những là nơi các vị hồng y tụ tập để bầu giáo hoàng hay còn là nơi để tổ chức những buổi họp quan trọng khác có tính cách thượng đỉnh, nguyện đường Sixtina còn là một bảo tàng viện với những tác phẩm nghệ thuật bất hủ, nhất là những bức bích họa của Michelangelo.

Bất cứ du khách nào đến Roma cũng tìm đủ mọi cách để được một lần chiêm ngắm các bức tranh được vẽ trên tường và trên trần nhà này. Người thưởng lãm không những chỉ ngắm nghía dưới khía cạnh lịch sử, nghệ thuật, văn hóa, nhưng còn để hồn hòa nhập vào niềm tin sâu sắc của nhà nghệ sĩ. Thật thế, tất cả những bức tranh mà Michelangelo đã thực hiện trong nhà nguyện Sixtina đều được cảm hứng từ Kinh thánh.

Nhà danh họa của chúng ta đã phải nằm ngửa trên một sàn gỗ hướng mặt về trần ròng rã không biết bao nhiêu năm trời. Truyền thuyết thuật lại rằng lúc đang xây dựng, một hôm Đức Thánh Cha Sixtô thứ IV vào tham quan công trình, thấy Michel Ange đang nằm ngửa lên để tô vẽ bức ảnh, Đức Thánh Cha có hỏi ông:

– Ông Michelangelo, chừng nào ông mới hoàn thành công việc đây?

Từ trên giàn gỗ, nhà danh họa đáp lại:

– Chừng nào còn có thể!

Vị giáo hoàng đường như mất hết kiên nhẫn:

– Thế ông có biết là ông đã bắt đầu mấy năm rồi chưa? Thế mà tôi vẫn chưa thấy gì hết…!

Một cách điềm tĩnh, Michelangelo trả lời:

– Thưa Đức thánh cha, con không làm việc cho đời tạm này, mà cho đời sau…

Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã yêu trái đất này,
và đã sống trọn phận người ở đó.
Chúa đã nếm biết
nỗi khổ đau và hạnh phúc,
sự bi đát và cao cả của phận người.

Xin dạy chúng con biết đường lên trời,
nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.

Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu,
chúng con thấy mình được thêm sức mạnh
để xây dựng trái đất này,
và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.

Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa,
xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời
không làm chúng con quên trời cao;
và những vẻ đẹp của trần gian
không ngăn bước chân chúng con tiến về bên Chúa.

Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con,
mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện.

Tâm tình của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay là tâm tình của một người sắp ra đi.

A. Chỉ còn một ít nữa thế gian sẽ không còn thấy thầy.(Ga 14,19)

Thời gian sống ở trên trần thế của Chúa sắp chấm dứt.

Lời tuyên bố của Chúa quả thực làm cho các môn đệ của Ngài phải hoang mang.

Thế nhưng đây mới chỉ là một vế trong sự bộc lộ về tương lai của Chúa chứ chưa phải là tất cả.

Vế thứ hai quan trọng hơn, an ủi hơn “Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi. Thầy sẽ đến với các con. Các con sẽ thấy Thầy vì Thầy vẫn sống và các con cũng sẽ sống”(Ga 14,18)

Đây là những lời rất thật của Chúa và những lời này sẽ được cụ thể hóa sau khi Chúa từ cõi chết sống lại.

Chắc hẳn anh chị em hãy còn nhớ cách thức sinh hoạt của Chúa sau biến cố Phục Sinh như thế nào. Thánh Phaolô bảo là cuộc sống đó đã được biến đổi. Biến đổi để có thể, nói theo kiểu của cha Teihard de Chardin “tràn ngập, tràn lan, phủ đầy” khắp nơi một cách cụ thể còn hơn cả khi Chúa chưa về trời như chính lời Chúa đã xác nhận: “Thầy sẽ ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế”.

Bằng cách nào?

a/ Trước hết bằng Bí tích Thánh Thể.

Với Bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu hiện diện tràn lan khắp địa cầu, qua đó con người có thể nhận ra Chúa đang thật gần gũi với mình.

Đây là câu chuyện của nhạc sĩ Hermann Cohn,

Là người Do thái và thần đồng đàn dương cầm, Hermann Cohn trở nên một học trò cưng của nhạc sĩ Franz Liszt. Ông đã lập một nhóm văn nghệ sĩ, đi biểu diễn khắp nơi, sống bê tha trụy lạc, duy hưởng thụ.

Ngày kia, có người ca trưởng nhờ Cohn chơi đàn phong cầm vào tháng hoa Đức Mẹ. Khi chầu phép lành, Cohn cảm thấy mình bị một lực nào đó cúi đầu thờ lạy, sự bắt buộc không thể giải thích được, mặc dầu ông không hiểu gì và không tin điều mình làm. Ông đến nhà thờ nhiều lần, luôn cảm nghiệm một sự hiện diện mà ông không thể giải thích được, mặc dầu ông không hiểu gì và không tin điều mình làm. Ông hỏi thăm người bạn công giáo về phép Thánh Thể; người bạn biếu ông quyển sách kinh. Ông đọc đi đọc lại nhiều lần, nhất là những kinh nguyện Thánh Thể. Có lần ông đã suy nghĩ về phép Thánh Thể suốt đêm không ngủ. Ông dự Thánh lễ nhiều ngày và đã nói về kinh nghiệm của ông như sau: “Thời thơ ấu, tôi đã khóc nhiều lần, nhưng chưa bao giờ nước mắt tôi chảy nhiều như vầy. Bỗng chốc, tôi nhìn rõ mọi tội lỗi của tôi, cuộc đời xấu xa, ghê tởm, hèn hạ của tôi. Cuộc đời ấy đáng sa hỏa ngục. Nhưng tôi đã tìm thấy sự bình an lạ lùng. Chúa nhân từ đã tha tha thứ tội lỗi của tôi, đã chấp nhận lòng quyết tâm của tôi là yêu mến Ngài trên hết mọi sự”.

Sau đó, ông đã trở lại đạo và đi tu dòng Carmêlô, làm linh mục. Nhờ ông khuyên nhủ, Franz Liszt, nhà đại nhạc sĩ và 10 người bà con đã trở về với Giáo Hội.

b/ Qua hoạt động của Đấng phù trợ: Câu truyện Phêrô và Gioan chữa một anh què cho chúng ta thấy điều đó. Chúa Thánh Thần vẫn tiếp tục công việc mà Chúa Giêsu đã khởi sự.

c/ Và mỗi khi một cộng đoàn yêu thương được hình thành “Ở đâu có hai ba người họp nhau lại để cầu nguyện thì có Thầy ở giữa”

Một bà nọ thuật lại trong cuốn sách nhan đề “Où Dieu pleure” rằng: bà cùng với một số người Đức khác bị đưa đi lưu đày xa quê hương từ giữa lòng Thế chiến Thứ hai. Tất cả đều là người Công giáo và cùng lao động tại một nông trường. Nơi ấy không có nhà thờ cũng chẳng có Linh mục. Nhưng họ được phép tụ họp mỗi chiều Chúa nhật tại một nghĩa địa cũ để cầu nguyện với nhau. Khi biết cách đó một nghìn cây số có Linh mục, anh chị em Kitô hữu bèn quyết định hằng tháng góp tay nhau một ít tiền để mua vé xe cho một bà già đi về nơi ấy mang Mình Thánh Chúa đến cho họ. Thế rồi từ đó, mỗi chiều Chúa nhật, họ đều gặp nhau trong nghĩa địa với tâm hồn hân hoan vui sướng vì biết rằng có Chúa Thánh Thể, mà bà kia mang trong mình, đang ở cùng họ. Họ sốt sắng cầu nguyện, suy niệm Lời Chúa… Những ai yếu liệt đều được trao tặng của ăn đi đàng quý giá ấy trước khi qua đời.

Nhờ đó trong suốt mấy mươi năm trời, cộng đoàn Kitô hữu ấy vẫn sống với niềm tin kiên vững, đùm bọc yêu thương nhau trong tình bác ái huynh đệ.

Năm 1972, được trả tự do, bà già ấy đã thuật lại câu chuyện cảm động cho tác giả cuốn sách. Bà cũng cho biết mình chính là người đã điều khiển cộng đoàn cầu nguyện vào những chiều Chúa nhật tại nghĩa địa. Bà nói: “Tôi ra đi với tất cả niềm lưu luyến, nhớ thương, với biết bao kỷ niệm về cộng đoàn cầu nguyện và cộng đoàn huynh đệ Thánh Thể ấy”

B. Vấn đề còn lại là làm sao chúng ta có thể nhận ra được sự có mặt của Chúa trong cuộc đời của chúng ta?

Đây là cách thức chính Chúa đã chỉ cho chúng ta: “Ai đón nhận luật Thầy truyền và giữ các luật đó thì người ấy sẽ là kẻ mến Thầy và ai mến Thầy sẽ được Cha Thầy yêu mến và Thầy sẻ tỏ mình ra cho người ấy”.

Như vậy là bằng cách sống Lời của Chúa, chúng ta sẽ gặp được Chúa. Chúa sẽ tỏ mình ra cho chúng ta.

Như vậy là bằng cách sống Lời của Chúa, chúng ta sẽ gặp được Chúa. Chúa sẽ tỏ mình ra cho chúng ta.

Cách đây không lâu, một bác sĩ giải phẫu người Mỹ đã vâng theo tiếng gọi của Chúa Giêsu, yêu thương tha nhân bằng cách ban tặng chính bản thân mình cho họ. Ông đã trở nên một nhà truyền giáo phục vụ trong ngành y khoa. Từ bỏ quê hương, ông đi tới một hòn đảo xa xôi trên biển Thái Bình dương, nơi dân chúng sống nghèo khổ, bệnh tật vì thiếu thuốc. Sau một thời gian, để tạo sự bất ngờ cho bác sĩ, vị mục sư ở Mỹ đã đến thăm ông mà không báo trước. Khi mục sư đến, ông bác sĩ đang sửa soạn giải phẫu cặp mắt cho một em bé gái 8 tuổi. Vị mục sư đã quan sát cuộc giải phẫu xảy ra qua cái cửa sổ của một căn chòi nhỏ. Sau ba giờ đồng hồ, bác sĩ đi ra khỏi phòng mổ và nói:

– Đôi mắt của cô bé rất tốt. Em sẽ mau khỏi bệnh.

Rồi ông đi ra gặp mục sư của mình. Khi bàn về cuộc giải phẫu vừa mới xảy ra, mục sư hỏi:

– Ông sẽ được trả bao nhiêu tiền cho cuộc giải phẫu đó nếu ông giải phẫu ở Mỹ?

– Chừng 3000 dollars, tôi đoán như vậy, bác sĩ trả lời.

– Vậy ở đây người ta trả ông bao nhiêu?. Mục sư hỏi.

– Tôi không biết nữa, chỉ vài xu với nụ cười của Thiên Chúa. Ông bác sĩ nói. Rồi đặt tay lên vai mục sư, ông lay nhẹ và nói:

– Nhưng lạy Chúa, cuộc sống ở đây thật tuyệt vời!

Món quà tình yêu của Thiên Chúa ban nhưng không cho ta qua Đức Giêsu Kitô, mặc dù là vô giá, nhưng không phải là không có điều kiện. Giống như tất cả các loại tình yêu, Tình Yêu Thiên Chúa cũng có những đòi hỏi. Và một trong những đòi hỏi nặng nề nhất của Người, đó là chia sẻ tình yêu thương đó cho tha nhân. Khi chúng ta đáp lại lời mời gọi: “Hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu thương các con”, chúng ta sẽ có được cái cảm giác hoan lạc giống như vị bác sĩ: “Nhưng lạy Chúa, cuộc sống ở đây thật tuyệt vời!”.

Lạy Chúa Giêsu phục sinh,

Xin ban cho con sự sống của Chúa, sự sống làm đời con mãi mãi xanh tươi.

Xin ban cho con bình an của Chúa, bình an làm con vững tâm giữa sóng gió cuộc đời.

Xin ban cho con niềm vui của Chúa, niềm vui làm khuôn mặt con luôn tươi tắn.

Xin ban cho con hy vọng của Chúa, hy vọng làm con lại hăng hái lên đường.

Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa, Thánh Thần mỗi ngày làm mới lại đời con.

A. Chúa nhật trước Chúa tự xưng : “Ta là cái cửa” (Ga 10,9)

Hôm nay Chúa tự xưng: “Thầy là con đường” (Ga 14,6)

Cửa là lối ra vào. Còn con đường là lối đi. Khi mở đường, người ta khai mở một lối đi. Và một lối đi thì thường phải có một điểm tới.

Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa bảo: “Thầy là đường” (Ga 14,6) nhưng Chúa lại không xác định rõ điểm tới hay nói một cách khác: Chúa có nói nhưng cách nói của Chúa chưa rõ nên các Tông đồ thắc mắc: “Chúng con không biết Thầy đi đâu thì làm sao chúng con biết đường đi” (Ga 14,5)

Thắc của các tông đồ rất  đúng.

Trước khi nói những lời tâm huyết như trong bài Tin Mừng hôm nay ghi lại, Chúa Giêsu có nói là Ngài sẽ lên Jêrusalem. Hãy tạm coi Jêrusalem là điểm tới. Nhưng tới đó như lời Chúa nói thì chẳng làm sao các tông đồ có thể hiểu nổi.

Tại sao? Tại vì Chúa bảo lên Jêrusalem để bị bắt, bị tra tấn, và cuối cùng bị giết chết. Làm sao mà có thể tin là những việc như thế có thể xảy ra, nhất là đối với một con người như Chúa.

* Bao nhiêu năm trời theo Chúa, các tông đồ đã có dịp thấy Chúa là một con người thật là vĩ đại và kỳ diệu. Chưa hề bao giờ các ông ấy thấy Chúa có vẻ là một người chiến bại. Hơn nữa cuộc đời của Chúa hãy còn quá sung mãn. Với tuổi đời mới chỉ ngoài 30, cứ lẽ thường mà nói thì cuộc đời đó sẽ còn dài. Với biết bao nhiêu việc lạ lùng Chúa đã thực hiện trong quá khứ, thì tương lai chắc là còn phải huy hoàng và rực rỡ hơn…Vậy mà đột nhiên Chúa lại nói đến cái chết vậy thì làm sao mà tin cho nổi.

Và nếu câu chuyện kết thúc bằng cái chết như thế thì quả thực là không thể nào chấp nhận được.

Vâng quả đúng như vậy. Rõ rệt là Chúa không dừng lại ở cái chết. Sau khi chết người ta đã cẩn thận niêm phong Ngài trong huyệt đá. Người ta đã cắt lính canh chừng. Họ tưởng như thế là đã thành công trong việc kết thúc cuộc đời của một đối thủ mà họ đã cay cú muốn loại trừ từ bao nhiêu năm trời.

Thế nhưng họ đã lầm. Đúng như lời Ngài đã nói. Sau khi từ cõi chết sống lại, Ngài đã cho các tông đồ thấy cuộc sống đích thực của Ngài là cuộc sống vượt lên trên lằn mức của không gian và vượt ra ngoài giới hạn của thời gian để trở thành vĩnh cửu, trở thành đời đời – điều mà các tông đồ chưa hề bao giờ được thấy.

Như vậy đích điểm con đường Ngài đi không phải là cái chết nhưng là ở một chỗ khác. Đó là nhà của Cha (Ga 14,2). Vâng…nhà của Cha mới là đích điểm cuối cùng Ngài dẫn những kẻ tin Ngài đi tới để ở đó Ngài cho họ điều mà trong suốt cuộc đời công khai Ngài đã nhiều lần đoan hứa với những ai tin Ngài.

B. Vậy bổn phận của con người hôm nay là phải biết tìm đến con đường mang GIÊ-SU để đi. Ngài chính là con đường và Ngài cũng là đích tới.

Hãy nhớ lại: Suốt cuộc đời trần thế, ngoại trừ những năm ẩn dật tại Nazareth, còn thì chúng ta thấy Ngài sống ở ngoài đường hơn là ở trong nhà: “Con chim có tổ, con cáo có hang, Con Người không có chỗ tựa đầu.” (Mt 8,20)

– Chúa đã khởi sự cuộc đời của Ngài ở ngoài đường. Hang Belem không phải là một mái nhà.

– Ngài sống ở ngoài đường. Có vào nhà ai thì cũng chỉ là tạt qua chứ không phải là để cư trú

– Ngài chết cũng ở giữa đường chỗ có nhiều người qua lại.

– Và hầu như những cuộc gặp gỡ giữa Ngài với mọi người cũng được diễn ra ở ngoài đường. Gặp rồi lại đi chứ không dừng lại.

Tại sao Ngài làm thế?

* Trước hết Ngài muốn nhắn nhủ cho mọi người: Trần thế này không phải là chỗ lập cư vĩnh viễn. Nó không phải là quê hương. Một câu mà người ta coi như một châm ngôn được tìm thấy trên cổng của một ngôi thành cổ: “Thế gian như một chiếc cầu, bạn hãy đi qua mà đừng dừng chân lại”

Một Kitô-hữu già cả sắp chết. Một người đến nói:

– Con đọc cho cụ nghe một câu Thánh Kinh ngọt ngào nhất nhé!

– Vâng.

– Trong nhà Cha có nhiều chỗ. Ta đi dọn chỗ cho các con.

– Không, đó không phải là câu ngọt ngào nhất. Đọc tiếp đi.

– …Ta sẽ trở lại để Ta ở đâu các con cũng ở đó với Ta.

– Đó mới là câu ngọt ngào nhất. Điều tôi cần, không phải là một chỗ, mà là chính Chúa. (Góp nhặt)

* Thứ hai: Trần thế đã không phải là quê hương thì ta phải đi. Muốn đi tới đích thì phải đi trên con đường Chúa đã chỉ, theo lối mà Chúa đã vạch cho.

Trong tập truyện “Thiên đàng là thế đó” tôi được thấy một câu chuyện vui. Câu chuyện như thế này: Có một vị tu sĩ già nọ một đêm kia khi đi vào nhà nguyện để viếng Chúa thì tình cờ gặp thấy một thiên thần đang quì và hí hoáy viết vào một cuốn sổ vàng đặt trước bàn thờ. Với tâm hồn tràn ngập hân hoan vị tu sĩ rón rén đến gần thiên thần và hỏi:

– Ngài đang viết gì trong cuốn sổ vàng này vậy?

Không cần ngước mắt nhìn lên vị tu sĩ, thiên thần trả lời ngay:

– Ta đang viết danh sách những ai yêu mến Chúa.

Vừa lo lắng, lại vừa hồi hộp, vị tu sĩ hỏi thiên thần xem có tên mình trong cuốn sổ vàng đó không. Thiên thần chăm chú mở từng trang, đọc từng dòng nhưng không thấy tên ông đâu cả. Dầu sao thì câu trả lời của thiên thần cũng không làm cho vị tu sĩ già thất vọng bởi vì ông đã nghĩ ra cách khuyến dụ thiên thần để tên của ông được ghi vào sổ vàng. Ông nài nỉ, nói với thiên thần:

– Xin Ngài cứ vui lòng ghi tên tôi vào sổ như là một thầy dòng lúc nào cũng yêu mến người khác vậy.

Thiên thần chiều ý vị tu sĩ. Thế là tên ông được ghi vào sổ vàng.

Tối hôm sau, ông lại gặp thiên thần một lần nữa….Vừa khi gặp lại vị tu sĩ già, thiên thần đã kêu ông lại, mở cuốn sổ vàng cho ông coi. Vừa liếc mắt nhìn, vị tu sĩ già đã vô cùng bỡ ngỡ vì tên của ông được ghi ngay ở đầu danh sách những người yêu Chúa. Ông thầm cảm tạ ơn Chúa đã nhớ đến ông. Sau một thời gian thì vị tu sĩ già đó qua đời.

Sau khi ông chết, anh em trong dòng tìm được cuốn nhật ký của ông. Vừa mở ra họ đã gặp thấy dòng chữ này: “Nếu ai nói mình yêu mến Chúa mà lại thù ghét anh em thì người đó là kẻ nói dối. Ai không yêu mến người anh em mà mình thấy trước mắt thì cũng không thể yêu mến Thiên Chúa là Đấng mình không thấy được”.(1Ga 4,20)

Đó là lời ông trích từ thư của Thánh Gioan.

Tiếp theo các tu sĩ  ấy còn đọc thấy những lời chú giải này: “Tôi đi tìm kiếm linh hồn tôi nhưng tôi không thấy. Tôi đi tìm kiếm Chúa nhưng Chúa vượt khỏi tầm tay của tôi. Tôi đi tìm người anh em của tôi thì tôi lại gặp được Chúa và gặp được cả Linh hồn tôi”

Vâng kính thưa anh chị em

Con đường yêu thương chính là con đường của Chúa. Tên của Ngài là tình yêu. Tình yêu đem lại sức sống và tình yêu làm cho người thực thi lòng yêu thương có được sự sống đời đời. Amen.

Anh chị em thân mến,

Chúng ta vừa nghe một đoạn Tin Mừng của Thánh Gioan. Đây là một trong những đoạn Tin Mừng khó cắt nghĩa. Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa chúng ta đã dùng kiểu nói “Ta Là” để nói về mình. Trong Tin Mừng của Gioan, Chúa dùng tới tám lần như vậy. Chúa nhật hôm nay và Chúa nhật tuần sau chúng ta sẽ suy niệm dựa trên kiểu nói như thế. Hôm nay Chúa tự xưng là cửa: “ Ta là cái cửa” (Ga 10,9). Chúng ta tự hỏi: Chúa có ý muốn nói gì khi Ngài tuyên bố như thế ?.

1. Muốn hiểu được lời tuyên bố của Chúa, thiết tưởng chúng ta phải trở về với hoàn cảnh của lời tuyên bố này. Vậy hoàn cảnh nào Chúa đã tuyên bố như vậy ?

a/ Theo Tin Mừng kể lại thì trước khi tuyên bố như trên Chúa có chữa một người mù từ khi mới sinh.

Lúc đầu khi chữa cho anh ta thì Chúa chưa cho anh ta biết Ngài là ai. Sau khi hòa nước miếng với đất thành bùn sức vào mắt anh ta, Chúa bảo anh đi tới suối Siloe mà rửa. Anh đã làm y như Chúa nói và anh ta đã được sáng mắt.

Sự việc anh ta được sáng mắt đã gây ra nhiều cuộc bàn tán xôn xao. Lúc đầu thì người ta tưởng rằng mọi việc rồi cũng lại đâu vào đó như là những lần khác, nhưng rồi sự việc lại diễn ra không như người ta tưởng. Càng ngày vấn đề càng trở thành nghiêm trọng. Vì công việc Chúa chữa người mù lại xảy ra vào ngày Sabbat. Chính vì thế mà nhà cầm quyền tôn giáo lúc đó đã phải triệu tập một cuộc hội họp bất thường và mở một cuộc điều tra đặc biệt về vấn đề này. Cha mẹ của anh mù được mời tới…rồi sau đó chính người mù được chữa khỏi cũng được mời tới. Cuộc thẩm vấn đã diễn ra một cách hết sức căng thẳng gây cấn vì mỗi bên đều tỏ ra nhất định không khoan nhượng trong lập trường của mình:

b/ Phía những người Biệt phái thì nhất định phủ nhận phép lạ của Chúa Giêsu.

Ngược lại anh mù cũng không kém phần gan dạ. Anh ta tỏ ra can đảm khác thường. Không những anh ta không phủ nhận mà còn can đảm bênh vực cho sự thật. Và kết quả là anh bị trục xuất ra khỏi Hội đường. Đây là một sự trừng phạt của những người có quyền có thế dành cho anh. Chúng ta không thể tưởng tượng nổi nỗi thất vọng của anh lúc đó như thế nào. Anh ta hoàn toàn không còn một chút tin tưởng gì đối với những người lãnh đạo tôn giáo lúc đó nữa

c/ Nhưng rồi trong cái rủi lại có cái may. Đúng lúc xã hội loài người trục xuất anh, không còn thừa nhận anh là thành phần của cộng đoàn, thì chính lúc đó Chúa lại mở thật rộng bàn tay để đón nhận anh, đưa anh vào một cộng đoàn mới, cộng đoàn của những người tin Chúa. Chính vì thế mà khi vừa hay tin anh bị trục xuất ra khỏi Hội đường thì Chúa đến gặp anh và đúng lúc anh vừa kịp đối diện với Ngài thì Ngài đã hỏi ngay:

“Anh có tin con Thiên Chúa không ?” (Ga 9,35)

Anh thưa lại: “Thưa Ngài, Ngài là ai để tôi tin ?” (Ga 9,36)

Câu nói của anh tràn đầy sự xúc động.

Chúa trả lời: “Anh đang thấy Người và Người đang nói với Anh” (Ga 9,37). Chúng ta không thể tưởng tượng lúc đó anh ngỡ ngàng đến mức độ như thế nào. Anh cứ tưởng Ngài ở đâu thật xa. Có dè đâu Ngài đang ở thật gần. Anh nhìn thẳng vào mắt Chúa. Và tự đáy lòng Anh nói lên niềm tin của Anh: “Lạy Ngài, con tin” và Tin Mừng ghi lại một chi tiết thật cảm động này: “Anh sấp mình xuống phục lạy Ngài” (Ga 9,38)

d/ Qua câu chuyện trên chúng ta có thể thấy được hai bức tranh hầu như hoàn toàn tương phản nhau một cách thật rõ rệt.

Một bên là nhà cầm quyền đạo Do Thái. Họ đã làm một việc hết sức bất nhân đối với người mù vừa được chữa khỏi.

Một bên là Chúa. Giữa lúc người ta trục xuất thì Chúa lại mở rộng vòng tay để đón nhận anh. Ngài đã dẫn anh vào một xã hội mới, xã hội của những người tin Chúa.         Và chính trong hoàn cảnh đó mà Chúa đã tự xưng: “Ta là cái cửa”.(Ga 10,9)

  Cửa là lối vào. Qua Chúa người ta có thể bước vào một xã hội mới.

2/ Ta là cửa chuồng chiên.(Ga 10,7)

a/- Chuồng chiên bên Đông phương là một khu đất rộng, chung quang có tường hoặc rào bao bọc. Không bao giờ có mái che ở trên.

– Thường thì mỗi chuồng chiên chỉ có một cửa duy nhất. Đó là lối ra vào của chiên. Không bao giờ chiên trèo tường hay leo rào để ra.

– Cửa chuồng chiên chỉ là một khoảng cách giữa hai bên bờ tường hay bờ rào. Nó chỉ là một khoảng trống. Nó khác hẳn với hình ảnh về một cái cửa mà chúng ta thường thấy trong xã hội hôm nay.

– Khi Chúa tự ví mình như cái cửa, Chúa đã muốn nói với mọi người về lối vào cho một xã hội mới của Ngài. Xã hội như một đàn chiên. Bất cứ ai muốn gia nhập thì phải qua Ngài. Ngài là cửa dẫn vào đoàn chiên. Không qua Ngài mà vào thì là kẻ cướp.

b/ Nhưng làm thế nào để có thể gọi là “qua Ngài”. Chúng ta hãy đặt mình vào hoàn cảnh của người mù mới được Chúa chữa khỏi. Khi được sáng mắt chắc là anh đã vui mừng. Nhưng niềm vui của anh chưa được bao lâu thì nó đã biến thành nỗi sầu. Chỉ vì bênh vực cho sự thật mà anh bị loại trừ. Nhưng rất may cho anh, Chúa đã đón nhận anh. Bằng một lời tuyên xưng, anh đã bước vào xã hội mới của Chúa. Vâng đó là cách chúng ta “qua Chúa” để vào xã hội của Chúa. Mỗi người chúng ta đã làm như thế ngày chúng ta được chịu phép Rửa tội. Giờ đây chúng ta đang ở trong xã hội đó. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì hồng ân cao cả này.

3. Tới đây tôi chợt nhớ tới một câu chuyện của hầu tước (Sir) George Adam Smith. Một hôm ông đi du lịch ở đông phương, ông thấy mảnh đất có tường bao quanh như tôi vừa nói. Nhưng ông không dám nghĩ đó là một chuồng chiên. Rất may là lúc đó có một người chăn chiên đang ở gần đó.

Ông hỏi anh ta: “Cái đó có phải là chuồng chiên không ?”.

Người chăn chiên xác nhận: “Dạ phải”.

Ông thắc mắc: “Sao, tôi thấy chỉ có một lối đi vào”

Người chăn chiên giải thích: “Vâng, chỗ đó là cái cửa”

Ông ngạc nhiên thắc mắc tiếp: “Nhưng chỗ đó tôi có thấy cửa đâu ?”

Chẳng cần phải suy nghĩ gì. Người chăn chiên trả lời ngay: “Ta là cái cửa”

Ông càng ngạc nhiên hơn nữa, Ông hỏi tiếp: “Anh muốn nói gì khi anh bảo anh là cái cửa ?”

Người chăn chiên đáp: “Khi chiên vào chuồng rồi thì tôi đến nằm ngang chỗ đó. Không một con chiên nào có thể đi ra và cũng không một con sói nào có thể đi vào mà không phải qua con người của tôi”.

Hay quá chúng con. Người mục tử là như thế. Chúng ta hãy cầu nguyện để Chúa cũng ban cho Giáo Hội có được những mục tử tốt như thế để lo cho đoàn chiên chúng ta.

Năm 1870 chính phủ Hawai ra lệnh bắt những người mắc bệnh phong hủi, phải ở riêng biệt tại cù lao Molokai, mà tàu của chính phủ mỗi tuần chỉ tiếp tế cho một lần. Ở đó, thiếu thuốc thang, thiếu săn sóc, nhất là thiếu an ủi và nâng đỡ về phương diện tôn giáo. Nghe tin này, được lòng mến Chúa thúc đẩy, cha Damien dòng Thánh Tâm người nước Bỉ, đã tình nguyện xin Đức Giám mục giáo phận cho phép mình được ra sống chung với những người xấu số đó. thấy đức giám mục lưỡng lự, cha Damien đã quì xuống đất thưa rằng:

– Thân đức cha, mặc dầu con còn trẻ, nhưng khi mặc chiếc áo dòng đen nhà tu, con đã trở nên những người của Chúa, con đã sẵn sàng chết cho các linh hồn theo gương Chúa Giêsu. Vậy sau khi được phép Đức Giám mục giáo phận, cha Damien đã đến sống chung với anh em phong hủi. Cha đã sống với họ 16 năm: ra vào thăm nom, tập cho họ nghề nghiệp, dạy họ đọc và chữ viết, rửa tội, giải tội, xức dầu thánh. Do đó cha đã lây bệnh. Bác sĩ Woons viết rằng: cha Damien đã khác hẳn mười năm trước đây, mặt mũi rộp và sưng lên, hai tay dày cộm và xệ xuống, các ngón tay đang lần lượt co quắp lại… cha đã trở nên giống các con chiên của cha: da trán sưng lên ghê tởm; hai tai phồng ra to; mũi, má, cổ tay đều bị hủi ăn đỏ hoẻn. Đây là vị linh mục công giáo đang sống ở địa ngục phong cùi, giữa những người đang sống dở, chết dở, để đem lại cho họ một đôi chút an ủi. Sau 16 năm sống trong hy sinh và bệnh nạn, cha Damien bị những vi trùng cùi đêm ngày tấn công, và sau hết phải ngã gục và chết giữa con chiên (3,98)

Vậy cha Damien đã chết giữa những con chiên mắc bệnh phong cùi của cha, để một phần nào bắt chước gương Chúa đã được ghi trong bài phúc âm hôm nay: “Cha là mục tử tốt lành đã liều mạng sống vì con chiên”. Nghĩa là Chúa đã chịu chết trên thánh giá để chuộc tội loài người cách riêng là cho anh chị em chúng ta. đọc lại bài phúc âm này, Chúa cũng dạy chúng ta, nếu chưa dám hy sinh mạng sống vì người khác, thì chúng ta cũng cố gắng giúp đỡ người khác trong những việc nhỏ mọn, nhiều chừng nào, tốt chừng nấy.

Xin Chúa cho chúng ta được tìm thấy hạnh phúc khi chúng ta được ở trong Giáo Hội tức là đoàn chiên của Chúa. Trong Giáo Hội chúng ta có Chúa bảo vệ chúng ta. Trong Giáo Hội, bằng các Bí Tích Chúa lo lắng cho chúng ta. Cũng chính trong Giáo Hội mà chúng ta nhận được lương thực hằng sống là Mình và Máu Thánh Chúa hằng ngày. Amen.