Có hai sự kiện nổi bật qua bài Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe. Sự kiện thứ nhất đó là vai trò tích cực của thánh Giuse trong việc Chúa Giêsu sinh và sự kiện thứ hai đó là danh xưng của Chúa khi ngài xuống thế nhập thể làm người. Ngài được gọi Emmanuel, Thiên Chúa ở với loài người.

1. Vai trò của thánh Giuse.

a. Sự đóng góp của thánh Giuse vào công trình nhập thể và nhập thế của Chúa Giêsu là được thể hiện qua hai khía cạnh:* Cho Chúa Giêsu một tư cách pháp lý là con cháu Đavít, nhờ thế thực hiện đúng lời Thiên Chúa đã hứa xưa từ thời Cựu Ước (Câu 20b: “Này ông Giuse, là con cháu Đavít” ; Câu 21 “Ông sẽ đặt tên cho con trẻ”: Thánh Giuse đặt tên cho Chúa Giêsu nghĩa là nhận Chúa Giêsu là con mình theo pháp lý) ;* Bao bọc Đức Maria và Chúa Giêsu (câu 20c “Đừng ngại đón Maria về ; câu 24 “Khi tỉnh giấc, Giuse làm như lời sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà” ; câu 25 “Và ông đặt tên cho con trẻ là Giêsu”)

b. Chúng ta tự hỏi: Thánh Giuse là người như thế nào mà lại được Thiên Chúa ưu ái đến như thế ?

Chúa đã dựa vào tiêu chuẩn nào để chọn thánh Giuse. Chúa không dựa vào những tiêu chuẩn mà con người thường dựa vào đó để tuyển chọn như trình độ, có khả năng, có kinh nghiệm nhưng Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy rõ tiêu chuẩn Chúa muốn là tiêu chuẩn như thế nào: Thánh Matthêu đã ghi “Ông Giuse, chồng bà, là người công chính (Mt 1,19)

Vâng, Chúa đã căn cứ vào tiêu chuẩn công chính nơi một người thợ mộc nghèo khó để chọn thánh Giuse để cộng tác với Người trong công việc vô cùng trọng đại đó là công trình cứu chuộc loài người.

Sách Giáo Lý mới số 227 đã viết thật hay: Đối với những ai lo tìm kiếm Nước Trời và sự công chính của Thiên Chúa, Người hứa sẽ ban cho họ đủ mọi sự. Mọi sự đều là của Chúa: ai có được Thiên Chúa thì có mọi sự, miễn là Thiên Chúa có người ấy (T. Cyprien 21).Thánh Augustinô nói: “Sống công chính tốt lành không gì khác hơn là yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết sức lực mình”. Chúng ta dành cho Người một tình yêu trọn vẹn (nhờ tiết độ), không gì lay chuyển nổi (nhờ can đảm), chỉ vâng phục một mình Người (nhờ công bình), luôn tỉnh thức để khỏi sa vào cạm bẫy của mưu mô và gian dối (nhờ khôn ngoan)” Đó là cách sống đẹp lòng Chúa nhất (T.Au-tinh, những thói quen của Hội Thánh Công Giáo 1,25,46).

Người ta hỏi ý kiến thánh Phanxicô Salê: Cha thích sống lành mạnh hơn, hay thích sống qua ngày đoạn tháng trong cảnh bất toại liệt giường này ?

– Tôi không thích điều nào hết. Tôi dửng dưng đối với cả hai. Tôi chỉ mong ước thánh ý Chúa trong điều này cũng như trong điều nọ.

– Nhưng nếu khỏe mạnh Cha sẽ làm được nhiều việc thiện hơn ?

– Tôi không muốn chọn phương pháp phụng sự Chúa. Trong lúc khỏe mạnh tôi sẽ thờ phượng Chúa trong hoạt động, và khi ốm yếu, tôi sẽ làm tôi Chúa bằng chịu đựng. Duy Chúa có quyền chọn điều Ngài thích. Trong cả hai đàng tôi sẽ làm theo thánh ý Người là tôi chu toàn nhiệm vụ.

– Nhưng sống lâu để thâu tích công phúc và chết sớm bất ngờ Cha ưa điểm nào ?

– Tôi không thích ý muốn trong những điểm đó. Sống lâu sống vắn và chết bất ngờ là những điều tôi hoàn toàn giữ thái độ trung lập. Tôi đã phó trót mình cho Chúa quan phòng săn sóc, mà từ trước đời đời người đã định đoạt cuộc sinh tử của tôi.

– Cha có thích được thoát ly khỏi đời tạm này để lên Thiên đàng thẳng băng hay còn phải giam giữ lại trong luyện hình ?

– Tôi vui lòng đi tới nơi Chúa định. Dầu nơi đó thế nào tôi vẫn khoái chí sung sướng. Với thánh ý Chúa, luyện ngục sẽ trở nên, Thiên đàng sẽ thành luyện ngục cho tôi.

Đó là thái độ của người công chính. Chúng ta hãy cố sống như thế để được Chúa yêu thương.

2. Danh xưng của Chúa khi ngài xuống thế nhập thể làm người. Ngài được gọi Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Một Thiên Chúa xa vời đã trở thành gần gũi con người. Ngày xưa tại vườn địa đàng “cứ chiều chiều Thiên Chúa xuống đi dạo và trò chuyện với con người. Việc Chúa đối xử với con người như thế đã là một việc kỳ diệu lắm rồi. Thế nhưng vào thời sau hết này: Thiên Chúa không những ở gần kề con người mà con mang lấy cả thân xác như con người để cùng chia sẻ cuộc sống làm người với con người trên cõi dương gia này. Việc đó là sao con người dám ước mong. Nhưng Thiên Chúa đã làm thế. Thật không còn gì hạnh phúc hơn.

John P., một linh mục Ái nhĩ lan, sau nhiều năm tận tâm thuyết phục một thanh niên bỏ đạo trở về với Giáo hội, đã phải hoài công vô vọng. Bao lời khuyên răn cứ như “nước đổ lá môn”.

Nhưng rồi một lần kia, Mẹ Têrêsa Calcutta được mời đến thăm Ái nhĩ lan. Ban tổ chức có thu xếp một buổi nói chuyện thân mật giữa Mẹ với các bạn trẻ. Mẹ chỉ nói giản dị về tình yêu Thiên Chúa: Chúa yêu thương các bạn; Ngài luôn đồng hành với các bạn. Sau đó Mẹ rời thành phố và ai về nhà nấy.

Trời mỗi lúc mỗi khuya! Khi mọi vật đang chìm vào tĩnh mịch, chợt một hồi chuông điện thoại reo vang phá tan giấc ngủ của cha John P. Ngài nhấc vội chiếc điện thoại, và đầu dây bên kia là giọng nói của chàng thanh niên năm nào:- Alô, con muốn xưng tội với cha. Con muốn trở về cùng Giáo hội.- Chuyện gì xảy ra cho anh vậy ?

Vị linh mục hỏi lại. Ngài tưởng chừng chàng thanh niên đang bị tai nạn hiểm nghèo nào đó nên vội dọn mình ra đi. Nhưng anh ta trả lời:

– Thưa cha, vì chiều nay Mẹ Têrêsa đã nói với con một lời đánh động lòng con rất nhiều.

Vị linh mục ngạc nhiên:

– Mẹ nói lời gì, và nếu tôi không lầm thì nhà thờ chật ních. Mẹ lại đâu có cơ hội để gặp riêng anh ?

– Vâng thưa cha, Mẹ không gặp riêng con, nhưng Mẹ đã nói với mọi người, trong đó có con. Mẹ nói rằng: “Chúa ở với các con”.

Nghe thế, vị linh mục càng ngạc nhiên hơn nữa:

– Ủa, đã nhiều lần tôi cũng nói với anh như thế, nhưng sao hôm nay anh lại bị thuyết phục bởi lời nói ấy của Mẹ Têrêsa ?

Anh thanh niên chậm rãi giải thích:

– Thưa cha, vì Mẹ đã nói câu đó từ thẳm sâu của tâm hồn. Mẹ đã nói với con bằng tất cả con tim của mình.

Một câu nói không phát ra từ một công thức có sẵn hay do một thói tục xã giao thông thường thúc đẩy, nhưng khởi đi từ chốn thâm sâu của một tâm hồn yêu thương mới có khả năng thuyết phục, hoán cải, và truyền đạt được ý nghĩa chân thực nhất của danh hiệu Emmanuel-Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta.

Trong mỗi Thánh lễ, biết bao lần vị linh mục đọc lên cầu chúc: “Chúa ở cùng anh chị em,” nhưng thử hỏi đã có được bao nhiêu lần lòng tôi bồi hồi xúc cảm vì sung sướng trước sự kiện này ? Rất nhiều lần tôi nghe, đáp, hát, đọc những lời kinh nguyện có cùng một nội dung như thế, nhưng có mấy lần tôi cảm nhận được Thiên Chúa hiện hữu thật sự trong cuộc đời của mình ? Phải chăng vì chưa đọc và nghe với tất cả tâm hồn ?

”Ở cùng” chính là ngôn ngữ của tình yêu, vì chỉ có yêu ai người ta mới nghĩ đến “ở cùng”. Vì yêu nên mới có việc Thiên Chúa đến “ở cùng” con người, mới có danh hiệu Emmanuel, mới có cảnh Giavê mang kiếp lầm than để thông chia nỗi đau của con người, và chưa hết, mới có danh hiệu Giêsu, nghĩa là Giavê cứu thoát.

Vì yêu thương con người nên Thiên Chúa muốn cứu thoát. Ðể cứu thoát, Ngài đã đến ở cùng. Có lẽ không nỗi đợi chờ hay một thỏa mãn nào đáng giá hơn hình ảnh của Chúa Hài đồng nằm trong máng cỏ, hiện thân của tình yêu ở cùng.

Danh hiệu Emmanuel không chỉ gợi lên trong tôi ý thức về ân phúc tình yêu Thiên Chúa dành cho con người, về những lời cầu chúc được lập đi lập lại trong các Thánh lễ đang cần được nói và nghe với tất cả tâm hồn, nhưng còn là lời mời gọi chúng ta hãy xích lại gần nhau và sống thân ái hơn trong tình người. Như Thiên Chúa đã phá đổ bức tường ngăn cách, dù đó là sự ngăn cách vô biên-giữa Tạo hoá và loài thụ tạo, giữa trời cao với đất thấp, giữa vô hình và hữu hình-chúng ta cũng được mời gọi hãy phá đổ những ngăn cách giữa con người với con người, để việc tôi “ở cùng” mọi người trong an hoà sẽ là một phản chiếu rõ nét khuôn mặt của Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Amen.

Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Gioan Tẩy Giả sai môn đệ đến hỏi Ðức Giêsu một câu hỏi gây ngỡ ngàng mọi người: “Ngài có phải là Ðấng phải đến, hay chúng tôi còn phải chờ đợi một Ðấng khác ?”

Câu hỏi đó cho thấy thánh nhân đang ở trong một tâm trạng hoang mang như thế nào. Chúng ta tự hỏi sự hoang mang đó đến từ những nguyên nhân nào ? Có nhiều nguyên nhân nhưng có hai nguyên nhân sau rõ nét nhất:

1. Nguyên nhân thứ nhất: Ðức Giêsu có những việc làm khác với những lời Gioan loan báo.

Thánh Gioan Tiền hô đã loan báo một Ðấng Cứu Thế uy nghiêm, đến để trừng phạt nhân loại. Trong Tin Mừng tuần trước, thánh nhân đã răn đe người Do thái: Búa rìu đã để sẵn ở gốc cây, cây nào không sinh trái sẽ bị đốn cho vào lò lửa. Thiên Chúa đến cầm sàng mà rê thóc. Thóc mẩy sẽ được cho vào kho, còn rơm, trấu sẽ bị cho vào lò lửa đốt đi. Sứ điệp quả thật là dữ dội và Lời loan báo đó đã gây xôn xao và sợ hãi. Vậy mà khi Ðức Giêsu đến, Người đã hành động khác hẳn. Không oai phong, không quyền lực, lại còn tỏ ra là một Ðấng Cứu Thế tràn đầy lòng nhân từ: “Người không bẻ gãy cây lau bị dập, không dập tắt tim đèn còn khói”. Gioan Tẩy Giả đã loan báo sự trừng phạt. Nhưng Ðức Giêsu lại đến để cứu chữa, tha thứ. Ðức Giêsu nói: “Con người đến không phải để lên án, nhưng để cứu chữa”. “Chỉ những người bệnh mới cần đến thầy thuốc”. Thật là trái ngược. Trách nào mà Gioan chẳng hoang mang.

2. Nguyên nhân thứ hai: Gioan bị giam trong tù.

Gioan cảm thấy mình bị ngược đãi. Hơn nữa ông còn cảm thấy như mình đã thất bại. Ði rao giảng sự công chính nhưng chỉ gặp bất công. Ði rao giảng ơn giải thoát nhưng lại bị giam cầm. Còn đâu những sứ điệp rực lửa. Còn đâu thời hy vọng tràn đầy. Thê thảm hơn nữa, ông tự hỏi: Sao Ðấng Cứu Thế không đến giải thoát mình ? Sao Người để cho sứ giả của Người mòn mỏi trong tù ? Sao Người để cho bạn hữu bị khinh miệt cười chê ? Và Gioan nghi ngờ: hay Người không phải là Ðấng Cứu Thế. Bị giam cầm, bị ngược đãi, Gioan còn có thể chịu được. Nhưng mối nghi ngờ gặm nhấm, thiêu đốt tâm hồn ông. Ông e sợ mình đã lầm đường, lầm người. Không nén lòng được, ông đã sai môn đệ đến hỏi thẳng Ðức Giêsu: “Ngài có phải là Ðấng Cứu thế, hay chúng tôi phải chờ đợi một Ðấng khác ?” Câu hỏi táo bạo nhưng quan trọng, vì nó quyết định cả ý nghĩa cuộc đời Gioan.

Trước câu hỏi ấy, Ðức Giêsu không trả lời trực tiếp. Nhưng chỉ yêu cầu các sứ giả về thuật lại cho Gioan những việc Người làm: “Cho kẻ mù xem thấy, kẻ què đi được, người cùi lành lặn, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng”.

Với câu trả lời ấy, Ðức Giêsu nhắc Gioan nhớ lại lời sấm của I-sa-i-a về Ðấng Cứu Thế. Ðồng thời cũng thanh luyện cái nhìn của ông về dung mạo Ðấng Cứu Thế.

Ðấng Cứu Thế không phải là vị vua oai phong từ trời ngự xuống trên đám mây. Nhưng chỉ là một hài nhi bé nhỏ xuất hiện giữa loài người như một mầm cây bé bỏng.

Ðấng Cứu Thế không phải là vị vua sang trọng ngự trong cung điện nguy nga. Nhưng chỉ là anh thợ mộc nghèo khó sống trong một làng quê hẻo lánh.

Ðấng Cứu Thế không phải là vị quan tòa oai nghiêm thở ra khói, hét ra lửa. Nhưng chỉ là một lương y hiền từ đến chữa lành những vết thương, an ủi những ai ưu sầu, nâng đỡ người yếu đuối, tha thứ kẻ tội lỗi.

Ðấng Cứu Thế không đến trong vinh quang huy hoàng, trong chiến thắng rực rỡ. Nhưng chỉ âm thầm và tình nghĩa như một người bạn thân thiết.

Ðấng Cứu Thế không đến trong hàng ngũ những người quý phái có địa vị cao trọng trong xã hội. Nhưng lui tới với những người bé nhỏ nghèo hèn, những thành phần bị gạt ra bên lề xã hội.

2. Anh chị em thân mến.

Vâng! Chính Gioan Tẩy Giả mà còn nuôi trong đầu hình ảnh về một Đấng Messia đầy uy quyền sẵn sàng xét xử và trừng trị kẻ gian ác, huống chi chúng ta. Xét cho kỹ thì có lẽ chúng ta cũng thích hình ảnh về một Thiên Chúa uy quyền, một Giáo Hội hiển hách hơn là một Thiên Chúa cúi xuống mà phục vụ cũng như một Giáo Hội nhiều khi bị lép vế. Chính vì thế mà chúng ta thích khoe với người khác về cách tổ chức, về những hoạt động, những thành tích v.v… của đạo. Chúng ta tưởng rằng, làm như thế thì người ta sẽ mến yêu và kính trọng Thiên Chúa và Giáo Hội của chúng ta hơn.

Nhưng Đức Giêsu thì lại không muốn thế: Thiên Chúa mà Ngài trình bày cho mọi người là một Thiên Chúa nhân từ, yêu thương, tha thứ. Ngài muốn cho người ta thấy Ngài là Đấng cứu nhân độ thế giàu lòng yêu thương. Mà quả thật, những hình ảnh loại này mới có sức cảm hóa và thuyết phục người ta.

Nói một cách cụ thể hơn, thay vì phô trương cho người ta thấy những nét huy hoàng của đạo, thay vì cãi nhau với người ta để tôn Giáo Hội lên, chúng ta hãy cho người ta thấy rằng, chúng ta và Giáo Hội chúng ta đang tha thiết muốn làm cho kẻ điếc được nghe, kẻ mù được thấy, kẻ què được đi, người bệnh được khỏe, kẻ nghèo được ấm no, người khổ được an ủi v.v… Chúng ta có thể làm những việc đó qua đời sống của chúng ta. Một nhà truyền giáo, lần đầu tiên đến Trung Hoa, giảng về Chúa Giêsu cho một nhóm dân bản địa. Khi ngài kết thúc, một người nói:- Phải, chúng tôi đã biết ngài. Ngài đã sống ở đây. Nghe thế, nhà truyền giáo liền nói:- Không, Đức Giêsu sống ở nước khác, cách đây gần 2000 năm rồi.

Nhưng những người đó vẫn khăng khăng bảo:- Chúng tôi đã thấy Chúa. Chúa đã sống trong làng này. Chúng tôi biết Ngài. Rồi ông dẫn nhà truyền giáo đến nghĩa trang và chỉ cho nhà truyền giáo thấy ngôi mộ của một nhà truyền giáo khác, đã từng sống với họ, phục vụ họ và cuối cùng, an giấc nơi cộng đoàn của họ.

Mẹ Têrêsa đã có lần nói: “Hãy mở lòng, để Thiên Chúa làm thấm nhuần tấm lòng bạn bằng tình yêu thương. Chúa yêu thương bạn với tình yêu dịu hiền. Những gì Chúa ban tặng không phải để bạn giữ lấy và khóa kỹ, nhưng để bạn cho đi”. Chính mẹ là người đã cho thế giới thấy rõ hình ảnh về Đấng Messia luôn quan tâm đến việc cứu giúp những kẻ khốn khổ. Tiếc thay là mẹ Têrêsa không còn nữa! Thế giới thì vẫn luôn cần có những người như mẹ. Ước gì Chúa ban cho Giáo Hội những Têrêsa Calcutta khác. Và ước gì mỗi người chúng ta cũng là một Têrêsa Calcutta cho thế giới hôm nay.

“Hay là chúng tôi phải đợi một Đấng Messia khác ?” (Lc 7, 20)Ngày xưa, Gioan đã sai môn đệ ông hỏi Chúa như thế. Ngày hôm nay có lẽ cũng có nhiều người muốn hỏi Giáo Hội như vậy ? Hay là chúng tôi còn phải đợi một Giáo Hội khác ?

Vâng nếu Giáo Hội hôm nay không là một Giáo Hội cứu nhân độ thế, thì người ta sẽ đi tìm Đấng cứu nhân độ thế ở chỗ khác. Nếu cộng đoàn của tôi không phải là một nơi cứu nhân độ thế, thì người ta sẽ tìm đến những chỗ khác. Nếu tôi không phải là một người cứu nhân độ thế, thì dù tôi là Linh mục, tu sĩ hay Kitô hữu, tôi cũng chẳng có giá trị gì cho người mong đợi ở tôi và người ta sẽ đi tìm một người khác.

Trong quyển tự thuật Mahatma Gandhi, cha đẻ của chủ trương tranh đấu bất bạo động và là người đã giải phóng Ấn Độ khỏi ách thống trị của người Anh, người ta được biết: Trong những ngày còn là sinh viên, ông đã đi lại khá nhiều tại Nam Phi. Ông đã say mê đọc Kinh Thánh và vô cùng cảm kích về bài giảng trên núi của Chúa Giêsu. Chính Tám Mối Phúc Thật đã gợi hứng cho chủ trương tranh đấu bất bạo động của ông.

Mahatma Gandhi xác tín rằng, Kitô giáo là giải pháp cho mối ung nhọt phân chia giai cấp đang đục khoét xã hội Ấn từ bao thế kỷ qua. Ông đã nghĩ đến chuyện gia nhập vào Giáo Hội. Thế nhưng, ngày nọ, khi đến nhà thờ để dự lễ và để đón nhận vài lời chỉ dẫn, ông đã phải thất vọng. Ông vừa vào đến cửa nhà thờ thì những người da trắng đã chặn ông lại và nói với ông rằng, nếu ông muốn tham dự thánh lễ thì hãy tìm đến một nhà thờ dành riêng cho người da màu mà dự. Mahatma Gandhi đã ra khỏi nhà thờ và từ đó trở đi ông đã không bao giờ trở lại bất cứ nhà thờ nào nữa. Thế là Chúa mất đi một tín đồ nhiệt thành. Người ta nói rằng, nếu hôm đó ông được đối xử một cách nhân từ và rộng lượng thì ngày nay cả nước Ấn Độ có lẽ đã được biết Chúa.

Nhưng tiếc thay! Đã quá muộn. Chúng ta xin cho chúng ta biết sống một cuộc sống như Chúa để thành chứng nhân cho Chúa trong thế giới hôm nay. Lạy Chúa xin cho chúng con trở thành những cánh tay nối dài của Chúa. Amen.

Lời Chúa trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe kêu gọi mọi người hãy “Sám Hối

Lý do phải sám hối vì Nước Trời đã đến gần.

1. Sám hối là gì?

Sám hối là một đề tài lớn trong Kinh Thánh nhất là trong lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả và của Chúa Giêsu.

Có thể nói Lịch sử dân Chúa là một cuộc sám hối trường kỳ. Cứ mỗi lần con cái Chúa sai lạc lầm lỗi thì Chúa lại sai tiên tri đến kêu gọi họ ăn năn sám hối.

Vậy Sám Hối cụ thể là gì?

Một cách đơn giản dễ hiểu: Sám hối là danh từ của động từ có nghĩa là quay lại. Sám hối là bỏ điều dữ và quay lại cùng Thiên Chúa, thay đổi cách ăn nết ở, cải tạo đời sống luân lý và tôn giáo của toàn dân tộc hoặc của cá nhân. Học giả Montefiore đã viết: “Đối với các rabbi, bản chất của sự sám hối là ở chỗ hoàn toàn thay đổi tâm trí, từ đó đem lại sự thay đổi trong cuộc sống và trong cách cư xử”

Trong mục “Dừng Chân “ trên một tờ báo Công giáo Dân tộc số ra ngày 24.9.1999, tác giả Hồng Ngọc ghi lại câu chuyện được một linh mục ở Long Xuyên kể như sau:

Có một nữ tín đồ Hoà hảo đem lòng yêu một chàng trai Công giáo, đến khi có con mới hay chàng ta đã có vợ. Biết mình làm tan vỡ cuộc sống gia đình một phụ nữ khác, chị tự cắt đứt quan hệ với kẻ đa tình kia và chấp nhận một mình nuôi con. Nhưng lương tâm cắn rứt. Chị thấy mình phải đền tội vì đã khiến cho một người vợ, một người mẹ phải đau khổ. Chị quyết định thực hành việc sám hối ăn năn bằng cách nhận một bệnh nhân về nhà săn sóc. Còn gì nhọc nhằn hơn cho việc phục vụ nuôi nấng một người điên. Người tín đồ Hoà hảo ấy đang thanh luyện mình trong vất vả nhọc nhằn, và lạ thay mỗi ngày chị lại thấy nhẹ nhõm và thanh thản hơn. Có lẽ chưa hẳn khỏi bị lương tâm đang cắn rứt, nhưng tình thương dành cho người bệnh đang biến đổi dần con người chị, đưa chị từ nỗi đau đớn dằn vặt nghiêm trọng đến niềm vui của một người sống có ích.

Lòng sám hối luôn đi kèm với quyết tâm cải thiện, nghĩa là tích cực cải thiện đời sống bằng những hành động cụ thể.

Khi đám đông nghe thấy Gioan Tẩy giả rao giảng sự sám hối, họ đã hỏi ngài: “Chúng tôi phải làm gì dây?”. Thánh nhân trả lời: “Ai có hai áo hãy chia cho người không có, ai có gì ăn hãy cũng làm như vậy “, và với những người thu thuế ngài bảo “đừng đòi hỏi những gì quá mức cho mình”, với các binh sĩ thánh nhân cũng kêu gọi “đừng hà hiếp ai cũng đừng tống tiền người ta”.

2. Thế nào là một lòng sám hối chân thành?

Sám hối đòi buộc phải có tấm lòng chân thành bằng không thì nó sẽ trở thành một thứ giả hình. Chúa Giêsu đã nhiều lần lên án loại giả hình này.  Lòng chân thành có nghĩa  sự phản ánh trung thực mọi mặt trong đời sống.

Buổi sáng như thường lệ, ông Alfes vừa thưởng thức ly cà phê nóng, vừa liếc nhìn qua những tựa lớn trên tờ nhật báo trước khi đi làm.

Hôm ấy ông hoảng hốt khi đọc thấy bản tin trên báo nói về cái chết của ông. Có lẽ người ta đã in lầm tên của ông với tên của một người nào đó chăng. Nhưng rồi với tính tò mò, ông cố đọc xem người ta nói gì về ông sau khi ông chết. Bản tin mang tựa đề lớn in chữ đậm viết: “ông vua lựu đạn qua đời”. Ông càng sửng sốt hơn nữa khi đọc hết bản tin. Người ta đã mô tả ông như người buôn bán cái chết.

Thật vậy, ông Alfes chính là người đầu tiên phát minh ra lựu đạn giết người. Ông mở xưởng sản xuất lựu đạn và trở nên nhà tỷ phú bằng cái chết của biết bao nhiêu người. Giờ đây ông như người tỉnh ngộ sau cơn mê. Thì ra với vũ khí giết người đó, ông chính là người lái buôn của sự chết. Ông tự hỏi mình: tôi có nên tiếp tục cái nghề không lành mạnh này không. Tôi có muốn xuống mồ với cái danh hiệu là người buôn bán sự chết không? Ông cảm thấy như có một sức sống mới trào dâng trong tâm hồn. Nó mãnh liệt  hơn cả sức mạnh phá huỷ sự sống của những lựu đạn mà chính ông đã phát minh ra.

Thời giờ của Chúa đã điểm trong tâm hồn của ông, đó là giờ của ơn cứu độ, của tỉnh thức, giờ của giác ngộ và thống hối. Từ ngày đó Alfes nhất định thay đổi lối sống, ông tận dụng dùng tất cả những sinh lực còn lại cũng như cái gia sản khổng lồ mà ông đã thu được vào công cuộc thăng tiến con người và kiến tạo hòa bình.

Quả thực, ông Alfes đã được ghi vào lịch sử không phải với danh hiệu người lái buôn sự chết nữa nhưng là người sáng lập giải thưởng hòa bình Nobel. Bởi vì quý danh của ông là Alfes Nobel.

Đây có thể được coi là tấm gương cụ thể cho lòng sám hối chân thành.

3. Phần chúng ta hôm nay, thử hỏi chúng ta có cần sám hối không?

Đây là kinh nghiệm bản thân của Đức thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII.

Ngài đã ghi lại ngày 11-8-1961 trong “Tâm hồn nhật ký’:

“Xưng tội hằng tuần là việc tôi làm suốt đời…

“Tội nghịch đức trong sạch? Suốt đời không bao giờ có lỗi trọng, hoặc vì cá nhân hoặc vì thân thiện với ai. Dù do mắt, dù do tay chân, dù do hình ảnh cám dỗ không bao giờ có. Đó là ơn Chúa nâng đỡ sự yếu hèn của tôi, và tôi tin ở Chúa sẽ tiếp tục bảo vệ tôi đến giây phút sau cùng.

“Tội nghịch đức khiêm nhường? Tôi tôn thờ và hằng thực hiện thực này. Tuy nhiên, khi bị coi thường, thâm tâm vẫn còn phản ứng. Phản ứng này tôi xin âm thầm giữ trong bụng để học tập thêm đức nhẫn nại, để thêm dịp đền tội, và cũng là phương thế để đền tội thế gian.

“Đối với đức bác ái? Tuy ít gặp khó khăn về điểm này, thế nhưng lắm lúc cũng là dịp hãm mình, vì lắm lúc xuýt mất nhẫn nại và do dó, có thể có một hai kẻ vô tình đã phải gánh chịu đau khổ.

“Xúc phạm? Ai biết được bao lần mình đã lỗi luật Chúa và luật Hội Thánh. Thực nhiều vô kể! Tuy nhiên, tôi không cả lòng trong sự nặng, ngay cả trong sự nhẹ. Lòng trí tôi hằng quý mến luật của Chúa, luật Hội thánh và luật đời; nhất là tôi hằng cẩn thận giữ gìn để làm gương cho thuộc hạ, để “xây dựng giáo sĩ và giáo dân”.

“Nếu có lỗi, tôi đã xưng tội, đã dốc lòng sửa chữa, và càng cao tuổi, tôi càng hằng cố gắng giữ các thứ luật cách chín chắn.

“Sơ suất? Thế nào cũng lắm sơ xuất vì bao nhiệm vụ của đời mục vụ và hiện nay của một Giáo Hoàng kế vị thánh Phêrô: Cả cuộc sống dài 80 tuổi với bao nhiêu “lỗi lầm sơ suất”, tôi đã thú nhận tất cả hồi sáng nay với Đức Giám mục Cavagna, người giải tội thường xuyên của tôi, ngay nơi phòng này, nơi mà các vị tiền nhiệm Piô XI, Piô XII ở? Và riêng Đức Piô XII đã chết, ngày 9-10-1958…

“Xin Chúa Giêsu hằng thương xót con là kẻ có tội, con hằng tin tưởng ở sự đại từ bi vĩnh cửu của Chúa”. Amen.

Chúng ta bắt đầu vào Mùa Vọng: Mùa Vọng có hai đặc tính: “vừa là mùa chuẩn bị mừng lễ trọng Giáng Sinh, kính nhớ việc Con Thiên Chúa đến lần thứ nhất với loài người; vừa là mùa mà qua việc kính nhớ này, các tín hữu hướng lòng trông đợi Chúa Kitô đến lần thứ hai trong ngày tận thế”. Vì hai lý do này, Mùa Vọng được coi như mùa sốt sắng và hân hoan mong đợi.

A- Đoạn Kinh Thánh chúng ta vừa nghe là lời Chúa dặn các môn đệ về việc Ngài trở lại. Qua đoạn này chúng ta thấy có những sự thật quan trọng cần phải lưu ý sau đây:

1. Chúa nói Ngài sẽ trở lại nhưng không xác định thời giờ. Vì thế việc tìm biết ngày giờ Chúa Quang Lâm là một việc làm phạm thượng, vì làm điều đó là tìm cách chiếm đoạt những bí mật riêng của Thiên Chúa. Phận sự của con người không phải là tìm cách xác định ngày Chúa trở lại nhưng là chuẩn bị chính mình và tỉnh thức đợi chờ ngày đó.

2. Thời giờ sẽ đến hết sức bất ngờ cho những kẻ miệt mài nơi vật chất thế gian. Trong câu chuyện ngày xưa, khi thời tiết còn tốt, Noê đã chuẩn bị sẵn sàng cho nên khi cơn nước lụt đến ông và gia đình ông đã được cứu. Ngược lại những người khác vì cứ mải mê ăn uống, cưới vợ gả chồng, nên khi cơn nước lụt đến quá đột ngột, họ không kịp trở tay và vì thế họ đã bị nước lụt cuốn đi hết.

Câu chuyện này quả là một lời cảnh cáo cho loài người. Đừng có quá miệt mài với cõi đời tạm mà quên đi cõi đời đời mai sau, đừng có quá quan tâm đến việc thế gian, mà quên rằng có một Thiên Chúa và vấn đề sống chết đều nằm trong tay của Ngài. Bất cứ khi nào Ngài gọi, buổi sáng, buổi trưa, hay buổi chiều chúng ta đều phải sẵn sàng.

3. Sự quang lâm của Chúa là lúc phân rẽ và phán xét. Đó là lúc Chúa tập hợp lại những ai thuộc về Ngài.

Nếu ngày giờ Chúa trở lại không ai biết được thì mọi người đang sống phải thường xuyên chuẩn bị cho ngày giờ đó.

B- Để chuẩn bị cho chu đáo, cần phải tránh những thái độ sau đây:

a) Trước hết là sống không cảnh giác. Sống không cảnh giác sẽ rước lấy tai họa: một tên trộm sẽ không bao giờ gởi thư báo trước mình sẽ đến viếng nhà nào. Vũ khí chính của anh ta là sự bất ngờ, vì vậy một chủ nhà có của cải lúc nào cũng phải canh chừng. Tuy nhiên chúng ta cũng cần phải hiểu điều này cho đúng. Chúng ta phải luôn nhớ rằng Chúa cảnh giác chứ không nhằm chơi khăm chúng ta, dường như cứ nhằm lúc nào chúng ta sơ hở là Chúa trở lại. Đàng khác, khi trông đợi Chúa trở lại không phải là chúng ta phải luôn sống trong sợ hãi kinh khiếp, mà là phải vui như náo nức trông chờ ngày vui vẻ vinh quang sắp đến.

b) Cũng phải tránh thái độ cứ cho rằng mình còn có nhiều thời giờ. Đây là thái độ rất nguy hại. Trong kho tàng những câu truyện ngụ ngôn người ta đọc được câu chuyện này: Câu chuyện về ba con quỷ học việc. Chúng đến trần gian để tập sự. Chúng nói với Satan là chúa quỷ về những kế hoạch cám dỗ loài người. Con quỷ thứ nhất nói:

– Tôi sẽ bảo với loài người là không có Thiên Chúa.

Con quỷ thứ hai nói:

– Tôi sẽ bảo với họ là không có địa ngục.

Satan trả lời: “Mi sẽ không lừa dối ai được bằng những cách đó, ngay đến bây giờ loài người vẫn biết có một địa ngụa dành cho tội nhân”.

Con quỷ thứ ba nói:

– Tôi sẽ bảo với loài người đừng có vội vã làm gì”.

Satan đáp: “Đi đi, mày sẽ làm hại được vô số loài người bằng cách đó”. Ảo tưởng nguy hiểm nhất là ảo tưởng cho rằng mình còn có nhiều thời giờ. Cái ngày nguy hiểm nhất trong đời một người là khi người đó học được chữ ngày mai, và trì hoãn vì không ai biết ngày mai có đến với mình nữa không.

Lịch sử còn ghi lại câu chuyện bi thảm sau đây: Pháp quan Archais ở Thebea đang ngồi uống rượu với một số đông dũng sĩ của mình, bỗng có một sứ giả bước vào mang cho ông một bức thư báo cáo về một âm mưu sát hại ông. Thay vì mở ngay bao thư ra đọc, ông nhét ngay vào trong túi và nói:

– Để mai hễ hay.

Và qua ngày mai thì ông bị giết chết. Trước khi bức thư bị khui ra thì cả chính phủ bị bắt trọn.

Vị pháp quan Archais đã hất sứ điệp ấy qua một bên vì ông nghĩ hãy còn nhiều thời giờ. Quan tổng đốc Phêlít ngày xưa đã run rẩy trước sứ giả của Chúa là Phaolô nhưng vẫn chần chừ nói rằng: “Bây giờ ngươi hãy lui ra, đợi khi nào rảnh, ta sẽ gọi lại”. Nhưng từ chỗ đó chúng ta không thấy chỗ nào nói đến ông ta rảnh cả.

Một thiếu nữ người Mã lấy chồng khá giàu quê ở Nữu Ước. Ngày kia trên đường từ California trở về nhà, cô gặp tai nạn đường sắt, bị thương rất nặng và ít hi vọng sống. Lúc còn trẻ, cô rất đạo đức, vì xuất thân từ một gia đình tốt và có giáo dục. Tuy nhiên, cuộc hôn nhân đã đưa cô vào một môi trường khác hẳn. Ở đây, không còn một ai nói tới Thiên Chúa và vĩnh cửu, không một ai nghĩ đến phần rỗi linh hồn mình. Lúc đầu, thái độ và bầu khí dửng dưng với tôn giáo này làm cho cô khó chịu, nhưng dần dần, cô tiêm nhiễm sự xa hoa và lạc thú, để rồi cuối cùng, chính cô cũng không còn lưu tâm gì đến Thiên Chúa và linh hồn. Và bất ngờ, một tai nạn đã kéo cô ra khỏi vùng xoáy của các lạc thú để ném cô vào vòng tay của Tử thần.

-Tôi sẽ chết ư? Nàng khắc khoải hỏi vị bác sĩ đang đứng bên cạnh.

– Thưa bà, tôi cũng lo sợ như thế.

– Tôi còn sống được bao lâu nữa?

– Có thể một giờ.

Nghe vậy, toàn thân cô rùng mình. Cô đưa tay che mặt lại và nằm yên, không động đậy trong giây lát. Sau đó, hình như cô lấy hết sức còn lại, nói với giọng truyền lệnh: “Hãy đưa tôi về Nữu Ước”.

– Không thể được! Người thầy thuốc nhẹ nhàng trả lời. Cô hãy nằm yên, mọi cử động lúc này đều nguy hại cho cô.

– A, bác sĩ ơi! Tôi đã có thể làm biết bao điều tốt lành, với tiền của tôi. Nếu tôi trung thành với đức tin thời thơ bé, tôi đã có thể làm biết bao điều tốt lành cho những kẻ sống quanh tôi! Nhưng tôi chỉ nghĩ đến những cuộc giải trí và trang điểm. Và bây giờ tôi chỉ còn sống được một giờ nữa thôi! Bây giờ thì quá chậm rồi!

Cô gái đáng thương này thực ra không sống được một giờ như dự đoán, bởi vì sự giao động đã cướp đi mạng sống của cô vài phút sau đó.

Vị bác sĩ sau đó đã tuyên bố rằng ông chưa bao giờ nghe một điều đáng sợ hơn hai tiếng “quá chậm” của người thiếu phụ sắp chết này!

Để đừng rơi vào tình trạng bi thảm của vị pháp quan, của viên tổng trấn, của người thiếu phụ, chúng ta hãy bắt chước em học sinh sau đây: một ông thanh tra học đường khi đến thăm trường tiểu học nói với các em học sinh rằng: “Tôi sẽ trở lại đây. Vậy từ nay cho đến ngày tôi tới, trò nào giữ được bàn mình sạch sẽ, thì sẽ được thưởng.

– Khi nào ông trở lại? Vài học sinh hỏi.

– Chưa biết hôm nào! Vị thanh tra trả lời.

Trong số các học sinh trong trường, có một cô bé quả quyết rằng mình sẽ chiếm được phần thưởng. Ai nghe cũng phải cười vì cô gái ấy có tiếng là không chỉnh tề. Có người hỏi:

– Bàn của cô có tề chỉnh bao giờ đâu mà mong được phần thưởng?

– Từ nay, mỗi buổi sáng tôi sẽ thu xếp một lần, cô bé đáp.

– Nhưng nếu ông thanh tra đến vào buổi chiều hay buổi tối thì sao? Người ấy hỏi lại. Cô gái yên lặng một lúc rồi nói: thôi, tôi hiểu rồi! như thế thì lúc nào tôi cũng phải giữ bàn của tôi cho được tề chỉnh.

Nếu chúng ta muốn được Chúa thưởng ban thì cũng phải tỉnh thức và cầu nguyện như vậy.

Kính thưa anh chị em

Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng Vụ. Giáo Hội cho chúng ta mừng lễ Chúa Kitô Vua.

A- Chúa là Vua.

1. Hầu như trong cả cuộc đời của Chúa, ngoài một lần duy nhất Chúa được đối xử như một vị Vua lúc Chúa giáng sinh, được các nhà đạo sĩ tìm đến bái thờ, còn ngoài ra thì cuộc sống của Chúa chẳng có vẻ gì là một ông Vua. Ngài sống như một người bình thường. Có lần dân chúng muốn tung hô Ngài và tôn Ngài lên làm Vua nhưng Ngài đã không thèm .

Thế nhưng vào những ngày cuối cùng nơi cuộc sống trần thế, thì tước hiệu là Vua lại được gắn vào cuộc đời của Chúa như một sự thật càng lúc càng đậm nét hơn.

a/ Lúc vào Thành Giêrusalem một cách long trọng, cung cách của Ngài đã thay đổi một cách khác thường. Ngài để cho dân chúng tung hô Ngài như một ông Vua. Những người có trách nhiệm cai trị lúc đó cảm thấy tình hình có thể gây nên nhiều hiểu lầm cho nên đã yêu cầu Ngài ra lệnh cho quần chúng im đi. Nhưng không những Ngài đã không bảo cho dân chúng im mà ngược lại Ngài còn tuyên bố một lời đầy thách thức: “Nếu họ không nói lên thì những hòn đá này sẽ nói thay” Người ta quả khó mà hiểu được thái độ của Chúa lúc đó.

b/ Rồi khi phải đối đầu với Philatô, đại diện cho quyền lực của cả Đế quốc Roma lúc đó, vào những giờ phút nghiêm trọng nhất trong cuộc đời của Chúa, Chúa đã không một chút ngần ngại để xác nhận một sự thật mà khi làm như thế Chúa biết là sẽ dẫn Ngài đến đâu. Thế nhưng Chúa đã không sợ dù là việc đó có làm cho Philatô có đủ lý do hơn để tuyên bố án tử cho Ngài. Philatô hỏi Chúa: “Ông là Vua sao ?” Chúa trả lời một cách dứt khoát, không một chút ngại ngùng: “Quan nói đúng: tôi là Vua”

c/ Và cuối cùng như chúng ta đã thấy, khi Chúa bị treo ở trên Thập giá, chính Philatô đã truyền cho viết và gắn một tấm bảng thật lớn để mọi người có thể nhìn thấy trên đầu cây Thập giá của Chúa. Tấm bảng với dòng chữ rất rõ như thế này: “Giêsu Nazareth, Vua dân Do Thái”

2. Vâng, quả thực Chúa là Vua như Chúa đã xác nhận. Thế lực của trần gian cũng xác nhận, bằng lời nói, bằng cả cái mà chúng ta có thể coi như giấy trắng mực đen. Nhưng phải hiểu nội dung lời tuyên bố của Chúa và lời tuyên xưng của trần thế như thế nào ? Rõ ràng là Chúa là Vua nhưng cuộc sống của Chúa và cách cai trị của Chúa chẳng giống với bất cứ một ông Vua nào trên trần thế này cả.

Vậy Chúa muốn làm vua như thế nào ? Chúa đã nói thật rõ:

“Anh em biết: thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người”. (Mt 20,26-28).

Đó là đường lối của Chúa. Chúa là Vua nhưng là Vua phục vụ trong hiền lành và yêu thương.

Chúng ta hãy nhớ lại một chút: Khi Gioan Tẩy giả sai môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu: “Ngài có phải là Đấng phải đến hay chúng tôi còn phải chờ một Đấng nào khác nữa ?” Chúa Giêsu đã không trả lời trực tiếp và nói: “Đúng, tôi là Đấng ấy”. Nhưng Ngài đưa ra những sự kiện về Ngài mà nhờ đó Gioan có thể hiểu. Theo trình thuật của Tin Mừng chúng ta thấy: trong câu trả lời của Chúa Giêsu, Ngài đã đặt con người ở vị trí trung tâm. Sáu câu trả lời của Ngài là sáu lời tuyên bố về vị trí trung tâm của con người: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe:

1. Người mù xem thấy,

2. kẻ què được đi,

3. người cùi được sạch,

4. kẻ điếc được nghe,

5. người chết sống lại,

6. kẻ nghèo được nghe Tin Mừng”

Đó là những dấu chỉ về Đấng Messia nơi Chúa Giêsu. Con Người, con người đau khổ, con người cần quan tâm, con người là đối tượng của lòng thương xót và tình thương. Con người mà phẩm giá phải được phục hồi. Chúa Giêsu đã không nói về Nước Thiên Chúa, là trung tâm của mọi hoạt động và sứ vụ của Ngài. Có lẽ điều này làm chúng ta ngạc nhiên. Nhưng Chúa Giêsu đã đặt con người và những người nghèo là đối tượng của Tin Mừng. Ngài trình bày điều này như là dấu chỉ đặc biệt của sứ vụ Ngài. Ngài mô tả hoạt động thiên sai không phải như việc thực thi quyền bính, hay chiếm hữu một vương quốc mà Ngài là Chủ. Nhưng đúng hơn, Ngài mô tả sứ vụ thiên sai của Ngài là một công việc phục vụ đối với con người và những nhu cầu của họ.

Vua trần gian có thần dân để cai trị, có quan quân để sai khiến, có tiền của mỹ nữ để truy hoan. Còn Chúa Giêsu trái lại, Người không làm vua theo kiểu thường tình ấy. Người đã khẳng định : “Nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18,36). Vì thế, cung cách của vị vua Giêsu hoàn toàn mới lạ. Tin Mừng hôm nay đã nói lên tính cách Vương Quyền ấy.

Dưới hình thức nhạo báng của các thủ lãnh Do thái, của lính tráng, của bản án treo trên thập giá, người ta đã thấy vương quyền của Chúa Giêsu, nhất là lời tuyên xưng của người trộm lành “Khi nào về Nước của Người, xin nhớ đến tôi”. (Lc 35,42).

Tuy nhiên, nước của Chúa Giêsu không nhằm tư lợi cá nhân như các thủ lãnh khiêu khích, cũng không tỏ ra oai quyền uy như bọn lính thách thức. Nước của Người là Nước Tình Yêu, vương quyền của Người là để phục vụ. Vì thế, Người đã không “xuống khỏi thập giá” cách ngoạn mục, nhưng đã “kéo mọi người” lên với Người (Ga 13, 32). Người đã không “cứu lấy chính mình”, nhưng đã “cứu lấy mọi người” khỏi chết muôn đời nhờ cái chết của Người.

Mừng lễ Chúa Kitô Vua hôm nay, Giáo Hội cũng muốn chúng ta bắt chước Chúa Giêsu. Sống và cư xử với mọi người như Chúa Giêsu. Chỉ có cách đó chúng ta mới xứng đáng là thân dân trong vương quyền của Chúa.

Những người mù, què quặt, phong cùi, câm điếc, chết chóc, nghèo khó lúc nào cũng có bên cạnh chúng ta, Đó là những đối tượng Chúa đã phục vụ đến quên ăn quên ngũ năm xưa, ngày nay vẫn mong chờ tình yêu thương của mọi người.

Xanphơ (ông chủ) sai Elôp đi dò xem đám cưới của người hàng xóm có nhiều người đi dự không. Elôp đến nhà người hàng xóm, ném một khúc gỗ xuống ngưỡng cửa nhà ông ta, rồi ngồi bên cạnh chờ khách ra về. Tiệc tan, ai ra khỏi cửa cũng đều vấp phải khúc gỗ đó nhưng chỉ bực bội nhìn khúc gỗ rồi đi đường mình. Chỉ có một bà cụ già sau khi vấp đã quay lại đẩy khúc gỗ sang một bên để người khác không bị cản trở. Elôp hài lòng trở về gặp chủ.

Thế nào, ở đấy có nhiều người không ? Xanphơ vốn tò mò hỏi.

Tất cả chỉ có một con người, mà đấy lại là một bà già – Elôp trả lời.

Sao lại thế ? Người chủ ngạc nhiên.

Tất cả đều vấp phải khúc gỗ – Elôp nói – mà không ai dẹp bỏ nó đi. Lũ cừu cũng làm như vậy. Chỉ có một bà cụ già khi chân vấp vào khúc gỗ đã dừng lại, cúi xuống đẩy khúc gỗ qua một bên để những người khác đo sau không bị vấp ngã. Chỉ có con người mới làm như vậy.

Một mình bà cụ là người.

Lạy Chúa, xin làm con nên xứng đáng phục vụ anh chị em, còn đang tản mác khắp nơi trên thế giới này, những con người sống và chết giữa cô đơn nghèo khổ. Hôm nay xin Chúa dùng đôi tay chúng con ban cơm bánh thường ngày cho họ. Và nhờ tình yêu chúng con, Chúa ban tặng họ hoà bình và hạnh phúc. Amen.

1. Hôm nay Giáo hội Việt Nam hân hoan và hãnh diện mừng kính các Thánh Tử Đạo tại V.N. Chúng ta hân hoan và hãnh diện vì 3 lý do:

– Trước hết vì các ngài là người đã chết trên đất nước Việt Nam thân yêu này của chúng ta. Tertulianô sử gia của La Mã thuở xưa đã nói: “Hạt máu của những vị tử đạo là hạt giống nảy sinh ra những người kitô hữu khác.” Thật không gì vui mừng và hãnh diện, tự hào khi đất nước chúng ta có những vị thánh góp mặt với Giáo Hội toàn cầu.

– Tiếp đến là vì số lượng lớn lao đông đảo các Thánh tử đạo VN của chúng ta đã có mặt trong Lịch sử của Giáo Hội. Với 117 vị Thánh, Giáo Hội VN được xếp hạng nhất nhì trong sổ bộ các thánh đã được Giáo Hội phong thánh.

– Và cuối cùng chúng ta hân hoan và hãnh diện vì các Ngài là những người đã trung thành với niềm tin và đã lấy đời mình làm chứng nhân anh hùng cho niềm tin đó

Đọc lại tiểu sử các Ngài ta không khỏi không cảm phục về đức tin kiên cường của các Ngài. Vì trung thành với Chúa, các Ngài đã cam chịu thiệt thòi trong đời sống, mất hết chức quyền danh vọng và nhất là phải chịu muôn ngàn khổ hình, có khi còn mất cả mạng sống vì đức tin.

Chúng ta hãy đọc lại sắc dụ cấm đạo được ban hành ngày 18-9-1855 để chúng ta thấy được một phần nào những khổ hình mà các Ngài phải chịu: “Các quan theo đạo Giatô tại triều đình Huế hạn cho một tháng phải bỏ đạo. Các quan tỉnh thì ba tháng. Lính tráng và người dân thì sáu tháng, bằng không thì phải kể là trọng phạm.

Các người theo đạo Giatô không được thi cử, không được giữ chức tước gì.

Ai đưa đường hay chứa chấp đạo trưởng thì bị xử tử. Đạo trưởng Tây phương thì chém đầu vứt xác xuống sông. Các giáo đồ giúp các đạo trưởng thì phải chém đầu.

Các cụ đạo bản quốc cũng phải chém đầu. Các giáo đồ theo các cụ đạo này thì phải thích chữ vào mặt và phát lưu.

Phải đốt cho sạch các nhà thờ nhà xứ “

Lịch sử còn ghi lại những hình phạt mà người ta đã nghĩ ra và đã dùng để trừng phạt những người theo đạo như sau :

  – Nhẹ nhất là bị gông cùm. Bị xiềng xích, bị nhốt trong cũi, bị đánh đòn, bị bỏ đói cho tới chết.

  – Nặng hơn một chút thì bị voi dày, bị trói rồi bị ném xuống sông, bị chôn sống, bị đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng cho đến chết.

  – Quyết liệt hơn một chút thì bị xử trảm, xử giảo (= bị thắt cổ) và thiêu sống.

  – Ác liệt nhất là bị xử lăng trì (phân thây ra từng mảnh) hay bá đao (bị xẻo đi từng mảnh thịt cho tới chết)

Tôi xin trích ra đây một đoạn trong bản báo cáo về việc xử Cha cố Du theo kiểu bá đao tại Thợ Đức ngày 30-11-1835:

“Họ cột chân tay Ngài vào một cây cột. Hai bên lính cầm kìm chờ sẵn. Sau hồi chuông báo hiệu, tên lính cầm kìm đã được nung đỏ kẹp vào ngực kéo ra hai miếng thịt nơi vú liệng xuống đất. Tên khác cầm dao xẻo thịt phía sau hông – rồi đến dùi thì chúng lấy kìm kéo thịt ra rồi dùng lưỡi dao xẻo đứt từng miếng. Cha ngất đi, đầu rũ xuống và Ngài tắt hơi về chầu Chúa lúc 17 giờ.

Cha chết rồi, lính chặt đầu Ngài cho vào một chiếc thùng đầy vôi….đoạn họ cởi trói, lật úp xác xuống, phân thây ra từng khúc nhỏ bỏ vào thùng vôi. Tiếp theo họ  lấy đầu đầu của ngài treo giữa chợ ba ngày…rồi lấy xuống nghiền nát ra, bỏ vào thùng đựng xác, rồi vứt tất cả xuống biển cho mất tích”

Vâng, kính thưa anh chị em.

Gian khổ có cao, hình phạt có nặng nhưng lòng trung thành của các Ngài còn còn cao còn lớn hơn. Cái chết của các Ngài thật đáng làm cho chúng ta tự hào. Trong sắc phong chân phước cho 64 anh hùng tử đạo VN ngày 27-5-1900 Chính Đức Thánh Cha Léo XIII đã nói về các Ngài với tất cả lòng khâm phục như sau: “Đây là những chiến sĩ trung liệt và kiên cường không kém gì những chiến sĩ ngày xưa vào những thế kỷ khai nguyên của Giáo Hội Chúa Kitô”

Đó là chuyện cách đây hơn 300 năm.

2. Chúng ta tự hỏi chúng ta có thể học tìm được một bài học nào từ những tấm gương hào hùng của cha ông chúng ta hay không?

Ngày nay đâu còn cảnh cấm đạo, bắt đạo, giết người có đạo như thời vua quan ngày xưa.

Nhưng để sống đạo trong xã hội hôm nay, quả thực chúng ta gặp không ít khó khăn. Xin kể ra 2 khó khăn tiêu biểu.

Khó khăn thứ nhất đó là chủ nghĩa cá nhân ngày càng phát triển. Ai cũng muốn thăng tiến bản thân và gia đình của mình. Ai cũng lo làm ăn, học hành, xây dựng cho bản thân. Cuộc cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Những nhu cầu của bản thân càng ngày càng nhiều. Rõ ràng là ngày nay người ta kiếm được nhiều tiền hơn trước, có nhiều tiện nghi hơn trước, xe cộ tốt hơn, nhà cửa đẹp hơn, hưởng thụ nhiều hơn.

Báo Tuổi trẻ số Chúa nhật ngày 23-10-2005 có một bài Phóng sự nói về cuộc sống của những “Sinh viên “quý tộc” Tôi xin trích một đoạn nhỏ: “Khi tiếp cận được cậu thanh niên mới hơn 20 tuổi này, Tuấn trả lời tôi một câu xanh rờn vì tưởng là bạn học cùng lớp: “Trẻ không xông pha về già ân hận”! Hỏi: “Có đêm ông tiêu hết 20 triệu hả?”. Tuấn nhả khói thuốc lạnh lùng bảo: “Độc thuê sảnh khách sạn đã mất ngần ấy rồi ông ạ. Bữa nào khao nặng phải mất hai cục (200 triệu)!”. “Ông chơi trội quá”, “Thiếu gì thằng như tôi, mỗi thằng khao một buổi”! Vừa trả lời xong, Tuấn đã “bận” với chiếc điện thoại O2: “Lại phải xuống Hải Phòng chơi với mấy thằng bạn”…

Rõ ràng chủ nghĩa cá nhân hôm nay đã làm cho con người không bao giờ thấy thỏa mãn, đầy đủ. Vì thế càng ngày con người càng đóng kín vào bản thân, không có thời giờ để đến nghĩ đến người khác. Một câu nói được coi như châm ngôn của một số người “Ăn tranh thủ, ngủ khẩn trương, học bình thường, chơi là chính”…

Để lựa chọn sống theo Phúc Âm, để trung thành với Lời Chúa dạy, chúng ta phải quên một phần thân mình, gia đình mình để nghĩ đến, để giúp đỡ, để vực dậy những anh em kém may mắn. Đó là điều không dễ.

Khó khăn thứ hai là kinh tế thị trường ngày càng phát triển. Đồng tiền đang trở thành một thước đo cho mọi giá trị của con người. Đồng tiền đang trở thành một quyền lực chi phối toàn bộ đời sống con người. Ai cũng muốn có thật nhiều tiền, và để có nhiều tiền, nhiều người đã không từ chối bất cứ một phương tiện nào kể cả những phương tiện mà họ biết là bất chính như: lường gạt, lừa đảo, làm hàng giả, buôn thuốc phiện, tham nhũng, hối lộ. Nhiều vụ đại án đã xảy ra những năm gần đây là những thí dụ. Tiền bạc quả là một cơn cám dỗ đang làm chao đảo, đang tàn phá những giá trị tốt đẹp, đang làm biến chất biết bao nhiêu con người trong cuộc sống hôm nay.

Đứng trước nhu cầu và ham mê tiền bạc, người Công Giáo muốn trung thành với Phúc Âm, muốn sống trọn vẹn đức tin, bắt buộc phải có sự lựa chọn.

Thà cam chịu nghèo khổ còn hơn nhận những đồng tiền phi nhân bất nghĩa.

Thà cam chịu thiếu thốn còn hơn đánh mất đức tin.

Thà lao động cực khổ để kiếm miếng cơm manh áo chân chính hơn là chạy theo những đồng tiền dễ dãi để chối từ Phúc Âm và luật Chúa.

Quả thực xã hội mới đang tạo ra những thách đố, những cơn bắt bớ mới. Để trung thành với Chúa, với Phúc Âm chúng ta cũng phải lựa chọn quyết liệt. Những chọn lựa đó làm cho chúng ta đau đớn không kém gì những khổ hình.

Những hy sinh vì Phúc Âm đó khiến lòng ta rỉ máu không kém gì phải chịu thiêu thân, hay chịu cảnh bị đầu rơi máu chảy.

Các Thánh tử đạo chỉ chọn lựa một lần. Còn chúng ta chết mòn mỏi mỗi ngày trong những chiến đấu, những từ bỏ đớn đau. Sống Phúc Âm trong thời đại hôm nay quả không phải là dễ. Phải nói rằng đây đúng là một cuộc tử đạo liên tục. Và sống vì đạo như thế cũng cao đẹp và cũng anh hùng không kém gì chết vì đạo. Sống vì đạo như thế, chúng ta cũng góp phần làm chứng nhân cho Chúa, cho Phúc Âm không kém gì chết vì đạo.

Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam, xưa các Ngài đã anh dũng hy sinh cuộc đời, dâng hiến máu đào làm chứng cho Phúc Âm. Xin giúp chúng con hôm nay cũng biết can đảm, hy sinh sống theo Phúc Âm để làm chứng cho Chúa trong đời sống hằng ngày. Amen.

Kính thưa anh chị em

Chúng ta đang ở trong tháng 11, tháng Giáo hội muốn chúng ta hướng về đời sau, cụ thể là sự chết và bên kia sự chết là cuộc sống đời sau. Có cuộc sống đời sau hay không? Đó không phải là một câu hỏi dễ trả lời.

I. Đặt Vấn Đề.

Trong Kinh Tin Kính của CĐ Nicêa mà chúng ta vẫn đọc: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy.Amen.” Chúng ta vẫn đọc và có thể nói chúng ta vẫn tin như thế nhưng thử hỏi có phải tất cả mọi người đều tin như vậy hay không thì đó lại là một chuyện khác.

Trên thế giới ngày xưa cũng như hôm nay, có rất nhiều người không tin có thế giới mai sau và vì thế họ cũng không tin có sự sống lại. Chẳng hạn như trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy những người phái Sađốc là những người như thế. Họ không tin có thế giới mai sau, không tin có thiên thần, không tin có linh hồn bất tử, không tin có thưởng phạt, do đó họ không tin có sự sống lại.

Chính vì thế họ đã đến gặp Chúa Giêsu với ý định muốn hạ gục Chúa để làm mất mặt Chúa trước mặt mọi người. Đó là ngày xưa.

Còn ngày hôm nay thì sao? Ngày nay cũng chẳng thiếu gì những người như thế. Đức Thánh Cha Phaolô VI có lần đã nói đến một hiện tượng đang có ở trong Giáo Hội. Đó là hiện tượng “Những người công giáo vô thần” Những người công giáo vô thần. Đó là những người đã được Rửa tội, thậm chí đã lãnh nhận Bí tích thêm sức nhưng cuộc sống của họ chẳng gì một cuộc sống không có Chúa. Họ sống như chẳng có đời sau.

II. Bây giờ đến lượt chúng ta. Chúng ta nghĩ như thế nào về cuộc sống ở thế giới mai sau và sự sống lại?

Chắc chắn chúng ta không phải là những người vô thần.

1. Căn cứ vào câu trả lời của Chúa dành cho những người thuộc phái Sa-đốc trong bài Tin Mừng hôm nay chúng ta đã thấy thật rõ ý của Chúa. Chúa khẳng định một cách rõ rệt về cuộc sống mai sau và về việc kẻ chết sống lại. Đối với Chúa thì cuộc sống mai hậu hay đời sau có một số đặc điểm khác với cuộc sống ở đời này. Trong cuộc sống đời sau: Người ta sẽ không lấy vợ gả chồng… bởi vì họ giống như các thiên thần và là con cái của Thiên Chúa, là con cái của sự sống lại. Chính Thánh Kinh cũng quả quyết điều đó: Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống; vì mọi người đều sống cho Thiên Chúa.

2. Đàng khác trong Tin Mừng với ba phép lạ Chúa làm cho người chết sống lại:

Em bé 12 tuổi con ông Giairô, chàng thanh niên con của bà góa thành Naim và cuối cùng là Lagiarô đã chết 4 ngày được sống lại, Chúa Giêsu đã không coi sự chết như một sự chấm dứt tất cả mà Ngài chỉ coi sự chết như một giấc ngủ.

3. Cuối cùng chúng ta không thể nào không nói đến chính sự phục sinh của Chúa Giêsu. Chính sự phục sinh từ cõi chết của Chúa là bằng chứng và cũng là nền tảng vững mạnh nhất cho niềm tin chúng ta về cuộc sống mai sau và cuộc sống đời đời.

Trong chương trình “Những điều người có thể chưa biết” của đài VTV3 có tường thuật một trường hợp lạ lùng: Một phụ nữ bị nhồi máu cơ tim. Chị tắt thở. Chị đã chết. Nhưng nhiều giờ sau, chị tỉnh lại. Các bác sĩ hỏi chị đã thấy gì trong thời gian ấy. Chị trả lời: chị thấy mình như bay bổng lên cao, và từ trên cao chị nhìn xuống thấy các bác sĩ, các y tá đang chăm sóc cho mình, nhìn thấy thân xác mình nằm bất động, nhìn thấy thuốc men, dụng cụ y tế. Chị cũng nhìn thấy một chiếc giày tennis cũ màu xanh da trời, đế giày bị mòn ở mép trong bàn chân, giây giày màu trắng, đầu một sợi dây thòng xuống dưới đáy giày. Nghe lời tả rất chi tiết của chị, vị bác sĩ chuyên điều tra băn khoăn để ý tìm kiếm. Một hôm vị bác sĩ đi qua tòa nhà đối diện nhìn sang bệnh viện, bà giật mình kinh hãi vì thấy ở tầng ba của tòa nhà, trên một gờ xi măng rất cheo leo, có một chiếc giày tennis cũ ai đã đặt ở đó tự hồi nào. Vị bác sĩ quan sát kỹ lưỡng và thấy chiếc giày giống từng chi tiết với chiếc giày mà người chết kể lại: chiếc giày vải cũ màu xanh, đế giày mòn ở mép trong, dây giày màu trắng, đầu một dây thòng xuống nằm ở dưới đáy giày.

Đó là một trong 1370 trường hợp trở về từ cõi chết mà các bác sĩ Đức và Mỹ đã điều tra. Theo những người có kinh nghiệm về cái chết này thuật lại thì: Cuộc sống ở “cõi bên kia” hạnh phúc hơn cuộc sống ở đời này. Và sau khi “chết đi sống lại”, không ai còn sợ chết nữa, không ai muốn kiếm tiền bạc, danh vọng, lạc thú gì nữa. Điều duy nhất mà họ quan tâm là sống yêu thương, quảng đại, phục vụ mọi người. Tất nhiên đây chưa phải là bằng chứng chắc chắn về việc người chết sống lại. Nhưng nó rất gần với mặc khải của Lời Chúa hôm nay. Và kinh nghiệm hiếm có của họ rất có thể hữu ích cho ta.

III. Kết luận: Hãy sống như những người có niềm hy vọng.

Heidegger: “Nếu chết là hết thì đời ta sẽ phải luôn sống trong lo sợ. Bởi vì biết rằng mình sẽ chết và chết là sẽ trở về với hư vô…và như vậy là đã mang sẵn hư vô trong mình rồi. Vậy thì sống mà làm gì để ngày mai phải vào cõi hư vô.”

Chiều hôm ấy, một nhà bác học đứng trên bãi biển thấy nước phẳng lặng, trời trong veo, ông liền gọi một ngư phủ lấy thuyền chèo đưa ông ra khơi. Hai người cùng trò chuyện: Nhà bác học hỏi người chèo thuyền có biết đọc không? Người chèo thuyền trả lời: “Không”.

Nhà bác học nói: “Vậy thì anh mất hết nửa đời người rồi, uổng quá! Vì biết đọc sách, người ta sẽ tiếp thu được biết bao điều hay, học thêm được bao nhiêu điều mới lạ”.

Rồi ông bắt đầu kể cho người ngư phủ: nào là lòng sâu của biển cả, nào là tuổi đời cũng như độ bơi của bao nhiêu loài cá. Người ngư phủ thích thú lắng tai nghe. Nhưng kìa, trên vòm trời xanh thấy điểm nhiều mây đen từ đâu bay đến, rồi từng cơn gió mạnh quấy động mặt nước, biển nổi sóng. Gió càng thổi mạnh, mây càng hạ thấp. Người ngư phủ đâm ra lo sợ và báo cho nhà bác học hay một cơn giông tố sắp xảy đến. Nói chưa dứt thì một làn sóng mạnh đã lật úp chiếc thuyền nan của hai người. Người ngư phủ lớn tiếng hỏi nhà bác học:

– Thưa ông, ông có biết bơi không?

– Tôi không biết bơi, nhà bác học trả lời.

– Thưa ông, thế thì ông mất hết cả đời người rồi!

Người ngư phủ lại hỏi thêm:

– Thưa ông, ông có tin đời sau không?

Nhà bác học vừa lặn hụp xuống chống chọi dưới làn sóng vừa trả lời:

– Đời sau là cái gì. Im đi! Để ta chết!

Nhưng người ngư phủ lại nói thêm:

– Thưa ông, thế thì ông chẳng những mất cả đời nầy mà còn mất cả đời sau nữa. Thật vô phúc cho ông!

Một cơn sóng lớn đã cuốn hút nhà bác học vào lòng sâu biển cả.

cách đây không lâu, trường đại học California đã thực hiện một cuộc thí nghiệm về sức chịu đựng của loài chuột đồng Na Uy. Những con chuột này được thả vào trong chậu nước và bị buộc phải bơi cho đến khi chúng kiệt sức và chết chìm. Trong lần thí nghiệm thứ nhất, các nhà nghiên cứu khám phá rằng những con chuột Na Uy có khả năng bơi khoảng 7 tiếng đồng hồ trước khi buông xuôi.

lần thí nghiệm thứ hai được thực hiện cũng như lần trước, chỉ khác một điều. đó là khi các con chuột gần như kiệt sức, không thể bơi được nữa, các nhà nghiên cứu sẽ vớt nó ra ngoài, cho nó nằm nghỉ một lát rồi lại thả vào trong chậu nước. Những con chuột này lại có thể bơi gần 20 tiếng đồng hồ trước khi chìm xuống dưới!

Các nhà nghiên cứu kết luận, sở dĩ những con chuột trong nhóm thứ hai có thể bơi lâu hơn nhóm thứ nhất là bởi vì nó có hy vọng. Nó đã có kinh nghiệm được giải cứu một lần và những gì giúp nó tiếp tục bơi lội thêm gần 20 tiếng sau đó là niềm hy vọng sẽ được giải cứu lần nữa.

con người chúng ta cũng không khác gì mấy, nếu không có hy vọng thì cuộc sống này sẽ trở nên vô nghĩa. Đó là lý do tại sao nhiều người dù gặp phải những hoàn cảnh hết sức bi đát nhưng vẫn kiên trì và quyết tâm vươn lên. Họ có hy vọng vào một ngày mai tươi sáng hơn. Đó là động lực khiến họ không bỏ cuộc và không ít người trong số đó đã trở thành những vĩ nhân của nhân loại. Trong số những vĩ nhân đó phải kể đến những vị thánh mà chúng ta mới mừng kính mấy ngày hôm nay.

Chúng ta hãy cảm tạ Chúa và xin Người cho chúng ta can đảm.Amen.

Kính thưa anh chị em,

1. Chúng ta vừa được nghe lại một trong những câu truyện đẹp nhất trong Tin Mừng của Thánh Luca.

+ Mở đầu câu chuyện, hình ảnh của ông Giakêu rất xấu: Ông được mô tả như là một kẻ tội lỗi: Lý do là vì ông làm nghề thu thuế và lại là người giầu có. Nghề thu thuế xưa cũng như nay là nghề có nhiều cám dỗ về tiền bạc. Giakêu làm nghề thu thuế mà lại còn giầu có thì người ta có đủ lý do để nghi ngờ về sự giầu có bất chính của ông.

+ Nhưng đến cuối câu chuyện, hình ảnh của ông trở nên đẹp lạ thường. Lý do là vì ông thay đổi hẳn, thay đổi hoàn toàn, một sự đổi thay tuyệt vời làm cho Chúa Giêsu cũng phải nhìn nhận: “Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này”. Sự thay đổi như thế nào thì đây chúng ta hãy nghe chính Giakêunói: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.”

Giakêu đã được gặp Chúa và cuộc đời của ông đã thay đổi. Đây chẳng phải là chuyện tình cờ.

2. Chúng ta tự hỏi do đâu mà Da Kêu đã đổi đời như thế?

Một số nhà chú giải KT cho rằng: Có hai yếu tố giúp ông Giakêu tạo nên sự thay đổi đó:

– Yếu tố thứ nhất là những cố gắng của chính Giakêu: “tìm cách xem” mặt Chúa Giêsu, “chạy tới phía trước”, “leo lên một cây sung để xem Chúa Giêsu”.

Ơn cứu độ luôn sẵn đó. Chỉ cần Giakêu chịu khó tìm đến Chúa để lãnh nhận là có ngay.

Một hoàng tử kết hôn với hoàng hậu và đăng quang Tân vương. Đang lúc mọi người vui ca xướng hát mừng tân vương và hoàng hậu thì bỗng tiếng đàn hát im bặt. Mọi người ngạc nhiên nhớn nhác không biết có chuyện gì xảy ra thì kìa ở ngay giữa công trường đền vua, một tội nhân đang run rẩy chờ án tử hình trên đoạn đầu đài.

Kinh hoàng trước cảnh tượng đó: hoàng hậu nức nở khóc, xin tân vương ân xá cho tội nhân. Để an ủi hoàng hậu, tân vương xin quan tòa ân xá cho tội nhân như món quà dâng cho vua vào dịp lễ thành hôn của mình. Thế nhưng quan tòa đã từ chối và đòi phải chuộc mạng tội nhân với số tiền lớn là 1000 đồng tiền vàng. Lập tức tân vương dốc cạn túi thì được 800, hoàng hậu cũng trút hết ví trên tay được 50. Tân vương hỏi quan tòa:

– Với 850 tiền vàng, có chuộc được mạng tội nhân không?

Quan tòa đòi đủ 1000 theo luật định. Nghe nói thế, hoàng hậu liền đi quyên góp các nhà quý tộc đến dự tiệc. Tất cả được đã 999 đồng. Chỉ còn thiếu một đồng. Hoàng hậu lên tiếng hỏi:

– Chẳng lẽ chỉ thiếu một đồng mà người nầy phải chết ư?

– Luật là luật. Không miễn trừ cho ai được cả.

Hoàng hậu mới nảy ra sáng kiến. Biết đâu tội nhân có một đồng tiền vàng, và đúng thật trong túi tội nhân người ta tìm thấy một đồng.

Khi dựng nên con nguời: Thiên Chúa đã đặt trong tâm hồn mỗi nguời một một đồng tiền vàng có đủ giá trị cứu vãn đời mình.

Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết ông Giakêu có đồng tiền vàng đó. Khi nghe tin Chúa Giêsu đến thành phố ông, “ông tìm cách để xem cho biết Chúa Giêsu là ai, nhưng không được vì dân chúng thì đông mà ông ta lại lùn. Ông liền lên phía trước leo lên một cây sung để xem Đức Giêsu (Lc l9,3-4). Và khi Chúa Giêsu gọi ông, “Ông vội vàng tụt xuống và mừng rỡ đón rước Người” (Lc.19,6). Đồng tiền vàng của ông Giakêu chính là: “tìm cách..xem cho biết Chúa Giêsu, là chạy đến phía trước, là leo lên một cây sung, là vui mừng đón tiếp….” (Theo “”Phút Cầu Nguyện Cuối Ngày”, tập I).

– Yếu tố thứ hai là lòng nhân từ của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu “nhìn lên” ông, Ngài gọi ông “xuống mau đi”, Ngài đưa ra đề nghị đến nhà ông “Hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”. Chúa Giêsu tự giới thiệu là “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất”.

Để cảm hóa một con người thường bao giờ Chúa cũng đi một bước trước. Hai anh em Andre và Simon đang giặt lưới thì Chúa đến và gọi. Hai ông bỏ mọi sự mà đi theo Chúa ngay. Levi người thu thuế đang làm việc tại bàn thu thuế, Chúa cũng đến và lên tiếng gọi, Lêvi đứng dây ngay lập tức và hân hoan theo Ngài.

Trong kho tàng những câu chuyện về Thiền, tôi đọc được câu chuyện cảm động này. Thiền sư Sengai có mở một lớp để huấn luyện các đệ tử của mình. Có rất nhiều đệ tử đến theo học Thiền dưới sự hướng dẫn của thiền sư. Một người trong bọn họ thường hay thức dậy ban đêm, vượt tường ra phố để dạo mát cho thoả thích.

Một đêm kia, Sengai đi giám sát phòng ngủ, thấy một đệ tử vắng mặt và cũng khám phá ra được chiếc ghế đẩu cao mà anh ta thường dùng để leo qua tường. Sengai liền dời chiếc ghế đi chỗ khác và đứng thay vào chỗ đó. Khi anh chàng rong chơi trở về, không biết thầy Sengai đang đứng đúng ở vị trí chiếc ghế, anh ta đặt chân lên đầu thầy và nhảy xuống đất. Lúc khám phá ra việc mình đã làm, anh ta hoảng sợ, nhưng Sengai nhẹ nhàng bảo:

– Sáng sớm hôm nay trời lạnh lắm. Con hãy cẩn thận kẻo bị cảm đấy!

Từ đó trở đi, người đệ tử ấy không bao giờ bỏ ra ngoài ban đêm nữa. Anh chuyên tâm học tập và trở thành người đệ tử gương mẫu của thầy Sengai.

Thiên Chúa không những tế nhị, dịu dàng, và nhân từ như thầy Sengai mà Người còn khoan dung, tha thứ và yêu thương những con người tội lỗi hơn nhiều.

Chúng ta hãy nghe lại những lời Chúa nói với ông Giakêu: Này Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” (Lc 19,5). Hạnh phúc quá bất ngờ: Người không chỉ biết ông đang ở trên cây mà còn biết cả tên ông. Người không chỉ muốn đến thăm mà còn xin ở lại nhà ông. Ông chỉ có một ao ước nhỏ nhoi là được nhìn thấy Người, nhưng Người lại cho ông cả một ân huệ lớn lao vượt quá lòng ông mong ước.

Vâng, chính đôi mắt tâm hồn ông đã được bừng sáng, để ông không chỉ thấy một con người bình thường trước mặt, nhưng còn thấy Người chính là Đấng ban ơn cứu độ, đầy lòng nhân từ và xót thương; để ông không chỉ thấy tiền bạc là tất cả nhưng còn thấy được giá trị cao cả của chia sẻ và trao ban. Ông đã quá vui mừng hứa với Chúa: “Thưa Ngài, này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo, và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn” (Lc 19,8). Và Chúa chỉ chờ có thế, để nói với mọi người: “Ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Ápraham” (Lc 19,9).

Và chắc chắn, không ai có thể ngăn cản ông ngồi đồng bàn với Chúa, trong bữa tiệc hân hoan ngay sau đó. Chắc chắn, ông Giakêu không còn giầu có như trước nữa, nhưng ông sẽ hạnh phúc hơn nhiều. Chắc chắn thân xác ông vẫn lùn như xưa, nhưng tâm hồn ông đã cao thượng hơn gấp bội.

Lạy Chúa, xin cho chúng con cũng có được một tấm lòng khoan dung như Chúa, và một tâm hồn quảng đại như Giakêuđể cả thế giới này trở nên con cái Ápraham, và được hưởng nhờ ơn cứu độ của Chúa. Amen.

Anh chị em thân mến,

Chúng ta vừa được nghe một bài Tin Mừng rất quen thuộc. Tôi tưởng tất cả chúng ta đều thuộc lòng bài Tin Mừng này. Vấn đề bài Tin Mừng hôm nay nói tới cũng là vấn đề hết sức thường tình. Chỉ có điều là biết thì ai cũng biết, nhưng thực hành thì quả thực không dễ. Chúng ta hãy để cho Lời Chúa soi dẫn chúng ta.

1. Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống. (Lc 18,14)

Trong cuộc sống: Ai là người tôn mình lên?

Một hôm Dương Chu sang nước Tống, vào ở trọ một nhà kia.  Người chủ nhà có hai nàng hầu, một nàng đẹp, một nàng xấu.  Để ý quan sát, Dương Chu thấy trong nhà ai cũng quí trọng người thiếp xấu mà khinh rẻ người thiếp đẹp.  Lấy làm lạ, ông mới dò hỏi cậu bé giúp việc.

Cậu bé tiết lộ:

–     Người thiếp đẹp hay kênh kiệu, tự cho mình là đẹp nên mất đẹp.  Chúng tôi chẳng ai còn nhìn ra cái đẹp của nàng.  Trái lại, người thiếp xấu, tự biết mình xấu, sống hồn nhiên vô tư với mọi người, nên không ai còn nhìn thấy cái xấu của nàng nữa.

Dương Chu liền gọi học trò đến dặn:

–     Các con hãy ghi nhớ lời này:  Giỏi mà bỏ được cái thói tự cho mình giỏi thì đi đâu mà chẳng được người yêu quý tôn trọng.

Người Biệt phái trong Tin Mừng hôm nay là người bị coi là thuộc hạng người này: Khoe khoang, tự kiêu, tự mãn, tôn mình lên … vv.

Đối với những hạng người như thế thì Chúa bảo “sẽ bị hạ xuống”. Ai hạ xuống? Thưa chính Chúa.

Hoàng Đế Nã Phá Luân, của Pháp ngày xưa (1804 đến 1821) là một bậc anh hùng tài giỏi bách chiến bách thắng. Năm 1815, trong trận đánh Nga, vua Nã Phá Luân đã mơ tưởng sẽ thu phục được cả nước Ấn độ, và với lòng kiêu ngạo vô biên, nhà vua đã cho đúc một thứ huy chương có dòng chữ này: “Thiên đàng là của Thiên Chúa, trái đất là của ta”. Nhưng rồi như lịch sử còn ghi lại: Nã Phá Luân đã thất bại và đã mất ngôi báu vì trận đánh này. Sau cuộc thất bại của nhà vua, viên đại tướng người Nga đã cho đúc một thứ huy chương khác, trên mặt có hình một bàn tay đưa qua đám mây, cầm roi quất vào lưng vua Nã Phá Luân với cũng một lời tương tự như thế: “cái lưng là của mày, cái roi là của tao”. Và như thế, vị hoàng đế kiêu ngạo này, sau đó bị đày ra hòn đảo Sainte Héleine quạnh hiu hoang vắng và chôn vùi cuộc sống buồn tẻ cho tới mãn đời. Chính từ nơi đây ông có thể suy nghĩ về chân lý, những lời này của Chúa:

“Ai hạ mình xuống thấp hèn, sẽ được Thiên Chúa nâng lên cao.

Ai nâng mình tới tận trời, sẽ bị hạ xuống tận đời đất đen”

2. Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên. (Lc 18,14)

Thử hỏi ai là người biết hạ mình xuống.

Theo bài Tin Mừng hôm nay thì chúng ta có thể thấy: Đó là người thu thuế. Người thu thuế trong Tin Mừng hôm nay chẳng có gì để nói về mình khi đối diện với Thiên Chúa. Tất cả những gì anh ta muốn nói với Chúa chỉ là cầu xin lòng Chúa xót thương của Người. Thái độ khiêm nhường đó đã được Chúa khen: “Người này ra về thì đã được trở nên công chính”

Lacordaire nhà văn lớn của nước Pháp đã viết rất hay về vấn đề này: “Khiêm nhường lấy sự thật làm nền tảng. Tự gắn cho mình cái sai ta không có, phóng đại những lỗi lầm ta không phạm, từ chối không nhìn nhận khả năng của mình, tự cho mình thua kém mọi người, đó không phải là cách sống khiêm nhường; nhưng đó là dấu hiệu của một quan điểm sai lầm, hay một khuynh hướng bệnh hoạn. Muốn thực hiện khiêm nhường chỉ cần nhìn nhận những khuyết điểm, thấy mình tội lỗi, giới hạn, biết rằng trong tất cả mọi lãnh vực có nhiều người khác vượt xa tôi.

Lạy Chúa, con sẽ đứng đúng chỗ con, không cao hơn, mà cũng không thấp hơn.”

Hồi ấy, lúc 40 tuổi Moise đang chăn chiên dưới chân núi Goben, Chúa liền hiện ra trong đám lửa ở bụi gai mà phán với Moise rằng:

– Ta đã thấy những lầm than khổ cực của Israel dân Ta. Ta đã nghe những tiếng rên xiết và khóc than của con cái Israel. Bởi vậy cha chọn con, để giải phóng Israel dân cha khỏi ách nô lệ của người Ai cập. Cha sai con đến với vua Pharaon, hoàng đế nước Ai cập, để xin nhà vua cho dân Israel được ra khỏi đất Ai cập, và tiến về đất hứa.

Bấy giờ Moise cảm thấy mình hèn yếu bất lực, nên đã thưa lại rằng:

– Lạy Chúa con là vật gì, mà Chúa chọn và sai con. Con là ai, mà dám đến với hoàng đế Pharaon. Con chỉ là một tên nô lệ, laị là đứa nói ngọng, thì làm sao thuyết phục được vua nước Ai cập.

Thấy Moise khiêm tốn, biết mình hèn yếu bất lực, Chúa đã chấn tĩnh:

– Con nói trúng, để đương đầu với vua Pharaon, phải có một bàn tay cứng rắn sắt đá; nhưng con đừng sợ, cha sẽ ở với con.

Thế rồi, Chúa luôn ở với Moise bằng cách trao cho ông chiếc gậy thần để ông làm nhiều phép lạ, thuyết phục được hòang đế  Pharaon. Và Moise đã trở nên vị lãnh đạo xuất chúng, đưa dân Do thái ra khỏi nước Ai cập, đi qua biển Đỏ, và tiến vào đất hứa.

Moise đã hạ mình xuống, nhận mình là hèn yếu, bất lực, là tên nô lệ, là đứa nói ngọng, nên đã được Chúa nâng lên làm vị lãnh đạo đưa dân Do thái ra khỏi nước Ai cập và tiến vào đất Chúa hứa.

3. Bài học hôm nay.

Hãy biết sống khiêm nhường dể được Chúa yêu thương. Lý do tại sao? 

Socrate là một triết gia rất thời danh của nước Hy-lạp vào năm 470-399 trước Chúa giáng sinh. Socrate cũng là một quân tử đã khai sinh cho khoa luân lý học. Lần kia, quân tử Socrate đã gọi sinh viên Aleibriade lên đứng trước tấm bản đồ thế giới mà bảo:

– Này trò, trò hãy chỉ cho thày coi, Châu Á ở chỗ nào?

Chàng Sinh viên Aleibriade đã chỉ trúng vào chỗ Châu Á. Quân tử Socrate lại bảo trò

– Hãy chỉ nước Hy-lạp trong Châu Á.

Sinh viên Aleibriade cũng chỉ trúng chỗ. Quân tử Socrate bảo thêm:

– Trò hãy chỉ xứ Attique trong bán đảo Péloponnèse.

Sinh viên Aleibriade đã chỉ trúng vào cái chấm nhỏ xíu.

Sau cùng, quân tử Socrate mới bảo:

– Trò hãy chỉ cho thày biết, cái chỗ trò đang đứng trên tấm bản đồ thế giới.

Đến đây sinh viên Aleibriade đỏ tai và luống cuống, không biết chỉ vào chỗ nào cho trúng, vì thấy mình rất nhỏ bé trên tấm bản đồ thế giới. Bấy giờ quân tử Socrate nói:

– Thày muốn dạy các trò một quan niệm đích thực về con người. Các trò đối với thế giới, giống như giọt nước đối với biển cả mênh mông. Các trò đối với nhân loại giống như hạt cát đối với bãi sa mạc bát ngát, để các trò có một bài học khiêm tốn đối với mọi người (7,83).

Vậy nếu quân tử Socrate đã dạy các sinh viên của ông bài học khiêm tốn, khi biết mình là bé nhỏ, thì trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa cũng dạy chúng ta phải ở khiêm tốn, đừng có kiêu ngạo, khi Chúa phán:

“Ai hạ mình xuống thấp hèn

Sẽ được Thiên Chúa nâng lên cao vời”