Thiếu nhi chúng con yêu quí.

Lại một lần nữa chúng ta nói chuyện với nhau về Ông Gioan Tẩy Giả.

Cha đố chúng con biết trong bài Tin Mừng hôm nay Gioan Tẩy Giả đã làm gì ?

– Thưa ông đã làm chứng cho Chúa.

– Chúng con trả lời rất đúng.

1. Lời chứng của Gioan Tẩy Giả.

Trong bài Tin Mừng hôm nay cụm từ làm chứng được dùng đến bốn lần.

Gioan được sai đến để làm chứng (x. c.6-7).

Cả câu chuyện xảy ra ở Bêtania, bên kia sông Giođan, là một lời chứng hùng hồn của ông (c.19).

Gioan không làm chứng cho mình hay về mình, bởi lẽ ông không phải là Ánh Sáng.

Ðiều kiện tiên quyết của người làm chứng là sống đúng như chứng từ của mình.

Martin Luther King viết: “Chúng ta không chỉ làm chứng bằng lời nói, mà còn làm chứng bằng cuộc sống của mình”. Có những tâm hồn dần dần cải hóa nhờ việc làm của ta, nhưng chính ta lại không ngờ tới. J. Basquin nói: “Sống chứng nhân không phải là đuổi theo các tâm hồn, mà là sống làm sao để các tâm hồn chạy theo ta”.

Gioan Tẩy giả là người làm chứng như thế. Ðoạn Tin Mừng hôm nay viết: “Ông đến để làm chứng về ánh sáng”. Trung thực với chứng từ này, một mặt ông cố gắng chỉ cho người ta thấy Ánh Sáng là ai, mặt khác khi có người tưởng ông là Ánh sáng ấy thì ông thẳng thắn phủ nhận. Rồi khi Ánh sáng xuất hiện, ông âm thầm rút lui: “Ngài phải sáng lên, còn tôi phải mờ đi”.

Sứ mạng của Gioan Tẩy Giả là làm chứng cho Sự Sáng đích thực chính là Ðức Kitô. Ðức Kitô đến để chiếu ánh sáng cho trần gian. Toàn bộ Tin mừng Gioan chỉ là để trả lời cho câu hỏi này: “Giêsu Nagiarét, Người là ai ?” Gioan không dùng danh từ Phúc âm mà chỉ dùng từ ngữ “chứng nhân”. Ðộng từ “làm chứng” được Gioan nhắc đến 33 lần. Tin Mừng Gioan được khai mở bằng lời chứng của Gioan Tiền Hô và kết thúc với minh chứng của Gioan Tông đồ: “Chính môn đệ này làm chứng về những việc đó và đã viết ra. Chúng tôi biết lời chứng của người ấy xác thực” (Ga. 21, 24).

Qua lối sống khổ hạnh khác người, qua lời rao giảng sám hối, và qua lời chứng: “Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi” (Ga. 1, 23) đã minh chứng Gioan là vị Tiền Hô của Ðấng Cứu Thế, là chứng nhân của Thiên Chúa. Gioan chỉ đứng ra làm chứng và báo trước ngày Chúa xuất hiện, rồi rút lui vào bóng tối.

Có thể nói, Gioan là người tôi tớ, còn Ðức Giêsu mới là ông chủ, Gioan là đèn soi, còn Ðức Giêsu mới là ánh sáng, Gioan là tiếng kêu, và Ðức Giêsu mới là lời hằng sống.

Đây chúng con hãy nghe một lời chúng nữa về Chúa. Lời chứng này không phải là lời chứng có từ thuở xưa mà là lời chứng của những người sống với chúng ta ngày hôm nay. Cha muốn nói đến cuộc sống của Thánh Gioan Vianney như một con người sống giữa thế giới hôm nay như là một con người đang sống để qua ngài mọi người thấy được Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương con người.

Đây là lời chứng của một người bổn đạo: Mấy mươi năm liền, ngài luôn giam mình trong toà giải tội, mỗi ngày 18 tiếng đồng hồ, để đem các tội nhân về trong vòng tay Chúa. Không những thế, ngài còn luôn canh cánh bên lòng mối bận tâm về cảnh nghèo túng cơ cực của nhân dân. Chính ngài đã lập nên các viện cô nhi, lớp học mẫu giáo và sẵn sàng cho kẻ nghèo tất cả những gì ngài có hay kiếm được.

Trong lúc toà án giáo phận Belley đang tiến hành việc điều tra về hạnh tích của vị Linh mục, đề lập hồ sơ xin phong thánh, thì có một cụ già quê mùa nghèo khó đến làm chứng như sau:

“Hôm ấy, trời đã sẩm tối, tôi thấy cha Vianney đi giúp tuần đại phúc ở một xứ xa về; giữa đường vắng chỉ có tôi với ngài; vừa gặp tôi, ngài liền lên tiếng chúc một cách vui vẻ:

– Chào ông, mấy lâu nay có được khoẻ không ?

Công việc làm ăn ra sao ?

Chào cha, dạ cám ơn Chúa, con cũng thường luôn; nhưng cũng giấu gì cha, con túng thiếu quá, mất liên tiếp ba vụ mùa liền!

– Tội nghiệp! Tôi thương ông và các cháu lắm:

– Chúng nó rất ngoan.

Vừa nói ngài vừa xỏ tay vào túi áo, lục soát khắp cùng mà cũng chẳng lòi ra được một xu. Nhìn trước nhìn sau, ngài ghé vào tai tôi bảo nhỏ:

– Ông chịu khó đợi cha một chút nghe!

Tôi vâng lời đứng đợi. Ngài rón rén đi ra sau một lùm cây… Mấy phút sau ngài trở lại, trao tận tay tôi một vật và nói:

– Cha không còn gì cả. Ông vui lòng lấy cái quần của cha đây đem bán mà mua bánh mì cho các cháu. Ông thông cảm, bữa sau có gì cha sẽ giúp cho thêm. Thôi chào ông nhé!

Tôi chưa kịp cám ơn vì quá xúc động nghẹn ngào thì bóng dáng ngài đã biến mất sau hàng cây ở trước mặt…”

Cũng trong dịp điều tra để phong thánh cho vị Linh mục thánh thiện, một bác nhà quê khác đã làm chứng rằng: ‘Tôi quê mùa chất phác, chẳng biết nói chi, chỉ xin thưa thế này: Tôi nghĩ Thiên Chúa hẳn tốt lành vô cùng vì cha sở chúng tôi là một người phàm giữa thế gian mà đã tốt lành quá sức tưởng tượng…”

2. Lời chứng của mỗi người chúng ta.

Như Gioan, người tín hữu cũng phải là chứng nhân cho Ðức Kitô trong cuộc sống. Về điểm này, Teihard de Chardin đã ví von rất sống động: “Ánh sáng xuyên qua những áng mây, người ta đoán là có mặt trời trên đó. Nhìn vào đời sống chúng ta mọi người cũng đoán được có Ðức Kitô”.

Một ngày Chủ nhật nọ, có một người đàn ông đã từng sống một đời sống vô cùng lạnh nhạt, khô khan về việc đạo. Tình cờ ông đi ngang qua nhà thờ giáo xứ Churning, ông gặp một cô bé đang vào nhà thờ với các em nhỏ khác. Ông dừng lại quan sát thái độ tử tế khác lạ của cô và ông đã theo cô vào nhà thờ lúc nào không hay. Trong nhà nguyện chật chội và nghèo nàn đó, ông thấy cô ngoan ngoãn quì xuống đất, chắp tay ngước mắt nhìn Chúa Giêsu trong Nhà Tạm với tất cả lòng tin yêu cung kính như khi ta đến trước mặt người có chức tước đáng quí trọng. Tới lúc vị linh mục dâng thánh lễ, ông cũng quì gối để dễ bề quan sát thái độ của cô. Ông cảm động khi thấy gương mặt của cô tươi đẹp như người xuất thần với đức tin mạnh mẽ vào sự hiện diện của Chúa trong phép Thánh Thể. Cảm động, ông trở về nhà và từ đó ông ăn năn trở lại sống đời giáo hữu thật sốt sắng.

Cô bé đó chính là Laura Diconia, có lẽ cô không nhận ra hiệu lực của lòng sốt sắng nơi mình, nhưng chính hành vi và lẽ sống của cô đã là một chứng tá cho đức tin và tình yêu Chúa. Thái độ bên ngoài của cô tuy rất tầm thường và đơn sơ nhưng chính sự trịnh trong của tâm hồn và tình yêu sâu đậm của con tim đã mặc cho những cử chỉ bên ngoài đó một vẻ sâu xa khác thường khiến cho người ta cảm thấy ngay sự hiện diện của Chúa.

Ước gì khi nhìn vào đời sống chúng ta, mọi người cũng có thể nói như đã nói về Thánh Gioan Vianney “Tôi đã thấy Thiên Chúa trong một con người”.

Thiếu nhi chúng con yêu quý.

Chúng con đang sống trong Mùa Vọng. Mùa Vọng là Mùa chuẩn bị đón Chúa đến. Thường thì trong cuộc sống mỗi khi có một nhân vật nào quan trọng xuất hiện thì chúng con thấy người ta luôn phải có sự chuẩn bị. Nhân vật càng lớn, càng quan trọng thì người ta lại càng phải chuẩn bị kỹ hơn.

Tin mừng hôm nay nói về Gioan Tẩy giả. Gioan Tẩy Giả là người đến trước để dọn đường cho Chúa.

Ông Gioan đã chuẩn bị đón Chúa như thế nào chúng con ? Chúng con thấy Gioan rất hay. Trước khi ông xuất hiện để chuẩn bị cho mọi người đón Chúa thì chính ông, ông cũng đã tự dọn đường để Chúa đến với mình trước.

1. Gioan dọn đường để Chúa đến với mình.

Đọc Tin Mừng hôm nay chúng ta thấy ông Gioan xuất hiện trong hoang địa. Nhìn vào cuộc sống của Ông, chúng ta biết ông đã chuẩn bị đời sống của ông như thế nào. Ông sống trong khung cảnh cô tịch nơi sa mạc. Ông sống rất khắc khổ: Áo ông mặc là một tấm da lạc đà khoác trên mình, cột thêm một dây da thắt lưng cho khỏi lòa xòa, loại da thuộc sơ sài còn thô nhám thời đó. Thức ăn của ông là châu chấu và mật rừng, loại thức ăn của người du mục nghèo khổ lúc đó thường dùng khi họ dẫn đoàn vật đi ăn cỏ nay đây mai đó trong rừng. Châu chấu thì thường nướng hay luộc, ướp muối. Còn mật thì đôi khi mới có khi tìm được tổ ong trong hốc đá, nhưng rất hiếm. Còn đa số là nhựa của cây tây hà liễu (Tamaris) ăn hơi ngọt ngọt.

Với thức ăn và áo mặc như thế, ông Gioan đã nói lên tinh thần sẵn sàng từ bỏ tất cả những gì là dễ dãi, là thoải mái, là tiện nghi mà mọi người thường ưa chuộng. Ông sống thánh thiện, khắc khổ để đón Chúa và cũng để nêu gương cho người khác nữa.

Điều đáng cảm phục hơn nữa là tinh thần khiêm tốn của ông. Lúc đó uy tín của ông đã lên rất cao và tiếng tăm của ông đã lan rộng khắp nơi. Có người coi ông là ngôn sứ, thậm chí có người còn coi ông là Đấng Cứu Thế nữa. Thế nhưng, khi người ta hỏi ông là ai, thì ông Gioan đã trả lời: “Có Đấng quyền thế hơn tôi, đang đến sau tôi, tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dép cho Ngài” (Mc 1,7). Chúng ta đừng quên ở Do Thái chỉ có nô lệ, đầy tớ mới cởi dép cho chủ mình mà thôi. Ông Gioan đã từ bỏ tất cả, sống khiêm tốn để chuẩn bị tâm hồn sẵn sàng để đón Chúa.

Một du khách nhân lúc mệt mỏi đã ghé vào túp lều tranh của vị thừa sai trong một làng xa xôi hẻo lánh tại Ấn Độ. Bước vào lều, người du khách chỉ thấy có cái chõng tre trải chiếu sơ sài, cái bàn cái ghế cũng bằng tre với đống sách ở trong góc nhà. Anh ta không hiểu sao một linh mục thừa sai Tây phương mà lại sống đơn sơ nghèo khó đến thế, có thể nói được khắc khổ nữa là khác. Anh ngạc nhiên hỏi vị thừa sai:

  • Thưa cha, đồ đạc của cha chỉ có bấy nhiêu đó thôi sao ?

Vị Thừa sai mỉm cười đáp.

  • Vậy chớ đồ đạc của anh có bao nhiêu ? Chỉ có chiếc ba lô đó chớ gì ?

Anh thành thật đáp:

  • Nhưng con chỉ là khách du lịch. Con đi đường vài ngày đâu cần mang theo nhiều đồ đạc làm chi ? Còn cha ở đây luôn mà!

Vị thừa sai hóm hỉnh nói:

  • Anh là khách đi đường. Tôi cũng thế! Tôi chỉ là khách dọn đường thôi. Đúng vậy, vị thừa sai chỉ đến để dọn cho dân làng biết Chúa, lãnh nhận ơn cứu độ. Ngài cũng như thánh Gioan Tẩy Giả dạy chúng ta muốn dọn đường, sửa lối cho Chúa đến, chúng ta phải hy sinh từ bỏ tất cả những gì là chướng ngại vật cản trở.

2. Gioan Tẩy Giả đã dọn đường cho Chúa đến với mọi người như thế nào ?

Với sứ mạng tiền hô (đi trước loan báo) và tẩy giả (làm phép rửa nói lên lòng sám hối), ông Gioan còn giúp mọi người chuẩn bị Chúa đến bằng cách kêu mời mọi người dọn cho Chúa một con đường để Chúa đến.. Ông chuẩn bị thế nào chúng con. Ông dùng những hình ảnh rất cụ thể để giúp người ta hiểu phải làm gì.

  • Ông kêu gọi hãy lấp mọi hố sâu: Nghĩa là hãy thanh tẩy khỏi lòng mình những giận hờn, ghen ghét, hận thù là những vực thẳm khôn dò làm chúng ta không thể đón Chúa.
  • Ông bảo mọi người hãy san phẳng những núi đồi, tức là tính tự kiêu tự phụ, tự ái, luôn coi mình hơn người khác để sống một cuộc sống khiêm nhường và đồng lòng nhân hậu. Sống như thế thì Chúa mới đến với mình.
  • Thêm nữa ông còn muốn mỗi người uốn cho ngay thẳng những chỗ cong queo tức sự dối trá, gian ngoa, lừa đảo người khác. Sóng như thế mới xứng đáng với Chúa.

Lần kia một người đàn ông lịch sự tìm đến gặp cha Gioan Maria Vianney, cha sở xứ Ars có ý muốn tranh luận vài vấn đề thuộc tôn giáo. Thánh nhân nhìn thẳng vào mặt vị khách và nói:

  • Ông hãy xưng tội đã rồi muốn tranh luận gì cũng được. Bị chạm tự ái, ông muốn nổi nóng, nhưng nghĩ lại cũng khá lâu chưa xưng tội. Ông nén lòng ngồi yên lặng. Trong yên lặng, ông thấy mình đã lỗi bao điều luật Chúa và Hội Thánh. Ông hối hận ăn năn rồi xưng tội sốt sắng. Sau khi xưng tội xong, ông thấy tâm hồn bình an thư thái. Bấy giờ cha Vianney nói:
  • Xin ông cho biết ông thắc mắc điều gì ?

Ông trả lời:

  • Lúc mới vào đây con thắc mắc nhiều chuyện, nhưng giờ đây, con không còn thắc mắc điều gì nữa.

Có kiểm điểm đời sống nghiêm chỉnh, chúng ta sẽ thấy mình còn nhiều hố sâu ghen ghét hận thù, nhiều núi đồi kiêu căng tự phụ, nhiều chỗ cong queo gian tham, lừa đảo… Còn nhiều đam mê xấu như say sưa, nóng nảy, lười biếng, hay xem phim ảnh xấu và nhiều khuyết điểm, lầm lỗi khác. Ước mong ngay từ hôm nay chúng con hãy kiểm điểm đời sống và sốt sắng lãnh Bí tích Hòa giải để dọn đường đón mừng Chúa đến.

Hãy tích cực chuẩn bị sửa lại đời sống cho thật tốt đẹp thánh thiện để Chúa có thế đến với mình. Cụ thể trong Mùa Vọng này, chúng con hãy cố gắng sống tốt hơn, thánh thiện hơn. Cha tin là Chúa sẽ hài lòng và Chúa sẽ đến mang lại cho chúng con nhiều hồng ân của Chúa.

Cha muốn kết thúc bằng câu chuyện có thật này:

Bé Josiah Duncan, năm tuổi, đi ăn với mẹ. Bước vào tiệm, bé thấy người đàn ông nọ ăn mặc rách rưới, nghèo khổ, ngồi trước cửa tiệm với tấm bảng ghi hàng chữ: ”Tôi vô gia cư, chẳng có gia đình, tôi bị bệnh, xin làm ơn giúp tôi.”

Bé Josiah hỏi người ấy: ”Ông có đói bụng không ?”

Ông ta gật đầu. Josiah bèn đến nói với mẹ: ”Mẹ ơi, mẹ mua cho ông ấy một bữa ăn, mẹ nhé!”

Mẹ bé đồng ý và người đàn ông theo bé vào tiệm ăn.

Thấy ông ấy nghèo nàn, dơ bẩn nên, khi ông ta vào ngồi bàn, nhân viên phục vụ làm lơ. Bé bèn đi lấy thực đơn cho ông xem. Ông đọc qua nó, rồi chọn món rẻ nhất.

Bé liền nói: ”Không sao, ông cứ kêu thêm đi, kêu nhiều một chút để ăn cho no.”

Và, khi dĩa đồ ăn được bưng ra, bé Josiah nói với người đàn ông: ”Cháu hát cho ông nghe, nhé. Mẹ cháu hay hát cho cháu nghe khi cháu buồn.”

Và, giữa tiệm ăn, bé hát: ”Lạy Thiên Chúa trên Trời, Thiên Chúa của con, con cám ơn Ngài về những ơn lành Ngài ban cho con, con cám ơn, con cám ơn Ngài. Amen.. Amen…”

Người đàn ông khóc!

Mẹ cậu bé rơi lệ!

Tất cả khách hàng trong tiệm ăn chứng kiến cảnh ấy, đều chảy nước mắt…!

Thiếu nhi chúng con yêu quí,

Cha đố chúng con hôm nay chúng ta bắt đầu bước vào Mùa nào trong năm Phụng Vụ đó ?

– Thưa cha, Mùa vọng

– Chúng con giỏi – Cha khen chúng con. Bắt đầu vào Mùa vọng Giáo Hội khuyên chúng ta điều gì nào ?

– Thưa cha, Giáo Hội khuyên tỉnh thức.

– Rất đúng…Giáo Hội mượn lời thánh Marco khuyên mọi người hãy tỉnh thức.

“Anh em hãy tỉnh thức”

– Thế tỉnh thức là thế nào nào ?

……

Đây cha cắt nghĩa cho chúng con. Trước hết chúng con nghe một câu chuyện nhỏ:

Một vị Bà La Môn hỏi Đức Phật:

– Ngài có phải là Thượng Đế không ?

 Đức Phật trả lời.

– Không, thưa ông.

– Vậy Ngài là một vị thánh ?

– Cũng không phải, thưa ông. Đức Phật trả lời.

– Vậy Ngài là một ảo thuật gia ?

– Cũng không phải, thưa ông. Đức Phật trả lời.

– Vậy Ngài là ai ?

– Ta là sự Tỉnh thức.

Tỉnh thức là gì ? Chữ “tỉnh” là tỉnh táo, chữ “thức” là nhận biết phân biệt. Như vậy khi gặp bất cứ việc gì trong cuộc sống, người tỉnh thức là người biết tỉnh táo nhận định cho chính xác, hiểu thật rõ ràng rồi mới đi đến quyết định hành động.

Cha muốn minh hoạ bằng một câu chuyện:

Hai thầy trò dẫn nhau vào rừng để tu luyện.

Dọc đường, thầy căn dặn trò hãy tỉnh thức đề phòng cạm bẫy và các thuốc độc giết người của trần gian đầy đau khổ và sự dữ. Bỗng hai thầy trò thầy một gói to nằm trên đường. Trò vội vàng chạy lại mở ra, rồi la lớn:

– Thầy ơi, có lẽ trời Phật đã thưởng công tu luyện cho thầy trò ta rồi. Đây là gói vàng, với số vàng này chúng ta tha hồ sống hạnh phúc.

Nghe thế, vị đạo sĩ nghiêm sắc mặt nói:

– Này con, đây không phải là nguồn hạnh phúc mà là thuốc độc đấy. Nếu không tin, con cứ để gói vàng tại đây, chúng ta leo lên một cây kia rồi sẽ thầy.

Hai thầy trò leo lên một cây gần đấy và quan sát.

Nửa giờ sau, có ba người nét mặt hung dữ đi ngang qua đó. Họ thầy cái gói mở ra và cả ba đều vui mừng kêu lên:

– Trời thương chúng ta rồi. Từ nay chúng ta không còn phải đi ăn trộm, ăn cắp nữa.

Người đầu nhóm ra lệnh cho em út:

– Chú mày đi vào làng mua rượu và đồ nhắm ra đây. Hôm nay, anh em mình phải nhậu một bữa cho đã rồi chia nhau số vàng này.

Thế là người em út đi vào làng, còn lại hai người ngồi canh giữ. Trong lúc này cả hai đều có ý định thanh toán nhau để một mình hưởng trọn gói vàng. Thế là một trong hai người đã chết, còn người kia thoi thóp nằm ôm gói vàng.

Người em út trở về với rượu và đồ nhậu, thầy cảnh trên và nghĩ đây là cơ hội để mình chiếm trọn gói vàng. Hắn vất rượu và đồ nhắm, khiêng tảng đá to giáng xuống đầu người bạn đang nằm đó và ôm gói vàng tẩu thoát.

Nhưng phần vì vừa phạm tội ác khiến lương tâm cắn rứt, phần vì mải mê nghĩ đến gói vàng nên hắn đã tông vào một chiếc xe hơi và nằm chết bên gói vàng.

Sau khi quan sát những gì đã xảy ra, thầy bảo trò:

– Đấy con thầy chưa ? Điều thầy nói lúc nãy là sự thật.

Và thầy trò tụt xuống, tiếp tục đi vào rừng.

2. Tỉnh thức để làm gì chúng con ?

Thưa để gặp được Chúa khi Ngài đến.

Thế cha hỏi chúng con: Chúa đã đến chưa ?

Thực ra thì Chúa đã đến rồi, đến cách nay hơn hai ngàn năm, nhưng theo thánh Sirilô thành Giêrusalem cắt nghĩa thì chúng ta phải hiểu thế này: “Những gì liên hệ tới Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta thường diễn ra hai lần. Hai lần Người sinh ra: một lần bởi Thiên Chúa từ trước muôn đời; một lần bởi đức Trinh nữ vào lúc thời gian viên mãn.

Hai lần Người xuống thế: lần thứ nhất thì lặng lẽ như hạt mưa rơi xuống lông chiên; Còn lần thứ hai, chắc chắn sẽ xảy ra trong tương lai thì oai hùng rực rỡ.

Lần giáng lâm thứ nhất, Người được bọc tã đặt nằm trong máng cỏ; lần thứ hai người khoác cẩm bào là muôn ánh hào quang.

Lần thứ nhất. Người vác Thập Giá chẳng nề nhuốc hổ; còn lần thứ hai, Người chiến thắng khải hoàn có thiên thần hộ tống.

Vậy chúng ta đừng dừng lại ở lần giáng lâm thứ nhất mà phải đợi chờ lần giáng lâm thứ hai trong vinh quang. Lần thứ nhất chúng ta đã tung hô Người: Chúc tụng đấng ngự đến nhân danh Chúa thì chúng ta sẽ lập lại y như thế trong lần thứ hai. Lúc đó chúng ta sẽ cùng với các thiên thần ra nghênh đón Chúa mà thờ lạy và tung hô: Chúc tụng đấng ngự đến nhân danh đức Chúa”.

Hơn nữa giữ hai lần đến quan trọng đó Chúa còn đến với mỗi người trong ngày Chúa gọi chúng ta ra khỏi cuộc sống sống này. Đây cũng là lần Chúa đến thật quan trọng.

Bên cạnh đó chúng con thầy Chúa còn hứa đến với những ai biết họp nhau cầu nguyện: “Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ.”(Mt 18,20) cũng như khi lãnh nhận bí tích đặc biệt là Bí Tích Thánh Thể.

Như vậy chỉ có những người biết tỉnh thức và sằn sàng thì mới dễ gặp được Chúa.

Có một cậu bé muốn đi gặp Chúa Giêsu, để chuẩn bị cho cuộc hành trình, cậu bỏ vào giỏ mấy chiếc bánh và hai chai sữa tươi. Và cậu bé lên đường, lòng vui tươi hớn hở. Mới đi được mấy dãy phố, cậu chợt thấy một bà cụ già đang ngồi trên một chiếc ghế đá công viên. Cậu thầy mỏi chân nên quyết định ngồi nghỉ một chút bên cạnh bà lão. Cậu lấy một chai sữa tươi ra, định uống cho đỡ khát.

Nhưng nhìn sang, thấy bà cụ run lập cập, có lẽ vì đói quá chăng. Cậu liền lấy bánh lẫn sữa ra mời bà. Bà cụ nhận tất cả với một nụ cười cảm động và biết ơn ôi nụ cười mới đẹp làm sao ? Thế là hai bà cháu mải mê ngồi ăn uống và nói chuyện vui vẻ với nhau mãi.

Buổi chiều, khi cậu bé trở về nhà, bà mẹ thầy con rất vui liền hỏi:

– Hôm nay con có chuyện gì mà vui thế ?

Cậu hớn hở khoe:

– Mẹ có ngờ được không ? Hôm nay con đã cùng ngồi ăn trưa với Chúa Giêsu. Người có nụ cười thật dễ thương mẹ ạ!

Trong khi đó, bà lão cũng chậm rãi trở về nhà, lòng chan chứa một niềm bình an. Cậu con trai lớn của bà hỏi thăm ngay từ cửa:

– Mẹ ơi, sao hôm nay mẹ có vẻ vui thế nhỉ ?

Bà cụ móm mém trả lời:

– Này, con có ngờ được không ? Hôm nay mẹ đã cùng được ngồi ăn trưa với đức Giêsu. Người trẻ hơn mẹ tương nhiều con ạ!

Chúng con yêu quí,

Chúng con có biết hôm nay là lễ gì không ?

– Thưa cha lễ Chúa Kitô Vua.

– Chúng con có biết Chúa Giêsu muốn làm vua như thế nào không ?

……

Chúa Giêsu làm vua nhưng cách Chúa là vua chẳng giống một ông vua nào trên cõi đời này. Tại sao cha dám nói thế ? Đây chúng con hãy nghe câu chuyện này. Đây là câu chuyện do Cha Mark Link S.J kể. Theo ngài thì trong cuốn sách của mình có tựa đề là: The Christian Vision (Thị kiến của người Kitô hữu) ông John Powell có kể lại một truyền thuyết xưa kia của người Ái Nhĩ Lan. Truyền thuyết này nói về thời còn các vị vua đang cai trị nước họ.

Ngày xưa, có một vị vua đương cai trị nhưng không có con nối dõi ngai báu. Nhà vua muốn tìm một người thật xứng đáng để nối ngôi vua sau này. Chính vì thế, nhà vua đã truyền cho các sứ giả loan báo trên khắp các thành thị và phố phường trong toàn vương quốc, mời gọi tất cả những người đàn ông ưu tú đến cho Ðức vua phỏng vấn.

Ðức vua làm thế với hy vọng có thể chọn được một người kế vị trước khi Ngài chết. Hai tiêu chuẩn được ngài nhấn mạnh đặc biệt là kẻ ấy phải có lòng mến Chúa yêu người sâu sắc.

Có một người thanh niên cảm thấy mình có đủ hai tiêu chuẩn trên. Tự thâm tâm anh cảm thấy có tiếng thúc giục anh đi dự cuộc phỏng vấn này. Nhưng phiền một nỗi là anh quá nghèo, nghèo đến mức chẳng có quần áo tươm tất để mặc khi đi dự phỏng vấn. Đồng thời anh cũng chẳng có tiền mua đồ ăn đồ uống đi đường để đến cung điện đức vua tham dự cuộc phỏng vấn. Bí quá anh đã cầu nguyện xin ơn Chúa soi sáng và trong thâm tâm, Chúa cho anh biết là anh có thể đi ăn xin. Những người tốt bụng đã cho anh đủ quần áo và lương thực cần thiết. Khi mọi sự đã sẵn sàng, anh bắt đầu lên đường.

Sau một tháng dài đi đường, người thanh niên này đã nhìn thấy cung điện đức vua. Anh ta ngồi xuống trên một ngọn đồi phía trước. Tình cờ anh trông thấy một ông lão ăn mày nghèo khổ đang ngồi bên vệ đường. Vừa thấy anh, ông cụ chìa tay ra xin anh giúp đỡ. Giọng nói ông ta thật yếu ớt:

– Tôi đói và lạnh quá, cậu có thể cho tôi cái gì mặc cho đỡ lạnh và ăn cho đỡ đói không ?

Người thanh niên nhìn ông cự lòng tràn đầy xúc động. Anh liền cởi bộ đồ ấm áp anh đang mặc bên ngoài để đổi lấy tấm áo cũ rách của ông già ăn xin, đồng thời cũng cho ông cụ phần lớn số lương thực anh mang theo trong túi xách dành cho chuyến trở về nhà của mình. Thế rồi, mặc dù lòng thấy hơi ngại nhưng anh cũng liều bước tới cung điện trong bộ áo rách nát cùng với số lương thực mang theo không đủ cho chuyến trở về của mình. Khi anh ta đến gần cổng lâu đài, thì đám lính gác chận anh ta lại rồi dẫn anh đến khu vực dành cho du khách. Sau một thời gian chờ đợi lâu, anh ta được dẫn tới diện kiến đức vua.

Ðến trước bệ rồng anh thanh niên quỳ mọp, gập sâu người xuống cúi chào. Khi ngước lên nhìn, anh không thể nào tin nổi mắt mình và run rẩy thốt lên:

– Té ra ngài chính là ông lão ăn xin bên vệ đường đó sao!

Đức vua đáp:

– Ðúng thế.

Người thanh niên liền hỏi:

– Tại sao ngài lại làm điều ấy đối với kẻ tiện dân này ?

Ðức vua trả lời:

– Bởi vì trẫm muốn thử xem ngươi có phải là thật là người có lòng mến Chúa yêu người hay không ?

Câu chuyện kết thúc thế nào thì chúng ta có thể đoán được.

Câu chuyện cho chúng ta thấy một điều rất thật. Sự thật này là: vào ngày cuối cuộc đời, mỗi người chúng ta sẽ bị xét xử về việc chúng ta đã phục vụ Chúa Kitô Vua như thế nào nơi kẻ những người mọn nhất trong anh chị em chúng ta. Hãy nhớ lại những lời Chúa nói: “Ðoạn đức vua sẽ nói “Xưa Ta đói các ngươi cho Ta ăn, Ta khát các ngươi cho Ta uống, Ta là khách lạ các ngươi đã đón tiếp Ta vào nhà, Ta đau ốm bệnh hoạn các ngươi đã chăm sóc Ta”

Bây giờ đám người công chính sẽ thưa với Ngài: “Lạy Chúa có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống đâu ? Ðức vua sẽ đáp lại: “Ta nói cho các ngươi hay, bất cứ khi nào các ngươi làm điều này cho một trong những anh em bé mọn nhất trong các ngươi tức là các ngươi đã làm cho chính Ta đó”.

Chúa không hỏi chúng ta về những điều cao siêu khó hiểu. Chúa cũng không đòi hỏi chúng ta về những việc anh hùng chỉ có những người có chí khí gan lì mới làm được. Chúa cũng không tra vấn chúng ta về những việc làm to tát chỉ có những người nhiều tiền nhiều của mới có thể thực hiện được nhưng Chúa chỉ hỏi chúng ta về những việc làm hết sức dễ dàng, hết sức nhỏ bé ai cũng có thể làm được. Đó là những việc có liên hệ đến những nhu cầu rất cần thiết của mỗi người như việc ăn ở đi mặc.

Cha hỏi chúng con: Đọc lại những lời Đức Vua nói với mọi người trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng con có thấy điều gì khó hiểu hay không.

Cha chắc là không!

Vậy thì vấn đề còn lại là chúng ta phải sống những điều Chúa nói. Hãy ghi tạc Lời Chúa vào lòng: “Ta nói cho các ngươi hay, bất cứ khi nào các ngươi làm điều này cho một trong những anh em bé mọn nhất trong các ngươi tức là các ngươi đã làm cho chính Ta đó”.

Cha muốn kết thúc bằng câu chuyện này: Câu chuyện trích ở trong một cuốn sách mà cha rất thích. Truyện một tâm hồn:

Enricô ơi!

Như sáng nay, lúc đi học về, con đi trước mẹ, con đã gặp một người đàn bà nghèo bế một đứa con nhỏ xanh xao yếu đuối và chìa tay xin con. Con nhìn người ta bằng cặp mắt lạnh lùng, con chẳng cho gì cả mà chính lúc ấy túi con có tiền. Nghe mẹ, con ơi!

Con đừng tập thói làm ngơ trước cái nghèo khó nó ngửa tay xin con ; hơn nữa con lại càng không nên bước qua một người mẹ xin ăn cho con. Con hãy nghĩ đến bụng đói của đứa trẻ thơ, nghĩ đến sự đau khổ của người mẹ.

Mỗi khi mẹ bố thí cho kẻ nghèo thì bao giờ họ cũng cảm ơn và chúc cho mẹ, cho cả nhà ta được mọi sự lành. Những lời chúc tụng ấy nghe êm ái biết là dường nào! Và lòng tạ ơn họ không biết bao nhiêu.

Những lời cầu nguyện ấy sẽ thấu đến đấng Thượng đế để ngài phù hộ cho tất cả những người thân yêu của ta. Vì thế, mẹ trở về rất hài lòng và tự nhủ:

– Người ấy đã cho ta nhiều hơn là ta đãi họ!

Enricô ơi! Con hãy nghe mẹ: thỉnh thoảng nên bớt một vài xu trong túi tiền của con để cho người già không chốn nương thân, người mẹ không gạo, đứa trẻ không mẹ không cha. Những kẻ khó thích xin trẻ con vì như thế họ không nhục, vì trẻ con cũng như họ phải cần đến mọi người. Con có nhận thấy ở quanh trường thường có nhiều kẻ ăn xin không ? Sự bố thí của người lớn là một việc làm phúc, nhưng sự bố thí của trẻ con không những là một việc làm phú mà còn là một sự vỗ về nữa, vì mỗi lần đứa trẻ đem cho thì hình như đồng tiền kèm với bông hoa ở trong tay nó rơi ra.

Con ơi! Con phải biết con có đủ cả, chứ kẻ khó thì thiếu hết. Khi con mong được sung sướng thì người nghèo chỉ cầu sao cho khỏi chết. Trong một đám có bao nhiêu là nhà giàu, trong một phố có bao nhiêu người sang trọng qua lại, có bao nhiêu đứa trẻ ăn mặc xa hoa, thế mà vẫn còn thấy nhiều đàn bà và trẻ con đói khát, rách rưới! Thực đáng buồn thay!

Muốn cho người ta khỏi chê con là một kẻ vô tình thì từ sau, con đừng bước qua một kẻ khó mà không cho gì”. Mẹ con.

Thiếu nhi chúng con yêu quí

Cha đố chúng con hôm nay là ngày lễ gì ?

– Thưa cha lễ kính các thánh Tử Đạo tại Việt nam.

– Rất chính xác! Chúng con giỏi.

– Thế tử đạo là làm sao chúng con.

– Thưa tử Đạo là chết vì Đạo.

– Thế Đạo đây là Đạo nào nhỉ ?

– Dạ thưa Đạo Chúa.

– Chúa nào ?

– Dạ thưa Chúa Giêsu.

A. Như vậy Tử Đạo là dám chết vì tin vào Chúa Giêsu và nhất định không từ bỏ niềm tin đó cho dù có phải chết, chết thật đau thương, chết thật anh hùng.

Cha nhớ trong ngày trong sắc phong 64 vị tử đạo Việt Nam lên hàng chân phước ngày 27.5.1900, Đức Thánh Cha Lêô XIII đã nói:”Đây là những chiến sĩ trung liệt và kiên cường không kém gì những chiến sĩ ngày xưa trong những thế kỷ khai nguyên của Giáo Hội

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đệ II trong bài giảng ngày lễ tôn phong 117 vị anh hùng tử đạo Việt Nam lên hàng hiển thánh cũng phát biểu tương tự như thế. Ngài nói: “Từ năm 1533 tức là từ khi cuộc rao giảng Tin Mừng Kitô bắt đầu tại vùng Đông Nam Á, Giáo Hội Việt Nam trong suốt 3 thế kỷ đã phải chịu những cuộc bách hại liên tiếp nhau với một vai giai đoạn lắng dịu giống như các cuộc bách hại mà Giáo Hội tại Tây Phương đã chịu trong 3 thế kỷ đầu tiên. Đã có hàng ngàn tín hữu Kitô chịu tử đạo và rất nhiều người khác đã chết trong rừng núi, những vùng ma thiêng nước độc, nơi mà họ bị lưu đày tới”.

Thế chúng con có biết các thánh Tử Đạo Việt nam chịu chết vào thời gian nào trên đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta không ? Cha trả lời cho chúng con ngay.

+ Thời gian không xa chúng ta lắm. Các Ngài đã chịu chết ngay trên đất nước Việt nam này. Thời gian bắt đầu vào năm 1580 và chỉ kết thúc hoàn toàn vào năm 1888 có nghĩa là chỉ cách chúng ta hơn một thế kỷ kéo dài gần 3 thế kỷ. 3 thế kỷ ba thế hệ của cuộc sống làm người.

Cha hỏi tiếp: Chúng con có biết có bao nhiêu người đã chịu chết như vậy không ? Con số những người chịu ảnh hưởng của cuộc bách hại này không nhỏ: Lịch sử cho chúng ta thấy những người chịu ảnh hưởng của cuộc bách hại rất lớn.

* Có khoảng 400.000 người bị lưu đày, phát lưu và phân sáp.

* 130.000 người đã chết vì đạo trong số này đã có 117 vị được Giáo Hội chính thức tôn phong lên hàng hiển thánh vào ngày 19.6.1988 cách đây 12 năm.

Thế còn các hình khổ các thánh Tử Đạo Việt nam đã phải chịu là những hình khổ nào ?

Các ngài đã phải chịu mọi thứ cực hình mà người ta có thể nghĩ ra được

Thì dụ như bị gông cùm, bị xiềng xích, bị nhốt trong cũi, bị đánh đòn, bị bỏ đói, bị voi giày, bị trói ném xuống sông, bị đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng vv.Đó là những hình phạt tương đối nhẹ.

Bên cạnh đó còn có những hình khổ thật quyết liệt như bị trảm quyết – tức là bị chặt đầu- bị xử giảo – tức là bị thắt cổ -, hay bị thiêu sống.hoặc Vô cùng man rợ và hiểm độc như bị xử lăng trì – phân thây ra từng mảnh hay là xứ bá đao. Đây chúng con nghe câu chuyện về việc bị xử bá đao của Cha Cố Du:

Ngày 30-11-1835 họ chọn Thợ Đức làm pháp trường để xử Ngài.

Sáng sớm hôm đó, họ điệu ngài đến nơi hành hình. Bên một lò than đang cháy đỏ rực có 5 tên lính cầm 5 chiếc kìm sắt đã được nung đỏ.

Nghe lệnh, cùng một lúc cả 5 tên kẹp kìm nung đỏ vào mình ngài kéo ra những miếng thịt khét lẹt.

Họ vu cho ngài móc mắt trẻ con khi rửa tội. Làm điều ám muội khi cử hành lễ cưới và cho ăn thịt người khi rước lễ.

Sau đó họ tiếp tục gây thêm những thương tích nữa cho đến khi ngài bất tỉnh thì họ mới hành quyết.

Họ cột chân tay ngài vào cây cột. Hai bên lính cầm kìm chờ sẵn. Cha Du ngửa mặt lên trời cầu nguyện dâng mạng sống mình cho Chúa.

Sau hồi trống báo hiệu, hai tên lính cầm kìm kẹp vào ngực ngài kéo ra 2 miếng thịt nơi vú liệng xuống đất – một tên lính khác cầm dao xẻo thịt phía sau hông – rồi đến bắp đùi thì chúng lấy kìm kéo ra rồi lấy dao xẻo đứt từng miếng… làm cha rất đau đớn. Không được bao lâu thì ngài ngất đi, đầu rũ xuống và ngài về chầu Chúa lúc 17g ngày 30-11-1835

Cha chết rồi bọn lính chặt đầu ngài cho vào một chiếc thùng đầy vôi, cởi trói lật xác úp xuống rồi phân thây ra từng khúc bỏ tất cả vào thùng vôi. Đầu ngài họ đem treo 3 ngày ở giữa chợ rồi xay nát, bỏ chung với thùng vôi đựng xác ngài đoạn quăng cả xuống biển cho mất tích”

II. Bài học.

Bàn về cái chết của Gandhi một con người mà người dân Ấn độ lúc nào cũng kính trọng và coi ông như một vị thánh nhà văn hào Tagore đã viết: “Có lẽ thánh Gandhi không thành công, có lẽ thánh sẽ thất bại như Đức Thích Ca đã thất bại, như Đức Giêsu đã thất bại vì chưa hủy diệt được lòng ác độc của loài người. Nhưng loài người luôn phải nhớ tới thánh vì thánh đã đem đời mình ra để làm bài học cho muôn thế hệ mai sau”

1. Bài học thứ 1: Giá trị của niềm tin.

Đức tin là quà tặng nhưng không của Thiên Chúa nhưng nhiều khi chúng ta không ý thức được giá trị của nó. Phải ở trong những hoàn cảnh Đức tin bị đe dọa con người mới thấy được Đức tin có một giá trị to lớn như thế nào.

Phaolô Mợi bị bắt bị đem ra xử.

Quan nói với Anh: “Anh đạp lên ảnh đi, tôi sẽ cho anh một nén bạc.

Phaolô Mợi không trả lời.

Quan nói tiếp: “ Vậy thì một nén vàng.”

+ Dạ bẩm quan chưa đủ.

– Vậy anh muốn bao nhiêu ?

+ Bẩm quan lớn, quan lớn muốn cho tôi quá khoá thì quan lớn phải cho tôi đủ vàng bạc để tôi mua được một Linh hồn khác! Vâng làm sao mà có đủ vàng bạc để mua được một linh hồn!

2. Bài học về lòng trung thành.

Trong một bài diễn văn Hitler đã tuyên bố một câu làm nức lòng các chiến sĩ của ông. Ông nói: “Thế giới này sẽ thuộc về những kẻ gan dạ”

Nietszche: “Lao công của các bạn là chiến đấu. Hòa bình của các bạn là chiến thắng

Victor Hugo: “Đồi Calvaire ở đầu đường và hào quang cũng xuất hiện ở đó”

Chính Chúa Giêsu cũng đã có lần tuyên bố: “Nước Trời phải dùng sức mạnh mà cướp lấy”

Còn Nguyên văn Lựu thì nói: “Đạo đã nhập vào xương vào tủy tôi, làm sao tôi có thể bỏ được “

Để trung thành với Chúa, các ngài đã vứt bỏ nhà cửa ruộng đất, bồng bế con cái cháu chắt chạy trốn lên nơi rừng sâu nước độc, sống cô quạnh hiểm nguy.

Để trung thành với Chúa, các ngài đã sống bập bềnh trên những con thuyền tạm bợ, lẩn lút dọc bờ sông ven biển, nhịn đói nhịn khát, bơ vơ không biết nương tựa vào đâu.

Để trung thành với Chúa, các ngài đã đành lòng chịu tịch thu gia sản, chịu cảnh phân sáp dã man, cha mẹ phải lìa xa con cái, vợ chồng không được sum họp với nhau, gia đình phải tan nát đau thương.

Để trung thành với Chúa, các ngài đã vui lòng chịu những hình khổ bạo tàn độc ác như bị cạo trọc đầu, bị kẹp các ngón tay cho ra máu, bị chặt đứt các ngón tay rồi bị thả về tàn tật, bị vấn dẻ vào đầu các ngón tay để bị đốt cháy, bị đánh bách trượng, bị xẻo bá đao, bị cắt hai tay, bị chặt chân chặt tay, bị chém đầu, bị thắt cổ, bị khắc chữ Tả Đạo vào má, bị voi chà, bị treo ngược vào cột để xé xác ra làm sáu mãnh, bị gươm đâm thâu hông, bị thả vào vạc dầu sôi, bị mang gông phơi nắng nhiều ngày, bị giam chết đói chết khát, v.v.

Sẽ không có vinh quang cho nhưng ai không chịu chiến đấu.

Sẽ chẳng có chiến thắng cho những ai không dám ra chiến trường.

Sẽ không có phần thưởng cho những ai không chịu hy sinh vì chính nghĩa Nước trời.

Chúng con yêu quí,

Cha đố chúng con dụ ngôn chúng ta vừa nghe có tên là dụ ngôn gì đó ?

– Thưa dụ ngôn mười cô trinh nữ.

– Rất chính xác. Chúng con giỏi. Bây giờ cha hỏi thêm, chúng con có thấy điều gì khác biệt giữa mười cô trinh nữ này không.

– Dạ thưa có.

– Khác biệt cái gì nào ?

– Thưa cha trong 10 cô thì có 5 cô khôn và 5 cô dại.

– Rất tốt. Nhưng làm sao mà biết được cô nào khôn, cô nào dại ?

– Thưa cha, Chúa bảo các cô khôn mang đèn và mang dầu theo. Còn các cô dại là những cô mang đèn mà không mang dầu theo.

– Chúng con giỏi quá. Chúng con trả lời rất đúng. Chính việc mangkhông mang dầu theo làm cho mười cô trinh nữ trở thành khác nhau, làm cho họ người được kể là khôn, người thì bị kể là dại.

Như vậy chúng con thấy tuỳ ở công việc của mỗi người mà người ta có thể thấy người này là khôn, người kia là dại.

Đọc trong Kinh thánh cha thấy rất rõ điều đó.

Cha kể cho chúng con một thí dụ vua Salomon là một vị vua mà kinh thánh bảo là khôn ngoan. Tại sao thế ? Thưa vì vua những việc vua làm, nhất là việc xứ án đã làm mọi người phải kính nể thán phục.

Đây là câu chuyện chính sách Các Vua kể: “Bấy giờ có hai người gái điếm vào chầu vua. Khi đứng trước mặt vua, thì một người nói:

– Ôi, thưa chúa thượng tôi, tôi và người đàn bà này cùng ở một nhà; và tôi sinh một đứa con, trong lúc chị này cùng ở đó với tôi. Tôi sinh được ba ngày, thì người đàn bà này cũng sinh. Chúng tôi ở chung với nhau; ngoài hai chúng tôi ra, không có ai khác trong nhà. Ðêm nọ, đứa con của chị này chết, vì chị đè lên nó. Giữa đêm chị thức dậy, và trong khi nữ tỳ của ngài vẫn ngủ, thì chị bế đứa con của tôi đang nằm cạnh tôi, và đặt trong lòng mình, còn đứa con đã chết của chị, chị đặt vào lòng tôi. Ðến sáng khi tôi thức dậy cho con bú, thì này đứa bé đã chết. Nhưng khi tôi nhìn kỹ nhờ ánh sáng ban ngày, thì hoá ra nó không phải là đứa con tôi đã sinh ra.”

Người đàn bà kia trả lời: “Không phải thế, vì con tôi còn sống, con chị mới là đứa chết.”

Nhưng người này lại nói: “Không phải, con chị mới là đứa chết, đứa sống là con tôi.” Và họ cãi nhau trước mặt vua.

Bấy giờ vua nói: “Chị này bảo: “Ðứa sống này là con tôi, con chị mới là đứa chết. Chị kia đáp lại: “Không phải thế, con chị mới là đứa chết, nhưng con tôi còn sống.”

Rồi vua ra lệnh:

– Ðưa cho ta chiếc gươm.

Người ta đưa tới trước mặt vua một chiếc gươm. Và vua quyết định: “Phân đứa trẻ còn sống ra làm hai, và cho mỗi người một nửa!”

Bấy giờ người mẹ của đứa trẻ còn sống, động lòng thương con mình, liền thưa với vua:

– Ôi! thưa chúa thượng tôi, xin ngài cho chị ấy đứa trẻ còn sống; còn giết chết nó, thì xin đừng!

Người kia nói:

– Chẳng phải con tôi, cũng chẳng phải con chị, cứ chia ra!

Bấy giờ vua lên tiếng nói:

– Trao đứa trẻ còn sống cho người nói trước, và đừng giết nó, chính nàng mới là mẹ nó.

Toàn thể Ít-ra-en nghe biết vụ án vua đã xử, đều kính sợ vua, vì thấy rằng Thiên Chúa đã phú bẩm cho vua một sự khôn ngoan lạ lùng để người xét xử.(1Vua 3,16-28)

Như vậy chúng con thấy đâu có ai thấy được sự khôn ngoan của Vua Salomon như thế nào đâu mà người ta chỉ thấy các việc vua làm mà biết được vua là người khôn ngoan.

Vậy thì nhìn vào bài dụ ngôn Chúa dạy hôm nay, chúng ta cũng thấy tương tự như thế. Nhờ vào việc mang hay không mang dầu theo mà những cô trinh nữ trở thành người khôn hay người dại.

2. Đến đây thì cha có thể hỏi chúng con: Chúa dùng dụ ngôn này để dạy chúng ta điều gì ? Chắc chắn Chúa không bảo chúng ta phải sống như những cô khôn ngoan nhưng qua câu chuyện những cô khôn ngoan Chúa muốn bảo chúng ta phải biết nhìn xa, biết dự phòng, như các cô ấy trong cuộc sống, làm sao cho cuộc sống của chúng ta được coi, được kể là khôn ngoan.

Nhưng biết nhìn xa trong cuộc sống là làm sao chúng con ? Chúng ta đâu có ai biết mọi việc chúng ta làm sẽ là khôn ngoan hay là dại đâu. Thiếu gì việc chúng ta không biết là dại hay là khôn. Thế thì làm sao mà chúng ta biết được một việc nào đó chúng ta là khôn thì chúng ta phải hỏi Chúa. Sách Gióp nói rất hay: “Chỉ một mình Đức Chúa Trời biết khôn ngoan ở đâu, vì Ngài nhìn thấu suốt các tầng trời và địa cầu. Chúa định hướng cho các luồng gió, và đặt biên giới cho các đại dương. Chúa ấn định luật lệ cho mưa sa xuống và vạch đường cho chớp nhoáng. Chúa biết đâu là sự khôn ngoan, và công bố cho mọi người sẵn lòng lắng nghe. Chúa xem xét nó kỹ càng và đặt nó trên căn bản vững vàng. Chúa phán bảo toàn thể nhân loại: Kính sợ Đức Chúa Trời là khôn ngoan thật, lìa bỏ gian ác mới là sáng suốt.” (Gióp 28,23-28)

Như vậy muốn biết được mình là người khôn ngoan hay không chúng ta hãy xem mình có biết hỏi Chúa hay không. Biết hỏi Chúa, biết kính sợ Chúa chúng ta sẽ tìm được sự khôn ngoan thật. Nhưng biết hỏi và kính sợ Chúa là như thế nào chúng con ? Đó là luôn biết sống và làm những gì Chúa muốn cho chúng ta làm. Những gì Chúa không muốn thì chúng ta tránh xa đừng có làm. Làm được như thế chúng ta sẽ được Chúa bảo là không ngoan. Và làm được như thế chắc chắn chúng ta sẽ đạt được những mong muốn tốt đẹp giống như 5 cô trinh nữ khôn ngoan trong dụ ngôn.

Chúng con hãy nghe câu chuyện này: Đang quỳ cầu nguyện trong nhà thờ, bà quý tộc Elisabeth bỗng nghe như tiếng Chúa nói thì thầm bên tai.

Con hãy xây nhà cho Ta cư ngụ. Xác tín đây là lời Chúa nói đặc biệt riêng cho mình, bà quý tộc Elisabeth mau mắn cho người xây một ngôi nhà nguyện riêng nơi khu đất rộng gần đó, nhưng rồi dù nhà nguyện đó được xây xong, bà Elisabeth vẫn còn nghe tiếng Chúa nói cùng một lời như vậy.

– Hãy xây nhà cho Ta cư ngụ mỗi lần bà cầu nguyện.

Nghĩ thầm rằng Chúa muốn bà xây một ngôi nhà nguyện lớn hơn, đẹp hơn cho xứng đáng với Ngài. Sự giàu có mà Chúa ban cho bà còn quá dư thừa để có thể xây một nhà nguyện lớn hơn. Thế là bà Elisabeth sang vùng bên cạnh tìm mua một miếng đất lớn hơn. Bà Elisabeth nghĩ thầm là lần này Chúa phải vui lòng lắm vì trong vùng không có một ngôi nhà thờ nào đẹp hơn, nhưng lạ thay, khi cầu nguyện bà vững còn nghe tiếng Chúa vang nài và khẩn thiết hơn nữa: “Con hãy xây nhà cho Ta cư ngụ”. Bà Elisabeth liền hỏi Chúa.

– Con đã xây cho Chúa ngôi nhà đẹp hơn lớn nhất vùng này rồi, tại sao Chúa muốn con xây nhà cho Chúa nữa ? Chúa muốn con xây nhà như thế nào đây ? Xây lên một Vương Cung Thánh Đường lớn nhất nước này chăng ? Tiếng Chúa thì thầm trả lời:

– Con hãy nhìn qua bên kia cửa sổ xem, con thấy gì ?

– Dạ, con thấy một gia đình đang nương tựa dưới bóng cây bên lề đường, và tiếng Chúa lại tiếp tục. Ta không muốn con xây cho riêng Ta một Vương Cung Thánh Đường. Con hãy xây nhà cho gia đình kia, đó là con xây nhà cho Ta. Amen.

Thiếu nhi chúng con yêu quí,

Chúng ta vừa được nghe một bài Tin Mừng Chúa Giêsu nói với các môn đệ của Chúa về các luật sĩ và biệt phái đồng thời ngay sau đó Chúa cũng ban cho họ những lời khuyên để họ biết sống thế nào cho xứng đáng là môn đệ của Chúa.

1. Trước hết với những người luật sĩ và biệt phái. Chúa nói:

a. Những người luật sĩ và biệt phái, “ngồi tòa Môisên”, nghĩa là nắm quyền giảng dạy, cho nên “những gì họ nói, các con hãy làm và tuân giữ”.Nhưng đừng noi theo hành vi của họ, vì họ nói mà không làm”.

– Họ ra luật để cho người khác giữ, còn chính bản thân mình thì không giữ.

– Họ làm những việc đạo đức chỉ cốt cho người ta thấy mà khen.

Họ ham danh vọng: ngồi chỗ nhất, thích được chào nơi công cộng, thích được gọi là Rabbi.

Đó là những việc những người biệt phái và luật sĩ thích làm. Tại sao họ thích làm những việc như vậy chúng con ?

Thưa tại vì họ kiêu ngạo.

Chúa Giêsu khiển trách họ vì họ muốn tỏ ra mình là ta đây hơn mọi người. Họ nới rộng hộp kinh, nối dài tua áo, họ muốn những thứ đó phải nổi bật hơn mọi người… Nơi công cộng họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, thích được người ta chào hỏi là “rabbi”… Nghĩa là cái gì cũng phải hơn người.

Ngày xưa là như thế còn ngày nay ra sao ?

Nếu xét cho kỹ thì có lẽ hôm nay cũng chẳng thua gì ngày xưa. Cha Mark Link kể lại một câu chuyện có thật như thế này: “Một thiếu tá vừa được thuyên chuyển về chỉ huy một tiểu đoàn mới. Ông tìm cách “hù” cho binh lính cho họ nể sợ ông. Một hôm, một anh binh nhì gõ cửa xin vào phòng ông. Ông nói:

– Vào đi. Nhưng đứng chờ đấy vì tôi đang bận tiếp điện thoại.

Rồi ông cầm điện thoại nói:

– Chào Đại tướng, rất hân hạnh được nghe ngài. Ngài muốn gì ạ ?

Ông im lặng một hồi như đang lắng nghe, rồi nói tiếp:

– Vâng, thưa Đại tướng, tôi sẽ nói lại với Tổng thống về điều ấy.

Xong, ông đặt ống nghe xuống và nói với anh binh nhì:

– Xong rồi, bây giờ tới phiên anh. Anh có việc gì nào ?

Anh binh nhì đáp:

– Dạ tôi thừa lệnh trung sĩ đến đây để nối dây điện thoại cho ngài, thưa Thiếu tá!

Những chuyện giống như thế chẳng thiếu gì trong cuộc sống hôm nay.

Hãy coi chừng! Chúa Giêsu bảo chẳng có gì có thể che giấu mãi mãi mà không bị tỏ lộ ra. Những gì mà con người không thấy thì Thiên Chúa “thấy” hết. Con người có thể lừa bịp được người khác nhưng nhất định là không thể qua mặt được Thiên Chúa.

Chuyện kể rằng: Ngày kia, Nữ hoàng Shaba gởi đến vua Salomon hai bó hoa rất giống nhau, để thử xem sự khôn ngoan của ông tới đâu. Đó là một bó hoa thật và một bó hoa giả .

Nhà vua bèn mở cửa sổ, cho bầy ong bướm bay vào. Tức thì các chú ong và các nàng bướm liền sà ngay xuống những bông hoa thật.

Những bông hoa giả có sắc mà chẳng có hương, có bóng hình mà không có sự sống.

Những người luật sĩ và biệt phái mà Chúa nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay cũng chẳng khác gì những bông hoa giả như thế. Bên ngoài cũng đẹp đấy nhưng đẹp mấy thì đẹp cũng chỉ là những thứ đồ già mà thôi. Mà đồ giả thì làm sao mà ưa được.

2. Sau đó Chúa dặn dò các môn đệ của Ngài: “Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên.”

Ai trong chúng ta mà lại chẳng muốn làm lớn. Nhưng làm lớn theo Chúa Giêsu là để phục vụ chứ không phải để sống theo kiểu ta đây như những người biệt phái và luật sĩ thuở xưa. Tấm gương của mẹ thánh Têrêsa Calcutta hãy còn đó. Chúng con thấy. Mẹ là người được cả thế giới này kính trọng. Thế giới kính trọng không phải mẹ giàu có sang trọng, không phải mẹ quí phái đẹp đẽ hơn người, nhưng vì mẹ biết sống theo lời Chúa dạy.

Trong một cuộc phỏng vấn, Mẹ đã thuật lại một sự kiện như sau: Ở Úc Châu có một người thổ dân Aborigines sống trong hoàn cảnh thật thảm thương. Ông ta đã khá cao niên rồi. Ông sống trong một túp lều xiêu vẹo. Khởi đầu câu chuyện tôi nói với ông:

– Để tôi dọn dẹp nhà và sửa soạn giường ngủ cho ông.

Ông ta trả lời một cách hững hờ:

– Tôi đã quen sống như vậy rồi.

– Nhưng ông sẽ cảm thấy dễ chịu hơn với căn nhà sạch sẽ và ngăn nắp chứ .

Sau cùng ông ta bằng lòng để tôi dọn dẹp nhà cửa lại cho ông. Trong khi quét dọn tôi thấy một cái đèn cũ đẹp nhưng phủ đầy bụi bặm và bồ hóng. Tôi hỏi ông:

– Có bao giờ ông thắp đèn này chưa ? Ông ta trả lời một cách cộc lốc:

– Nhưng thắp đèn cho ai ? Có ai bước vào chân vào nhà này bao giờ đâu. Tôi sống ở đây đã từ lâu không hề trông thấy mặt người nào cả. Tôi hỏi ông:

– Nếu như các nữ tu đến thăm ông thường xuyên, ông có vui lòng thắp đèn lên không ?

– Dĩ nhiên rồi.

Từ ngày đó các nữ tu quyết định mỗi chiều sẽ ghé qua nhà ông. Từ đó ông ta bắt đầu thắp đèn và dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ hơn. Ông còn sống thêm hai năm nữa. Trước khi chết ông nhờ các nữ tu nhắn tin cho tôi:

– Xin nhắn với Mẹ Têrêxa, bạn tôi rằng, ngọn đèn mà Mẹ đã thắp lên trong đời tôi vẫn còn chiếu sáng. Đó chỉ là một việc nhỏ mọn, nhưng trong bóng tối cô đơn của đời tôi, một tia sáng đã thắp lên và vẫn còn tiếp tục chiếu sáng mãi.

Ước gì mỗi người chúng ta sẽ trở thành đèn sáng cho nhau.

Ước gì mỗi người chúng ta biết đối xử với nhau thật sự như anh em trong một nhà…nhà của Thiên Chúa.

* Chúa còn dặn dò thêm: “Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên.”

Tôn mình lên là kiêu ngạo. Hạ mình xuống là khiêm nhường. Chúa muốn cho những môn đệ của Chúa sống khiêm nhường.

Thánh Phanxicô Salesiô, đột nhiên đau nặng và mất ngày 28 tháng 12 năm 1622. Ngày hôm trước tức là ngày 27 tháng 12, tuy cảm thấy mệt, ngài cũng ghé thăm nhà tập dòng Đức Mẹ Thăm Viếng. Mẹ Giám Đốc tập viện là nữ tu Blonay, có đưa ngài một mảnh giấy và nói:

“Các nữ tu và con thành khẩn xin Đức Cha vui lòng viết cho chúng con đôi dòng chữ, nhắc nhở chúng con tập luyện nhân đức”.

Cầm lấy trang giấy, thánh Phanxicô Saleriô viết ở đầu, giữa trang và cuối trang vỏn vẹn có chữ: khiêm nhường, khiêm nhường, khiêm nhường.

Thánh Clêmentê đi xin của bố thí để giúp đỡ một cô nhi viện. Gặp một người giàu đang thua bạc, cáu kỉnh nhổ ngay nước miếng vào mặt thánh nhân. Nhưng thánh Clêmentê bình tĩnh lấy khăn tay lau mặt và ôn tồn nói:

“Đây là quà ông tặng tôi, xin cảm ơn ông, còn quà cho cô nhi đâu ?”

Người kia cảm động vì đức khiêm nhượng của thánh nhân, và đã cho thánh nhân một số tiền lớn.

Ai cũng quý mến người khiêm nhường và hiền lành. Người khiêm nhường dễ chiếm được cảm tình những người xung quanh. Ngược lại, ai cũng ghét những người kiêu hãnh và có lối sống tịch thượng.

Trong trận phản công Đức, Bộ tham mưu đồng minh qua vùng Ardennes vào một buổi sáng mùa đông, tuyết phủ đầy đường, tới một khúc quanh, chính bộ tham mưu phải bỏ quân phục xuống thu gọn tuyết cho xe đi qua. Một quân nhân lùn, béo làm việc rất hăng. Bỗng người ta thấy một sĩ quan (sĩ quan chỉ huy miền đó) đi tới, dáng điệu trịch thượng và hỏi quân nhân có thân hình mập và lùn, đang hăng hái xúc tuyết:

– Các anh ở đâu đến và làm gì ở đây ?

Quân nhân này hỏi lại:

– Còn anh, anh là ai ? Anh đang ở đâu, khi những người này làm việc ?

Sĩ quan kia trả lời:

– Tôi hả, tôi ở trên xe, tôi là đại úy mà!

Quân nhân này nói:

– Còn tôi, tôi là thống tướng Model, tôi cần nói cho anh biết: từ nay anh không còn là sĩ quan nữa, anh bị giáng chức xuống làm binh nhì.

Chúng con thân mến!

Lời Chúa chúng con vừa nghe nói về luật yêu thương.

Ai trong chúng con trong nhà có máy vi tính, chúng con giờ tay lên cho cha coi.

Chúng con sử dụng máy vi tính bao giờ chưa ?

Ai trong chúng con đã vào trang mạng Google giơ tay cho coi. Google là một trang mạng tuyệt vời. Chúng con thử vào trang mạng Google rồi chúng con thử đánh vào hộp tìm kiếm từ tình yêu xem nó cho kết quả như thế nào. Ngày hôm nay 22 tháng 10 năm 2017 cha vào thử trong vòng 0,51 giây máy cho cha kết quả khoảng từ tình yêu đã được sử dụng đến 55.700.000 lần. Tiếng Anh Love khoảng 7.970.000.000 lần. Nếu tìm kiếm thêm một chút thì cha thấy Vàng có khoảng 151.000.000 kết quả (Gold: khoảng 3.210.000.000 (1,03 giây), và tiền thì được khoảng 220.000.000 kết quả trong vòng 0,57 giây (money 2.750.000.000 kết quả (0,55 giây)

Như vậy thì cha thấy từ tình yêu đối với người Việt mình thì không bằng vàng và tiền. Nhưng với người ngoại quốc thì từ Love được nhiều người quan tâm hơn, con số lên đến 7.970.000.000 kết quả, nhiều hơn cả Gold và Money.

Tại sao lại có sự khác biệt như thế chúng con ?

Theo cha thì có lẽ những người Tây phương đã giàu có nên họ cần love hơn là Goldmoney. Còn người Việt chúng ta vì còn phải sống nghèo nên vẫn còn luẩn quẩn với những gì cụ thể nhất là tiền và vàng.

Hôm nay nhân có câu hỏi của một người Luật sĩ: “Thưa Thầy, trong các giới răn, giới răn nào là quan trọng nhất ?”(Mt 22,36), Chúa Giêsu đã trả lời ngay: “Ngươi phải yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Ðó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Môisê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy”(Mt 22,37-40).

Luật yêu thương của Chúa gồm hai vế: Thứ nhất là mến Chúa. Thứ hai là yêu người.

1. Trước hết là mến Chúa. Tại sao vậy ? Tại vì Thiên Chúa là Chúa của mọi loài. Ngài dựng nên và là Chúa yêu thương mọi loài. Thiên Chúa còn là chủ thể, là đấng duy nhất cao cả, không ai có thể sánh bằng. Ngài là nguồn mạch sự sống và là mục đích của muôn loài muôn vật. Vũ trụ chỉ tồn tại trong Ngài. Vì thế ta phải yêu mến Ngài trên hết mọi sự.

Nhưng thử hỏi làm sao mà biết được Chúa yêu thương ? Cha kể cho chúng con một thí dụ.

Chúng con hãy đặt tay lên ngực của chúng con xem, đặt và chỗ trái tim. Trái tim người bình thường đập 72 lần/phút tức 103.680 lần trong 1 ngày.

Mỗi lần tim đập, nó bơm được 0,143 lít máu đi khắp cơ thể, tức là một phút nó bơm được 10 lít máu, 1 giờ được 615 lít, 1 ngày được 14.725 lít máu.

Nếu trái tim không làm việc thì chúng con có sống được không ? Cha hỏi ai làm cho trái tim làm việc không ngừng nghỉ vậy ? Làm việc suốt cả ngày lẫn đêm không nghỉ ngơi một tí nào. Lạ thật! Ai làm vậy chúng con ?

Rồi chúng con đưa tay lên thử bịt mũi lại xem sao. Chúng con thấy gì ? Ồ! không được thở! Không được thở thì sao ?”Tịch” là chết chứ làm sao.

Bình thường chúng con thở 23.000 lần một ngày, hít vào khoảng 12.000 lít không khí, khoảng 2400 lít oxy. 12.000 lít không khí! Chúng con đã thấy cái thùng phuy bao giờ chưa ? Mỗi thùng phung chứa được 200 lít. Như vậy 12.000 lít là 60 thùng phuy không khí mỗi ngày. Cha hỏi chúng con ai cho mình không khí để mình thở vậy. 60 thùng phuy chứ đâu phải ít. Chúng con đã thấy mấy người kiệt sức người ta phải thờ bằng oxy chưa. Cha không biết giá mỗi bình oxy như vậy là bao nhiêu. Nếu mỗi ngày chúng con phải bỏ tiền ra mua 2400 lít tức là 12 thùng phuy oxy để thở thì chắc là không chịu nổi. Vậy cha thử hỏi ai cho chúng ta mỗi ngày 12.000 lít hay 60 thùng phuy không khí trong đó có 2400 lít oxy để thở vậy ? Gia đình chúng con đã bao giờ phải bỏ tiền ra mua không khí để thở chưa ? Không có không khí để thở, chỉ trong vòng 6-7 phút mình tiêu đời rồi! Ai cho vậy chúng con ?

– Chúa cho.

Chúa chẳng bắt chúng ta trả một xu nào!

Tại sao Chúa cho như thế ? Vì Chúa thương.

Chúng con hãy nghe thêm một câu chuyện nữa.

Chuyện kể rằng một hôm kia có chàng thanh niên vào rừng đốn củi. Đến trưa nhọc mệt, anh ta nằm nghỉ dưới gốc một cây đa cổ thụ, nhìn lên cành lá rườm rà, song quả đa nhỏ xíu. Anh nghĩ sao cây thì khổng lồ mà trái nó thì nhỏ xíu. Tôi mà là ông Trời, tôi cho nó mang trái lớn như trái bí và lá to như lá chuối, như thế mới cân xứng. Trong lúc đó thì thân cây bí yếu ớt mà phải mang trái lớn, cây thuốc không cứng rắn mà phải mang lá to như tấm phên. Quả ông Trời thiếu khôn ngoan! Hay là không có ông Trời, mọi vật đo ngẫu nhiên mà có chăng ?

Miên man nghĩ như vậy, anh thiếp ngủ lúc nào không hay. Đang lúc ngủ say, một cơn gió lớn thổi mạnh làm rớt xuống giữa sống mũi anh một quả đa. Anh giật mình thức giấc, vừa xuýt xoa vừa nghĩ:

– May quá! Phải chi trái đa lớn như trái bí thì kể như bữa nay ta tận số rồi! Hèn chi người ta nói: Trái dừa rớt bao giờ cũng tránh người!

Chúa còn yêu thương chúng ta bằng sự quan phòng của Người nữa’

Hãy biết cảm tạ Thiên Chúa và yêu thương Người luôn luôn.

2. Tiếp đến là yêu người. Chúa bảo: “Yêu người như chính mình”.

Ta nói yêu mến Thiên Chúa, điều đó khó mà biết được, nên Thiên Chúa đã ràng buộc điều răn mến Chúa vào điều răn yêu người. Yêu người là bằng chứng yêu mến Chúa. Như vậy mến Chúa yêu người chỉ là hai khía cạnh của cùng một giới răn.

Tình yêu đối với mọi người cho chúng ta thấy tình yêu đối của mình đối với Thiên Chúa. Thánh Gioan Tông đồ đã nói: “Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta nhận được từ nơi Người: Ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” (1Ga 4,20-21).

Một vị vua không có con nối dõi ngai vàng, nên cho truyền rao khắp nước mời gọi những người đàn ông ưu tú đến để ngài chọn. Ngài đưa ra tiêu chuẩn là kẻ ấy phải có lòng “mến Chúa yêu người”.

Một thanh niên thấy mình có điều kiện nhưng khổ nỗi anh quá nghèo đến mức không có áo quần tươm tất, cũng chẳng có tiền mua sắm thức ăn để đi dự thi. Anh cầu xin Chúa giúp anh. Và sau đó anh đi ăn mày được quần áo và lương thực cần thiết.

Khi đến gần cung điện đức vua, anh mệt mỏi quá nên ngồi nghỉ. Ngay lúc đó anh trông thấy một ông lão ăn xin nghèo. Ông chìa tay xin anh:

– Tôi đói và lạnh quá! Xin cậu thương . . .

Anh nhìn ông lão, lòng vô cùng xúc động. Anh liền cởi chiếc áo lành lặn của anh đổi lấy tấm áo rách tả tơi của cụ, trao cho cụ phần lương thực dự trữ cho chuyến trở về của mình.

Và anh đi vào đền vua. Vừa đến trước mặt vua, anh cúi đầu sâu chào ngài. Khi ngước mắt lên, anh không thể tin nổi mắt anh. Anh thốt lên:

– Thế ra bệ hạ là lão ăn mày lúc nãy ?

– Đúng vậy.

Anh ta ngạc nhiên hỏi:

– Sao bệ hạ làm thế ?

– Vì trẫm muốn thử xem ngươi có thật lòng “mến Chúa yêu người” không.

Xin Chúa cho chúng ta biết sống luật yêu thương của Chúa để chúng ta được xứng đáng với tình yêu Chúa dành cho chúng ta mỗi ngày.

Chúng con hãy sống yêu thương như Chúa dạy, chúng con sẽ thấy mình hạnh phúc.

Chúng con thân mến,

Hôm nay là ngày Chúa nhật Truyền giáo.

Truyền giáo là gì chúng con ?

I. Chúng con vẫn nghe thấy người ta nói truyền thanh, truyền hình. Truyền thanh là truyền âm thanh. Cha nhớ lại ngày xửa ngày xưa khi cha còn nhỏ, nhỏ như chúng con cha và mấy đứa bạn của cha lấy hai cái ống lon sữa bò…lấy một miếng bong bóng heo bịt lại rồi xỏ giây vào hai đầu…rồi giăng ra….rồi nói với nhau.

Giờ thì chúng con thấy khác xưa rất nhiều….người ta không truyền bằng dây đay mà là bằng giây kim loại. Ở nhà chúng con ai có điện thoại giơ tay cha coi. Rất hay…. Điện thoại là truyền cái gì hả chúng con ? Truyền âm thanh. Rất trúng. Bây giờ còn hơn truyền thanh …truyền gì nữa chúng con ? Truyền hình….Rất trúng.

Lúc đầu cha nhớ …chỉ có hình trắng đen…..nhưng bây giờ thì hình mầu…đẹp “hết biết” luôn. Và trong tương lai không xa người ta còn muốn truyền cả mùi nữa…Thật là kỳ diệu.

Cha hỏi chúng con muốn truyền như thế thì trước hết người ta phải làm gì nào chúng con ?

Phải thu…..phải thu thanh, phải thu hình.

Thỉnh thoảng nghe đài chúng con thấy người ta bảo truyền thanh, truyền hình trực tiếp. Trực tiếp nghĩa là làm sao ? Nghĩa là thu một cái rồi phát ngay. Người nghe hay người xem có thể thấy ngay những gì đang diễn ra ở một nơi nào đó trên thế giới này. Ai cho cha một thí dụ xem nào.

Thí dụ cụ thể nhất là bóng đá hay thế vận hội vvv. Ở một nơi nào đó trên thế giới, các cầu thủ đang tranh tài ở trên sân cỏ, dù ở xa thật xa vậy mà đài truyền hình mang tất cả các hình ảnh thật sống động đó tới mình ngay làm cho mình có cảm tưởng là mình cũng đang có mặt để tham dự trận cầu đó vậy. Hay qúa phải không chúng con ?

II. Bây giờ cho nói về truyền giáo. Nếu có ai hỏi cha truyền giáo là gì thì cha có thề trả lời thật dễ hiểu như sau: Là đem Chúa đến cho người khác. Đem Chúa đến cho những người chưa biết Chúa.

Chúa Giêsu ngày xưa đã làm điều này trước tiên.

Thiên Chúa Cha là Đấng mà chẳng ai có thể biết được. Vậy mà Chúa Giêsu đã làm cho người ta biết được Thiên Chúa Cha. Chúa Giêsu làm hay lắm. Chúa vừa nói vừa làm. Chúa nói để người ta biết có một Thiên Chúa yêu thương con người. Rồi Chúa sống những lời Chúa dạy để qua cuộc sống của Chúa, người ta thấy được hình ảnh của Thiên Chúa Cha, một Thiên Chúa là tình yêu, luôn yêu thương hết mọi người.

Đây là một số thí dụ nhờ Chúa Giêsu mà người ta nhận ra được Thiên Chúa. Người ta thấy Thiên Chúa qua Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu nói: “Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha.(Ga 6,46)

Chúng con nhớ lại câu chuyện của Philipphê trong Tin Mừng Gioan Chương 14,8-11: Ông Philípphê nói: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện. “Đức Giêsu trả lời: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philípphê, anh chưa biết Thầy ư ? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha” ? Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao ? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm”

Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.

Đó chúng con thấy, Chúa Giêsu làm cho người ta thấy Thiên Chúa Cha.

Hôm đó Chúa cùng đi với các môn đệ của Chúa trên một con thuyền. Bỗng nhiên sóng gió bão táp nổi lên. Chúa dẹp yêu sóng gió bão táp ngay. Những kẻ ở trong thuyền bái lạy Chúa và nói: Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa!”(Mt 14,33)

Ông Nathanaen nói: “Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa, chính Thầy là Vua Israel!” (Ga 1,49)

Ông Simôn Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.” (Mt 16,16)

Thấy động đất và các sự việc xảy ra, viên đại đội trưởng và những người cùng ông canh giữ Đức Giêsu đều rất đỗi sợ hãi và nói: “Quả thật ông này là Con Thiên Chúa.” (Mt 27,54)

Còn các thần ô uế, hễ thấy Đức Giêsu, thì sấp mình dưới chân Người và kêu lên: “Ông là Con Thiên Chúa!”(Mc 3,11) và kêu lớn tiếng rằng: “Lạy ông Giêsu, Con Thiên Chúa Tối Cao, chuyện tôi can gì đến ông ? Nhân danh Thiên Chúa, tôi van ông đừng hành hạ tôi!”(Mc 5,7)

Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Đức Giêsu, thấy Chúa tắt thở trên Thánh Giá lạ lùng quá liền nói: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa.” (Mc 15,39)

Quỷ cũng xuất khỏi nhiều người, và la lên rằng: “Ông là Con Thiên Chúa!” Người quát mắng, không cho phép chúng nói, vì chúng biết Người là Đấng Kitô.(Lc 4,41)

Thấy Đức Giêsu, anh la lên, sấp mình dưới chân Người, và lớn tiếng nói rằng: “Lạy ông Giêsu, Con Thiên Chúa Tối Cao, chuyện tôi can gì đến ông ? Tôi xin ông đừng hành hạ tôi!” (Lc 8,28)

Mọi người liền nói: “Vậy ông là Con Thiên Chúa sao ?” Người đáp: “Đúng như các ông nói, chính tôi đây.”(Lc 22,70)

Nghe vậy, Đức Giêsu bảo: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh.” (Ga 11,27)

Bây giờ đến lượt chúng ta. Muốn đem Chúa đến cho người khác chúng ta phải làm gì ? Trước hết phải biết Chúa trước. Cũng giống như người ta muốn truyền thanh, truyền hình thì phải thu trước. Thu bằng cách nào chúng con ? Thưa bằng cách học về Chúa.

Không có thì không cho được. Muốn cho thì phải có.

Vậy phải biết Chúa trước đã.

Rồi thì phải làm gì tiếp theo ?

Có thể có nhiều cách nhưng cách tốt nhất và có thể mang lại nhiều kết quả nhất đó lá cách làm chứng. Làm chứng bằng chính đời sống tốt đẹp thánh thiện của mình. Cha kể cho chúng con câu chuyện này:

Linh mục NATARINÔ ROCHKY, một thừa sai người Italia làm việc truyền giáo lâu năm ở Nhật Bản, đặc biệt là Ngài làm Cha sở họ đạo Elsaye. Cách thủ đô Tôkyô khoảng 100 km. Ngài kể lại câu chuyện sau đây: “Có một giáo sư đại học trẻ tuổi người Nhật xin gặp tôi mỗi tuần 2 buổi tối để thảo luận về các vấn đề tôn giáo và Phúc Âm, mặc dù ông chưa phải là tín hữu Công giáo. Những thảo luận như vậy kéo dài hơn một năm trời. Vị giáo sư này trình bày cho tôi những nghi ngờ, thắc mắc về đạo, đồng thời ông cũng xin tôi giải thích thêm về Phúc Âm, về Giáo hội và về luân lý của đạo công giáo.

Sau hơn một năm, tôi cảm thấy vị giáo sư thông minh đó có vẻ sẵn sàng đón nhận Bí Tích Thánh Tẩy, nên tôi hỏi ông có muốn được rửa tội và gia nhập vào Hội thánh Công Giáo hay không. Tôi ngạc nhiên khi thấy ông từ chối cách lịch sự. Và từ đó, tôi không thấy không lui tới với tôi nữa… Bẵng đi hơn 10 tháng, khi tôi hầu như đã quên đi vị giáo sư đó, thì một hôm. Ông trở lại gặp tôi và nói:

Thưa Cha, Cha đã thuyết phục được con. Bây giờ con sẵn sàng đón nhận Bí Tích Rửa tội và con cũng đã chuẩn bị cho vợ con cũng như hai đứa con của con.

Nghe đến đây, tôi rất ngạc nhiên. Tôi hỏi ông điều gì đã khiến ông thay đổi ý kiến như thế. Ông ta đáp:

– Trong những tháng qua, con đã âm thầm quan sát xem Cha đã sống như thế nào. Cha đã từng nói với con rằng Cha thường dâng thánh lễ một mình trong nhà thời mỗi ngày lúc 7 giờ sáng. Đó cũng là giờ con ra ga xe lửa để đến Tôkyô dạy học, vì thế con vẫn có dịp đi qua Nhà thờ của Cha. Con dừng lại một lát nhìn Cha qua cửa sổ, xem Cha làm gì trong đó. Bao giờ con cũng thấy Cha trong Nhà thờ và cầu nguyện thật sốt sắng. Ngoài ra, con cũng dò hỏi nhiều người về cách sống của Cha. Qua các cuộc điều tra đó, con thấy quả thật Cha đã tin và đã sống những điều Cha đã chia sẻ cho con về đạo. Xét về mặt kiến thức thì con đã xác tín về sự thật Tin Mừng, nhưng con muốn xem Cha có sống Tin Mừng thực sự hay không”.

Đúng là cha Cha Rochky đã làm cho ông giáo sư này thấy được Đạo qua cách sống cua cha. Không những cha đã truyền giáo bằng lời nói, giảng dạy, nhưng còn bằng cuộc sống thường ngày của cha nữa chúng con. Cha chúc chúng con cũng làm được như thế.