Thiếu nhi chúng con yêu quý,

Chỉ còn đúng ba ngày nữa là chúng ta mừng lễ Chúa Giáng Sinh.

Ngay từ Chúa nhật đầu tiên của Mùa Vọng, cha đã luôn nói với chúng con về việc làm thế nào để có thể gặp được Chúa khi Người đến.1. Thế cha hỏi chúng con, Chúa đã đến với chúng ta bằng cách nào ?

Bài Tin Mừng hôm nay trả lời cho chúng ta phần nào câu hỏi đó.

Chúa đã không đến như một nhân vật kỳ lạ trong những truyện cổ tích. Chúa cũng không đến như một nhân vật huyền thoại trong các truyện thần tiên. Vậy thì Chúa đến bằng cách nào chúng con ?

Chúa đến như một con người, một con người được sinh ra bởi một con người và sau đó Chúa sống một cuộc sống cũng như một con người. Chỉ có một điều, cách Chúa đến với con người chúng ta không giống với cách của con người chúng ta. Không giống ở chỗ nào thì chúng con nghe sứ thần của Thiên Chúa cắt nghĩa cho thánh Giuse. Đây là lời của sứ thần: “Này ông Giuse, con cháu Ðavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”.(Mt 1,20-21) Và Thánh Matthêu còn cho biết thêm: “Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ: Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”. (Mt 1,22-23).

Đó chúng con có thấy không. Khác nhau là ở chỗ đó.

Sau này khi đã được cùng sống với Chúa Giêsu, thánh Gioan trong Tin Mừng của ngài, ngài còn cho chúng ta biết về Chúa Giêsu hay hơn nữa. Ngài nói như sau: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa”.(Ga 1,1) “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta (Ga 1,29).

Chưa hết, nếu chúng ta đọc trong Tin Mừng của thánh Gioan, chúng ta còn được thấy nhiều điều lạ lùng hơn nữa trong đó, chính Chúa Giêsu còn cho chúng ta biết những điều quan trọng hơn. Ngài bảo: Tôi và Chúa Cha là một”.(Ga 10,30)”.Phần tôi, tôi biết Người, và chính Người đã sai tôi”.(Ga 7,29) Và Chúa còn quả quyết: “Các ông bởi hạ giới; còn tôi, tôi bởi thượng giới. Các ông thuộc về thế gian này; còn tôi, tôi không thuộc về thế gian này.(Ga 8,23)

Nói tới đây cha tưởng cũng đã đủ để chúng ta thấy được Chúa Giêsu mà sứ thần Chúa loan báo là ai và Ngài đến với loài người chúng ta như thế nào để qua đó chúng ta phải có một cái nhìn đúng về Ngài cũng như phải có một niềm tin vào Ngài như thế nào.

2. Bây giờ đến lượt chúng ta. Chúng ta tự hỏi đâu là thái độ chúng ta phải có khi chúng ta đứng trước máng cỏ Belem của Chúa Giêsu ?

Nhìn vào Chúa Giêsu chúng ta phải có thái độ nào ? Nếu chúng ta chỉ nhìn Chúa Giêsu như đa số những người Do thái thuở xưa thì chúng ta sẽ chỉ thấy Chúa Giêsu là một con người. Chúa Giêsu chỉ là một con người, một con người như tất cả mọi người không hơn không kém. Một con người với tất cả phẩm chất của một sinh vật trên đất. Và nếu chúng ta chỉ nhìn Chúa Giêsu như thế thì chắc là chúng ta sẽ khó vượt qua được thái độ coi thường hay có khi còn là kẻ thù của Chúa Giêsu như những người D thái thuở xưa: “Chúng tôi ném đá ông, không phải vì một việc tốt đẹp, nhưng vì một lời nói phạm thượng: ông là người phàm mà lại tự cho mình là Thiên Chúa”.(Ga 10,33)

Nhìn lại những hình ảnh cuối cùng của Chúa Giêsu dưới cây Thánh Giá chúng ta thấy rất rõ điều đó.

Ngược lại nếu chúng ta có một cái nhìn đúng và đủ về Chúa Giêsu thì chắc chắn thái độ của chúng ta và mọi người sẽ khác. Chúa Giêsu mà thiên sứ loan báo là một Emmanuel. Emmanuel có nghĩa là Thiên-Chúa-ở-giữa-chúng-ta. Như vậy đứng trước Chúa Giêsu cho dù ngài chỉ là một Hài Nhi nằm trong máng cỏ nghèo khó hay một Chúa Giêsu quyền năng dẹp yên được cả sóng gió bão táp, chúng ta cũng phải nhìn Chúa bằng một danh hiệu mà thiên sứ đã loan báo: EMMANUEN. THIÊN-CHÚA-Ở-GIỮA- CHÚNG-TA. MỘT-THIÊN-CHÚA-Ở-GIỮA-CHÚNG-TA NHƯ MỘT CON NGƯỜI.

Chúng ta không được nhìn Chúa Giêsu chỉ như một con người. Cái nhìn như thế sẽ dễ dẫn chúng ta đến thái độ sai lầm như những người Do thái thuở xưa. Cũng không được nhìn Chúa Giêsu như là một Ông Thần. Nhìn như thế sẽ dễ làm cho chúng ta sai lầm như một số các lạc thuyết thời Trung cố. Tóm lại Chúa Giêsu là một Thiên Chúa làm người. Đó là cái nhìn đầy đủ và đúng nhất về Chúa Giêsu. Nói tới đây cha nhớ đến một câu chuyện mà người Pháp hay kể cho nhau nghe mỗi dịp lễ Giáng Sinh về: Câu chuyện có tên là thăm Hang Đá. Câu chuyện xảy ra ở nhà thờ Đức Bà tại thủ đô Paris của nước Pháp.

Chuyện thế này: Vào một dịp lễ Giáng Sinh năm ấy, người ta thấy có một đoàn người đến viếng thăm Hang đá được làm trong nhà thờ Đức bà Paris. Đây là một ngôi Nhà thờ cổ kính và rất nổi tiếng tọa lạc ngay giữa thủ đô. Hoà trong đoàn người kính viếng hang đá năm ấy, người ta thấy có nhiều người tài giỏi cũng cùng viếng hang đá.

Đầu tiên người ta thấy một ông hoạ sĩ. Ông là người chuyên về màu sắc. Đứng trước máng cỏ của Chúa Giêsu, người ta thấy ông lắc đầu. Xem chừng như những màu sắc trang hoàng hang đá không được đúng theo cái nhìn của ông. Nhìn một chút rồi ông đi ra. Tiếp đến là một ông kiến trúc sư: Chúng con biết ông kiến trúc sư là người làm nghề gì rồi. Ông làm nghề kết cấu trong việc xây dựng. Người ta thấy ông cũng nhìn và cũng ngắm và rồi người ta cũng lại thấy ông lắc đầu. Có lẽ hang đá không được làm đúng với quy luật kiến trúc. Sau đó ông cũng lặng lẽ đi ra.

Tiếp theo đó là điêu khắc. Chúng con có biết nhà đều khắc làm gì không ? Nhà điêu khắc là người làm nghề tạc tượng hay đắp tượng. Tượng Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh Giuse trong hang là do những người làm nghề điêu khắc làm. Nhà điêu khắc này đứng ngắm hang đá lâu hơn hai người trước. Hình như ông thấy các bức tượng nơi hang đá có vấn đề. Sao nó không đúng với thực tế mấy. Chúa thì to mà con bò con chiên thì lại quá nhỏ, thiếu sự cân đối vv và vv Rồi người ta cũng lại thấy ông lắc đầu đi về.

Sau cùng người ta thấy một bà cụ già dắt theo một em bé. Em bé mặc một bộ đầm trắng toát như tuyết. Vai em còn mang thêm một chiếc khăn quàng cũng màu trắng. Hai bà cháu đứng ngắm nhìn hang đá một hồi lâu. Bỗng người ta thấy em bé mon men tìm đường leo lên hang đá đến tận chỗ người đặt tượng Chúa Giêsu Hài đồng.

Em bé ngắm nhìn Chúa Giêsu. Lòng em cảm thấy xúc động. Giữa cảnh đêm đông giá lạnh như thế này mà mà Chúa không có mền để đắp…Rồi người ta thấy em cởi chiếc áo len trắng em đang mặc đắp cho Chúa Giêsu Hài đồng.

Sau đó họ cũng ra về nhưng lòng họ cảm thấy tràn ngập niềm vui vì Chúa thật gần. Họ cảm thấy hạnh phúc vì thấy mình được Chúa yêu thương nhiều quá.

Chúa sắp Giáng sinh rồi.

Cha chúc chúng con cũng tìm được niềm vui và hạnh phúc như thế. Amen.

Emmanuel- Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta

John P., một linh mục Ái nhĩ lan, sau nhiều năm tận tâm thuyết phục một thanh niên bỏ đạo trở về với Giáo hội, đã phải hoài công vô vọng. Bao lời khuyên răn cứ như “nước đổ lá môn”.

Một lần kia, Mẹ Têrêsa Calcutta được mời đến thăm Ái nhĩ lan. Ban tổ chức có thu xếp một buổi nói chuyện thân mật giữa Mẹ với các bạn trẻ. Mẹ chỉ nói giản dị về tình yêu Thiên Chúa: Chúa yêu thương các bạn; Ngài luôn đồng hành với các bạn. Sau đó Mẹ rời thành phố. Ai về nhà nấy.

Trời mỗi lúc mỗi khuya! Khi mọi vật đang chìm vào tĩnh mịch, chợt một hồi chuông điện thoại reo vang phá tan giấc ngủ của cha John. Ngài nhấc vội chiếc điện thoại, và đầu dây bên kia là giọng nói của chàng thanh niên năm nào:- “Alô, con muốn xưng tội với cha. Con muốn trở về cùng Giáo hội”.- “Chuyện gì xảy ra cho anh vậy ?” Vị linh mục hỏi lại. Ngài tưởng chừng chàng thanh niên đang bị tai nạn hiểm nghèo nào đó nên vội dọn mình ra đi.Nhưng anh ta trả lời:

– “Thưa cha, vì chiều nay Mẹ Têrêsa đã nói với con một lời đánh động lòng con rất nhiều”.

Vị linh mục ngạc nhiên:

– “Mẹ nói lời gì, và nếu tôi không lầm thì nhà thờ chật ních. Mẹ lại đâu có cơ hội để gặp riêng anh ?”

– “Vâng thưa cha, Mẹ không gặp riêng con, nhưng Mẹ đã nói với mọi người, trong đó có con. Mẹ nói rằng: “Chúa ở với các con”.

Nghe thế, vị linh mục càng ngạc nhiên hơn nữa:

– “Ủa, đã nhiều lần tôi cũng nói với anh như thế, nhưng sao hôm nay anh lại bị thuyết phục bởi lời nói ấy của Mẹ Têrêsa ?”

Anh thanh niên chậm rãi giải thích:

– “Thưa cha, vì Mẹ đã nói câu đó từ thẳm sâu của tâm hồn. Mẹ đã nói với con bằng tất cả con tim của mình”.

Một câu nói không phát ra từ một công thức có sẵn hay do một thói tục xã giao thông thường thúc đẩy, nhưng khởi đi từ chốn thâm sâu của một tâm hồn yêu thương mới có khả năng thuyết phục, hoán cải, và truyền đạt được ý nghĩa chân thực nhất của danh hiệu Emmanuel-Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta.

Trong một Thánh lễ, biết bao lần vị linh mục đọc lên cầu chúc: “Chúa ở cùng anh chị em,” nhưng thử hỏi có mấy lần lòng tôi bồi hồi xúc cảm vì sung sướng trước sự kiện này ? Rất nhiều lần tôi nghe, đáp, hát, đọc những lời kinh nguyện có cùng một nội dung như thế, nhưng có mấy lần tôi cảm nhận được Thiên Chúa hiện hữu thật sự trong cuộc đời của mình ? Tôi không có, phải chăng vì đã chưa đọc và nghe với tất cả tâm hồn ?

Nếu thấu hiểu được thế nào là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta,” chắc chắn sẽ không có một tác nhân gì có thể làm cho con người phải run sợ bất an hay ưu sầu lo lắng.

Ngày xưa, khi Môisen đang chạy trốn người Ai Cập, tránh né bàn tay ác độc của Pharaô, Giavê đã hiện ra và bảo ông trở về đất Ai để giải thoát dân Israel. Trước một trách nhiệm lớn lao cùng bao hiểm nguy cho tính mạng như thế, Moisen can đảm lên đường, vì Thiên Chúa đã nói với ông: “Ta sẽ ở với ngươi” (Xh 3:12).

Rồi khi Giêrêmia được Giavê kêu gọi ra đi làm tiên tri cho các dân tộc, ông đã tìm cách thoái thác: “Tôi đâu có biết nói năng gì. Tôi chỉ ú ớ như một đứa trẻ con”. Nhưng Chúa nói: “Ðừng sợ, vì Ta ở cùng ngươi” (Gr 1:8). Với lời hứa ấy của Giavê, Giêrêmia lên đường.

Trong Tân ước, khi Chúa Giêsu sai các môn đệ đi vào thế gian rao giảng Tin mừng. Sứ mạng chất đầy gian nan, không khác chi như chiên con đi giữa sói rừng. Ấy thế mà sự bảo đảm lại chỉ là một lời hứa: “Ta sẽ ở cùng các ngươi mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20). Vậy rồi các ông ra đi.

Sẽ không lời hứa nào bày tỏ trọn vẹn nỗi lòng yêu thương của một con người cho bằng lời hứa “ở cùng người yêu,” và sẽ không có nỗi lòng khát khao nào mãnh liệt cho bằng được “sống chung với người yêu”. Một chàng thanh niên có thể hứa với người con gái: “Anh sẽ mua cho em một chiếc nhẫn kim cương làm quà Giáng sinh; anh sẽ cố học thành tài để em không phải lam lũ sau này…,” nhưng nếu không có lời hứa “ở cùng em” thì vô ích hết. Cao điểm hạnh phúc trong ngày thành hôn của hai người nam nữ không phải nơi chiếc áo cưới soirée lộng lẫy, cũng chẳng phải nơi chiếc nhẫn cưới hay lời chúc tụng của thân hữu đôi bên, nhưng là nơi giao ước tình yêu đã được thiết lập. Trong giao ước đó họ hứa “ở cùng nhau suốt đời”.

Một linh mục đã nhận xét: “ở cùng” chính là ngôn ngữ của tình yêu, vì chỉ có yêu ai người ta mới nghĩ đến “ở cùng”. Vì yêu nên mới có việc Thiên Chúa đến “ở cùng” con người, mới có danh hiệu Emmanuel, mới có cảnh Giavê mang kiếp lầm than để thông chia nỗi đau của con người, và chưa hết, mới có danh hiệu Giêsu, nghĩa là Giavê cứu thoát.

Vì yêu thương con người nên Thiên Chúa muốn cứu thoát. Ðể cứu thoát, Ngài đã đến ở cùng. Có lẽ không nỗi đợi chờ hay một thỏa mãn nào đáng giá hơn hình ảnh của Chúa Hài đồng nằm trong máng cỏ, hiện thân của tình yêu ở cùng.

Danh hiệu Emmanuel không chỉ gợi lên trong tôi ý thức về ân phúc tình yêu Thiên Chúa dành cho con người, về những lời cầu chúc được lập đi lập lại trong các Thánh lễ đang cần được nói và nghe với tất cả tâm hồn, nhưng còn là lời mời gọi bạn và tôi hãy ở cùng tha nhân, hãy xích lại gần nhau và sống thân ái hơn trong tình người. Như Thiên Chúa đã phá đổ bức tường ngăn cách, dù đó là sự ngăn cách vô biên–giữa Tạo hoá và loài thụ tạo, giữa trời cao với đất thấp, giữa vô hình và hữu hình–chúng ta cũng được mời gọi hãy phá đổ những ngăn cách giữa con người với con người, để việc tôi “ở cùng” tha nhân trong an hoà sẽ là một phản chiếu rõ nét khuôn mặt của Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta.

Thiếu nhi chúng con yêu quí.

1. Chúng ta đang ở trong Mùa Vọng, mùa chuẩn bị mừng Chúa Giáng Sinh.

Cha hỏi chúng con. Hôm nay chúng con có thấy cái gì khác thường đặc biệt không ?

– Có..

+ Có cái gì nào ?

– Chúng con thấy cha mặc áo mầu hồng.

+ Rất đúng. Nhưng còn có điều gì khác thường nữa không ?

– Chúng con thấy các bài sách thánh hôm nay nói nhiều đến niềm vui.

+ Rất chính xác. Cha khen chúng con. Đúng Chúa nhật hôm nay được gọi là Chúa nhật của niềm vui. Các bài đọc Kinh thánh đều nói về vấn đề này.

Nói đây cha chợt nhớ đến một câu chuyện. Câu chuyện có tựa đề là Niềm Vui Cho Mọi Người. Chuyện kể rằng:

Mỗi ngày, cứ vào buổi trưa, cụ già Thomas lại vào ngôi nhà nguyện nhỏ bé, ở lại đó nhiều nhất là 2 phút, vâng, chỉ 2 phút thôi, rồi trở ra. Người giữ phòng thánh lấy làm thắc mắc, và một ngày kia đã chặn cụ Thomas lại để hỏi cho ra lẽ:- Này ông Thomas, tại sao ông lại đến đây mỗi ngày ?

Cụ Thomas điềm đạm trả lời:- Tôi đến để cầu nguyện.

Người bạn già nhăn mặt:- Không thể tin được! Thế ông đọc kinh gì mà lại chỉ trong có mấy phút đã xong ?

Cụ Thomas vẫn từ tốn giải thích:

– Tôi chỉ là một lão già dốt nát, tôi cầu nguyện với Chúa theo một cách thức riêng của tôi, tôi nói: ”Lạy Chúa Giêsu, này con đây, chính con là Thomas đây!” Thế thôi, rồi tôi đi ra..

Nhiều năm trôi qua, cụ Thomas ngày một trở nên quá già yếu và bệnh tật, phải vào bệnh viện, ở khu dành cho người nghèo. Khi cụ sắp qua đời, một linh mục và một chị nữ tu y tá đến bên giường cụ, nhỏ nhẹ hỏi han:

– Cụ ơi, cụ hãy nói cho chúng tôi biết, vì sao kể từ khi cụ nhập viện tế bần này, mọi sự bỗng trở nên tốt đẹp hơn, mọi người đều như cảm thấy hài lòng, hạnh phúc và thân thiện với nhau hơn ?.

Cụ Thomas nhoẻn miệng cười móm mém, thố lộ:

– Tôi cũng không biết nữa. Khi còn đi lại được, tôi cứ đi chỗ này chỗ kia để thăm mọi người, chào hỏi trò chuyện đôi chút. Đến khi liệt giường, tôi mời mấy mọi người lại, kể chuyện tếu, chọc cho họ cười vui. Với Thomas thì mọi người phải luôn được hạnh phúc!

Vị linh mục vẫn chưa thôi thắc mắc:

– Nhưng còn phần cụ, nhờ đâu cụ có được hạnh phúc ?

Cụ Thomas hỏi ngược lại:- Thế thưa cha và thưa xơ, quý vị không cảm thấy hạnh phúc khi được người khác thăm viếng mỗi ngày sao ?.

Vị linh mục ngẫm nghĩ rồi gật gù đồng ý:

– Cụ nói phải! Thế nhưng ai đã đến thăm cụ mỗi ngày ?

Cụ Thomas tươi hẳn nét mặt trả lời:- Thưa cha, khi tôi bắt đầu vào bệnh viện này, tôi đã xin hai cái ghế, một cái dành cho cha hoặc cho xơ, còn cái kia dành cho Đức Giêsu. Trước đây, tôi đến viếng Ngài ở nhà thờ, nhưng nay tôi đã phải nằm liệt giường thì chính Đức Giêsu đã đến thăm tôi mỗi buổi trưa.

Vị linh mục tròn xoe mắt kinh ngạc:- Thế Đức Giêsu nói gì với cụ ?

Cụ Thomas hãnh diện trả lời:- Này Thomas, chính Thầy đây, Giêsu của con đây!.

Và, những ngày cuối cùng của cuộc đời qua đi, trước khi cụ Thomas qua đời, ai cũng nhìn thấy cụ luôn mỉm cười hạnh phúc…

Đó chúng con thấy: Được Chúa viếng thăm là một niềm vui thật lớn. Ước gì chúng ta nhận được niềm vui thất lớn mỗi khi chúng ta được Chúa đến với chúng ta.     2. Nhưng làm thế nào để có thể có được niềm tin như vậy ?

Đọc bài Tin Mừng hôm nay cha có cảm tưởng là ông Gioan chưa có được niềm tin như thế. Bởi vì chưa có được niềm tin như ý Chúa muốn nên ông cảm thấy bức xúc, ông cảm thấy hình như Chúa Giêsu mà ông đã loan báo không biết có đúng hay không. Chính vì thế mà ông đã sai môn đệ của ông đích thân đến gặp và hỏi Chúa: “Thưa Thầy, Thầy có thật là Ðấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác ?”(Mt 3, 3)

Tại sao ông Gioan lại hỏi như thế ?Ông hỏi như thế vì ông thấy Chúa Giêsu Đấng Thiên Sai không giống với hình ảnh mà ông đã rao giảng cho mọi người. Cha thấy trong đầu của ông vẫn còn mang nặng cái ý nghĩ về Đấng Cứu thế, Đấng Thiên Sai của những người Do thái. Đấng Cứu thế, Đấng Thiên Sai đối với người Do thái phải là Đấng oai hùng, phải là Đấng thống trị muôn dân muôn nước, phải là Vua các Vua, chúa các chúa chứ không phải là một con người xem ra có vẻ chẳng có quyền uy gì như Chúa đang sống.

Chúa đã trả lời cho ông Gioan. Chúa bảo ông hãy nhìn vào các dấu chỉ mà các ngôn sứ đã loan báo về thời đại Đấng Thiên sai mà biết Chúa là ai và có đúng với những điều đã được loan báo hay không.

Cha chắc các môn đệ của Gioan đã làm như Chúa nói và cha tin chắc ông Gioan cũng thấy điều đó. Cha tin chắc như vậy. Cha tin Chúa cũng biết điều đó cho nên sau khi các môn đệ của ông Gioan ra đi, Chúa đã công khai khen ngợi Gioan Tẩy Giả trước mặt mọi người. Chúa khen ngợi bằng những lời lẽ tốt đẹp chưa từng thấy. Đây cha xin nhắc lại cho chúng con: “Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả. (Mt 3, 11).

Tại sao thế ? Thưa vì ông xứng đáng được ca tụng như vậy. Ông cao trọng bởi vì ông dám lãnh nhận một sứ mệnh cao cả – Sứ mệnh dọn đường cho Chúa Cứu thế và ông đã dám can đảm sống hết mình để chu toàn sứ mệnh ấy dù khi sống như vậy ông đã phải trả một cái giá thật đắt.

Chúng con hãy nghe Chúa nói tiếp:

 “Các người vào sa mạc đi xem gì ?” Xem cây sậy bị lung lay trong gió ư ? Không! Gioan không là cây sậy, mà là cây lim cây sến. Nói như Đức Cha Timer Toth người ta có thể bẻ cong được cây sậy nhưng người ta không có thể bẻ cong được cây lim cây sến, người ta chỉ có thể chặt chúng đi. Gioan là như thế. Ông không phải là con người dễ uốn cong. Để khỏi thấy mặt con người gây nhiều phiền toái cho mình, Hêrôđê chỉ còn cách chặt đầu ông mà thôi”. Các ngươi đi để xem gì ?” “Một người ăn mặc mịn màng ư! Ta bảo thật những kẻ ăn mặc xa hoa và sống vui thú…họ ở trong cung điện các vua chúa. Gioan không phải như thế. Ông không phải là hạng người mà cuộc đời chỉ có ăn với mặc! Ông đả tự nguyện sống siêu thoát để tự rèn luyện mình và cũng là để ông được hoàn toàn tự do khi thi hành sứ mệnh.

Vậy các ngươi xem gì ? Một tiên tri ư ?

Và Chúa tự trả lời ngay: Phải! Ta bảo cho các ngươi hay: Ông là một tiên tri và còn hơn một tiên tri nữa vì ông mà có lời Kinh Thánh chép rằng: “Ta sai Thần Khí của Ta đi trước để dọn đường cho con”.

Thánh Hêrômimô thuật lại:

Hôm đó vào một buổi tối tháng 3 năm 29 tại Machironte người ta tưng bừng náo nhiệt tổ chức mừng vạn thọ cho vua Hêrôđê. Vào lúc bữa tiệc đã gần kết thúc, trong cơn đảo điên vì hơi men, lại bị kích động thêm bởi những vũ điệu cuồng loạn, xác thịt, khiêu gợi, tình tứ, quyến rũ của Salômê, đứa con của Hêrôđiađê vợ của người anh là vua Philippê mà Hêrôđê đã cướp đem về làm vợ mình… Hêrôđê đã buông ra những lời rất ngọt ngào: “Này Salômê con, con muốn xin gì chăng ?…Cô bé dừng lại, vân vê tà áo, mỉm cười duyên dáng khiến nhà vua khoái chí…và dù sự việc chẳng đến nỗi quá quan trọng nhưng nhà vua đã thề hễ cô xin gì dù là cả nửa nước, ông cũng sẽ ban cho…

Cô bé chưa dám quyết định ngay, cô vào hỏi mẹ- và Hêrôđiađê là con người quỷ quyệt. Cơ hội ngàn năm một thuở đã tới. Bà quyết phải tận dụng để trả thù cho kẻ đã dám công khai sỉ nhục bà. Bà nói với con xin ngay cái đầu của Gioan – lập tức cô ra nói với vua:“ Xin cha ban cho con ngay tại đây, trên cái mâm này, đầu của Gioan Tẩy Giả”

Tin mừng Mt 14, 9-12 ghi: “Nhà vua lấy làm buồn nhưng vì đã lỡ thề, lại thề trước khách dự tiệc nên truyền lệnh cho lính vào ngục lấy đầu của Gioan Tẩy Giả đặt trên mâm đen trao cho cô và cô đem đến cho mẹ. Thánh Hêrôminô còn cho biết thêm khi nhận được đầu của Gioan Tẩy Giả, Hêrôđiađê đã lấy dao cạy miệng Ngài ra rồi dùng dao đâm thấu lưỡi của vị Thánh- Và các môn đệ đến lấy thi hài của Ngài đem đi chôn- rồi đi báo cho Đức Giêsu.

Và thế là kết thúc cuộc đời của một vị tiên triVâng Gioan đã trở nên cao cả không phải vì ông nhiều tiền nhiều bạc, cũng không phải ông có những địa vị thật cao trong xã hội, nhưng là vì ông đã chu toàn được sứ mệnh Chúa trao cho mình.

Mỗi người chúng ta cũng hãy chu toàn mọi bổn phận Chúa trao cho chúng ta để chúng ta cũng được gặp Chúa và được hưởng niềm vui của Người. Amen.

Thiếu nhi chúng con yêu quí,

Chúng ta vừa nghe Lời Chúa trong Tin Mừng Matthêô.

Cha đố chúng con hôm nay Lời Chúa nói với mọi người về vấn đề gì nào?

– Thưa cha về vấn đề sám hối.

– Chúng con giỏi. Chúng con trả lời rất hay. Cha khen chúng con.

1. Sám hối là gì?

Chúng con hãy nghe câu chuyện có thực này: Đài truyền hình Nhật bản trước đây đã trực tiếp trình chiếu hình ảnh của Ban quản trị một công ty dược phẩm tại Nhật bản đã quì gối gục đầu xuống sàn nhà để nhận tội. Trong hình ảnh mà thán thính giả trên toàn nước Nhật đã thấy được, toàn bộ Ban quản trị của một công ty cung cấp máu có tên là “Thập tự xanh” đã ra trước ống kính truyền hình để thú nhận vai trò của họ trong việc phân phối máu có nhiễm vi rút HIV hồi năm 1986 làm cho nhiều người phải mang bệnh sida. Sau khi chủ tịch của công ty đọc lời thú tội, thì trong đám đông có tiếng la lớn: “Hãy qùi xuống”. Đó là tiếng kêu của một trong những nạn nhân của hành động thiếu trách nhiệm trên đây. Liền sau đó, một người khác cũng hô lớn: “Hãy nhận lấy trách nhiệm của các ngươi về tội ác”. Tức khắc, ông chủ tịch và 5 người trong Ban quản trị công ty đã quỳ gối trước mặt cử tọa và gục đầu xuống sàn trong vòng mười phút để nhận tội và tỏ dấu sám hối.

Biết mình có tội, can đảm nhận tội, thành khẩn xin tha tội và quyết tâm sửa lại tội lỗi hay lỗi lầm của mình. Làm được như thế chúng ta gọi là sám hối. Đây là điều làm cho con người khác với ma quỉ.

Satan phàn nàn với Chúa:

– Ngài không công bằng. Nhiều tội nhân làm điếu sai trái và Ngài lại đón nhận họ. Thật ra, có người trở lại sáu bảy lần và Ngài vẫn nhận. Tôi chỉ phạm một lỗi lớn mà Ngài kết án tôi đời đời.

Chúa nói: 

Đã bao giờ ngươi ăn năn xin tha thứ chưa?

2. Tại sao phải sám hối.

Một ngày nọ, một nhà báo đã hỏi mẹ thánh Têrêsa một câu hỏi kỳ lạ. Anh ta hỏi rằng:

– Ngay cả Mẹ cũng xưng tội sao?

Tôi trả lời:

– Vâng, đúng vậy, tôi đi xưng tội mỗi tuần

Tỏ ra ngạc nhiên, anh ta nói:

– Chúa hẳn phải khắt khe lắm bởi đến Mẹ mà cũng phải xưng tội.

Tôi hỏi lại:

– Đứa con bé bỏng hiền ngoan như thiên thần của anh đôi khi cũng làm điều sai. Vậy anh nghĩ gì nếu một ngày, con anh đến gặp anh và nói: “Cha ơi, con xin lỗi? Anh sẽ làm gì? Anh sẽ vòng tay ôm lấy đức nhỏ và hôn nó. Tại sao vậy? vì đó là cách anh nói với con rằng anh yêu nó. Chúa cũng làm vậy. Ngài yêu tôi thật dịu dàng”. Ngay cả khi phạm phải điều lầm lỗi, chúng ta hãy cho phép mình đến gần hơn với Chúa. Chúng ta hãy nói với Ngài: “Con biết lỗi lầm làm con xa Cha, con không xứng đáng làm con Cha nữa, nhưng con vẫn cầu xin được tha thứ”

Nếu chúng ta mắc phải lỗi lầm hãy tìm đến Chúa và nói: “Con xin lỗi, con thực sự hối tiếc”. Chúa là một Người Cha khoan dung. Lòng nhân từ của Ngài còn lớn hơn tội lỗi của chúng ta. Ngài sẽ tha thứ cho ta.

Thiên Chúa không mong chờ nơi con người điều gì khác hơn là tấm lòng sám hối: “Chúa ở bên những người sám hối, và cứu chữa những ai sầu khổ” (Tv 33,19). Chính lòng sám hối chân thành đã đem lại niềm vui cho cả Thiên đàng: “Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối” (Lc 15,7).

3. Bài học về lòng sám hối.

Chúng con hãy cùng cha suy nghĩ vể câu chuyện cảm động này. Câu chuyện có tên là: Tìm lại giá trị của cuộc đời, ở giây phút cuối”

Làm cảnh sát hơn 20 năm, từng chạm trán với vô số tội phạm nhưng ký ức về một lần truy đuổi khiến tôi suốt đời không quên.

Hôm ấy, tôi mặc thường phục đi tuần trên phố. Tôi nhìn thấy một gã thanh niên tóc dài đang bám theo sau một phụ nữ trung niên. Dựa trên trực giác của người cảnh sát, tôi đoán gã kia là một tên trộm. Quả nhiên đúng như sự dự đoán của tôi, ở chỗ rẽ gần siêu thị, hắn ta thò tay vào túi của người phụ nữ. Tôi nhanh chóng xông đến nắm chặt cái tay đang chuẩn bị rụt lại của hắn. Khi tôi rút chiếc còng từ phía sau lưng, thì hắn lùi lại một bước, bất ngờ dùng tay kia đấm thẳng vào mặt tôi, rồi co chân bỏ chạy.

Tôi vừa đuổi vừa kêu: “Bắt trộm, bắt trộm”. Lúc bấy giờ, trên đường phố có rất đông người, nhưng ai nấy đều hốt hoảng tránh ra hai bên, sau đó bàng quan đứng nhìn. Tên trộm chạy mỗi lúc một xa, nhưng chẳng có ai chịu giúp tôi một tay. Đúng lúc tôi bắt đầu nản chí, thì trước mặt tôi xuất hiện một cảnh tượng kịch tính. Từ trong đám đông, một người ăn mày chạy ra, giơ ngang chiếc gậy cản đường tên trộm. Bị tấn công bất ngờ, tên trộm ngã sõng xoài xuống đường. Người ăn mày lại xông đến, ôm chặt lấy chân tên trộm. Tên trộm thấy vậy liền bò dậy, rút dao đâm người ăn mày. Đúng lúc đó, tôi chạy đến, đấm thẳng vào mặt tên trộm.

Người ăn mày được đưa vào bệnh viện. Một lúc sau, bác sỹ từ trong phòng cấp cứu bước ra nhìn tôi, lắc đầu thất vọng. Người ăn mày được đưa ra khỏi vòng cấp cứu, hơi thở anh ra rất yếu ớt. Tôi nắm chặt lấy tay anh ta, nghẹn ngào nói:

– Tôi xin lỗi xin anh.

Người ăn mày mở to mắt, dùng chút sức lực cuối cùng, thều thào nói với tôi:

– Tôi phải cảm ơn anh. Trước đây tôi cứ nghĩ mình sẽ lặng lẽ chết đi giống như một con chó. Chính anh đã giúp tôi có cơ hội để trở thành một người đàn ông thực sự. Tôi cảm thấy mình không sống uổng phí.

Mọi người có mặt ở đó đều rơi nước mắt.

Người ăn mày đã ra đi. Ra đi một cách oanh liệt, ra đi một cách đáng được trân trọng. Trong giây phút cuối cùng, anh đã tìm lại giá trị cho cuộc sống người ăn mày vốn dĩ bị coi là thấp hèn. Anh dùng cái chết để đổi lấy sự thừa nhận của xã hội đối với anh, cùng với sự tôn nghiêm của người đàn ông.

Người ăn mày đã ra đi. Ra đi một cách oanh liệt, ra đi một cách đáng được trân trọng. Trong giây phút cuối cùng, anh đã tìm lại giá trị cho cuộc sống người ăn mày vốn dĩ bị coi là thấp hèn. Anh dùng cái chết để đổi lấy sự thừa nhận của xã hội đối với anh, cùng với sự tôn nghiêm của người đàn ông.

Người ăn mày này đã làm được một việc mà nhiều người khác trong xã hội không làm được đó là đã làm cho cuộc đời của mình trở thành ý nghĩa. 

Nếu chúng ta cũng biết làm tương tự như thế khi chúng ta thấy mình có lỗi với Chúa bằng lòng sám hối ăn năn, chắc chắn Chúa sẽ ban ơn tha thứ và phần thưởng Thiên đàng cho chúng ta. Amen.

Chúng con thân mến,

1. Cha đố chúng con, chúng ta đã bước vào mùa gì của năm Phụng vụ ?

–  Mùa vọng .

– Cha đố thêm Giáo Hội lập ra Mùa Vọng để làm gì?

– Thưa để nhắc cho mọi người về việc Chúa đến.

– Thế cha hỏi Chúa đã đến chưa?

– Chúa đã đến lần thứ nhất, trong ngày Ngài Giáng sinh. Ngài sẽ đến lần thứ hai, trong ngày Ngài Quang lâm. Ngài vẫn đang đến với mỗi người trong cuộc sống mỗi ngày.

– Để gặp được Chúa, Tin Mừng hôm nay dạy mọi người điều gì

– Thưa dạy mọi người “Hãy tỉnh thức”.

– Chúng con rât giỏi. Bây giờ cha giải thich cho chúng con.

1. Thế nào là tỉnh thức

Chúng con hãy nghe câu chuyện này:

Một hôm cũng vào tuần lễ đầu tiên của Mùa Vọng như ngày hôm nay, ngay đầu giờ dạy giáo lý, cha Don Bosco hỏi các em thiếu niên có mặt trong lớp: “Nếu các con đang vui chơi ngoài sân, bất thần Chúa đến và bảo rằng: 10 phút nữa, Chúa sẽ gọi các con về với Chúa, thì các con sẽ làm gì ngay lúc ấy ?” Cả lớp yên lặng suy nghĩ. Cha Bosco gọi em Antonio, em đứng lên ấp úng trả lời: “Dạ thưa cha, con sẽ chạy ngay về nhà để từ giã ba má con, rồi con sẽ quay lại kịp theo Chúa!”

Cha Bosco lại chỉ em Benado, cậu ta vội đáp: “Thưa cha, con sẽ về phân phát hết tủ quần áo của con cho những người ăn mày trong xóm, còn số đồ chơi thì con tặng hết cho lũ trẻ nghèo khổ con cái của họ. Chắc Chúa sẽ hài lòng và ban thưởng cho con nhiều hơn !”

Khi cha gọi đến Camillo, cậu này do dự một chút rồi trả lời, vẻ như vẫn còn bối rối ghê lắm: “Có lẽ con nên vào Nhà Thờ để ngồi cầu nguyện đợi Chúa, thời gian đâu có bao nhiêu, nhỡ Chúa đến sớm hơn một chút thì sao?”

Tới phiên Stephano, cậu trả lời ngắn gọn: “Con sẽ xin cha cho con xưng tội ngay, chắc chắn con sẽ được vào Nước Trời!”

Cả lớp, từng học sinh một đã dần dần trả lời, nhưng dường như Cha Bosco vẫn chưa tỏ vẻ hài lòng, các cậu bé nhìn nhau thắc mắc hết sức. Còn cha thì đi lui đi tới… Chợt như sực nhớ, cha chỉ tay gọi Dominico Savio, cậu đứng dậy khoanh tay nghe cha hỏi lại câu hỏi: “Thế còn phần con, Savio, nếu như con đang nô đùa vui vẻ với bạn bè ngoài sân chơi mà Chúa đột nhiên đến và gọi con về với Người thì con sẽ làm gì trong thời gian 10 phút?”Savio mỉm cười, đơn sơ trả lời: “Thưa cha, con sẽ vẫn tiếp tục vui chơi ạ !” Nghe vừa dứt, Cha Bosco vui mừng chạy tới ôm chầm lấy cậu bé 12 tuổi: “Ôi đúng rồi ! Đó chính là câu trả lời mà cha đã chờ suốt nãy giờ. Savio, con yêu dấu của cha, con thật là xứng đáng ra đón Chúa bất cứ lúc nào trong đời !”

Như vậy là chúng con đã hiểu tỉnh thức là gì. Là luôn ở trong tư thế hành động tích cực nhất.

2. Nhưng tại sao phải tỉnh thức

Trong Tin Mừng hôm nay chúa nói đến sự bất ngờ. Chúa đến thật bất ngờ.

Chúng con biết trước nạn hồng thủy, thiên hạ hầu như không quan tâm tới điều gì, ngay cả việc ông Nô-ê đang nỗ lực đóng một chiếc tàu khổng lồ trước mắt họ. “Thiên hạ vẫn ăn uống, cuới vợ lấy chồng. Tất cả những điều đó thật tự nhiên, bình thường. Chúa Giê-su đã không kể ra một tội nào của họ. Nhưng thiên hạ thời đó đã “không hay biết gì”.. Thiên hạ thời Nô-ê nghĩ rằng mình sẽ bất tử. cho tới khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy”. Lúc đó họ mới bừng tỉnh để thấy rằng: họ không phải là thần là thánh và nếu họ muốn sống, họ cần đến Thiên Chúa nhưng đã quá muôn mất rồi…

Chúa sẽ đến giữa nhân loại, giữa giòng đời một cách bất ngờ, không báo chí, không truyền thanh, truyền hình báo trước. Con Người đến ngay giữa những mối bận tâm khát vọng của loài người, ngay giữa những công ăn việc làm, ngay giữa nơi công sở, ngoài đồng ruộng nương rẫy, ở trong nhà, ở ngoài phố, ở những ngõ sâu hẻm tối hay nơi đô thị nhộn nhịp sa hoa.

Chúa đến. Ngài sẽ quyết định dứt khoát số phận con người. Có những số phận khác biệt nhau giữa những con người đang sống trong cùng một hoàn cảnh tưởng chừng như giống nhau: “Cùng đang làm ruộng, cùng xay bột…” Những ai đã chuẩn bị, đã sẵn sàng thì được “đem đi” có nghĩa là được cứu thoát. Những ai chỉ mải mê với công việc mà không nhìn xa trông rộng để biết thời biết buổi sẽ bị “bỏ lại”. Như người chủ hãng mải mê ngủ sẽ làm cho hãng bị phá sản. Như người trẻ không chuẩn bị tương lai, sẽ phải lãnh trách nhiệm trên đời mình. Như người chẳng bao giờ nhớ đến Chúa, sẽ lỡ hẹn khi Ngài viếng thăm

Chúa sẽ đến bất ưng như kẻ trộm. Sẽ không có đài thủy văn báo trước khi mực nước dâng cao gây nên trận hồng thủy. Sẽ không có chuông điện tử báo động khi kẻ trộm đột nhập vào nhà. Sẽ không có mạng lưới Radar tối tân báo hiệu có hỏa tiễn liên lục địa xâm phạm không phận một quốc gia. Sẽ không có các chỉ số xét nghiệm cho thấy một căn bệnh nan y… Con Người đến hoàn toàn bất ngờ.

3. Vậy phải luôn sẵn sàng.

Sẵn sàng là sống những giây phút hiện tại cho xứng đáng, đó là thái độ sẳng sàng tốt nhất. Ngày xưa có một thầy dòng viết lên trên mặt đồng hồ những dòng chữ sau đây:

“Dĩ vãng đã qua. Tương lai chưa tới, Hiện tại là lúc bạn đang làm chủ. Phút hiện tại ấy thuộc về bạn. Bạn hãy dùng cho hết. Làm điều có đức sẽ được thưởng. Làm điều ác phải chịu phạt. Đó là tất cả những cái gì làm sống lại”.(Toth, Chí khí người thanh niên)

Một ngày trong năm 1780, bóng tối lạ lùng trùm xuống lãnh thổ tiểu bang Connecticut. Mọi người đều nghĩ: Ngày Tận Thế đã đến. Trong phòng họp Quốc Hội có tiếng các đại biểu xin hoãn họp để họ có thể về nhà chờ Chúa đến cùng với người thân.

Vị chủ tọa, đại tá Davenport, phát biểu đôi lời: “Chẳng cần biết đây có phải là ngày phán xét hay không. Nếu không thì việc gì phải hoãn lại. Còn nếu đúng là ngày ấy thì Chúa sẽ thấy tôi đang làm việc bổn phận. Tôi ước mong mọi ngọn nến đều được thắp sáng.” (Drinkwater)

Một tu sĩ sống cuộc đời hạnh phúc và an vui trong bốn bức tường của Tu viện. Đời sống tu trì đã biến đổi cuộc đời và tâm hồn của ông trở nên tốt lành, đến nỗi mọi người đều gọi ông là tiểu thánh.

Ngày nọ, đang lúc ông đang bắt tay vào rửa chén dĩa, thì một Thiên thần hiện ra và nói: “Thiên Chúa sai ta đến là để báo cho ngươi là giờ ngươi lìa đời đã đến”. Tu sĩ vẫn điềm nhiên và vui vẻ trả lời: “Tạ ơn Chúa đã thương nghĩ đến tôi, nhưng như ngài thấy đó, tôi còn phải rửa hàng chồng chén dĩa, tôi không muốn tỏ ra vô ơn với Thiên Chúa, nhưng liệu giờ tôi được hưởng nhan thánh của Người có thể hoãn lại sau khi làm xong bổn phận rửa chén dĩa này không?” Nói xong, Thiên thần biến đi. Tu sĩ trở lại công việc bổn phận một cách hăng say như quên hẳn việc gặp gỡ Thiên thần.

Bẵng đi một thời gian, trong lúc vị tu sĩ đang làm cỏ ngoài vườn, Thiên thần hiện ra. Như đoán trước ý nghĩ của Thiên thần, vị tu sĩ giơ tay chỉ mảnh đất trong vườn và nói: “Đây ngài xem, cỏ dại mọc đẩy vườn, liệu giờ tôi vào cõi đời đời có thể hoãn lại cho đến khi tôi làm xong cỏ không?”. Cũng như lần trước, Thiên thần chỉ mỉm cười rồi biến mất.

Một ngày nọ, trong lúc vị tu sĩ đang chăm sóc các bệnh nhân, thì Thiên thần hiện ra; lần này vị tu sĩ không nói một lời, nhưng chỉ giơ tay chỉ vào các bệnh nhân nằm trên giường. Thiên thần biến đi không nói một lời nào. Chiều đến, vị tu sĩ trở lại căn phòng nhỏ bé đơn sơ của mình, bỗng chốc, ông cảm thấy mình đã già nua, mệt mỏi; ông thốt lên lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin sai Thiên thần Chúa đến, con sẽ sẵn sàng theo Ngài”. Lời cầu nguyện vừa dứt, Thiên thần Chúa hiện đến; vị tu sĩ mừng rỡ: “Lần này, nếu Thiên thần mang tôi đi, tôi sẵn sàng theo ngài về thiên quốc”. Thiên thần nhìn tu sĩ với tất cả âu yếm và nói: “Này vị tiểu thánh, sao còn mơ ước về thiên quốc, những ngày tháng vừa qua, ông nghĩ là mình đã ở đâu vậy?”

Thiếu nhi chúng con yêu quý.

Cha đó chúng con: Hôm nay Giáo Hội cho chúng ta mừng lễ gì nào ?

– Thưa cha lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ.

– Rất đúng

– Thế vua là người như thế nào chúng con, chúng con có biết không ?
1. Đây cha cắt nghĩa cho chúng con.

Sau thế giới đại chiến lần thứ I, chế độ Vua cai trị, thường gọi là chế độ Quân chủ không còn được mấy nước áp dụng tuyệt đối như trước nữa. Chỉ còn lại một ít nước có mấy ông vua bà hoàng như một dấu vết của quá khứ còn lại, nhắc nhớ cho mọi người biết về một thể chế chính trị đã có trước đây như ở Thái Lan, Anh Quốc, Nhật v.v. nhưng thực quyền của họ hầu như không có gì cả. Bởi thế những người trẻ hôm nay, qua sách vở, khó hình dung rõ nét thế nào là một ông vua đúng nghĩa ngày xưa.

Chúng con học lịch sử chúng con thấy trước đây loài người cũng có một số ông vua tài giỏi về đánh giặc hay về việc cai trị. Thế nhưng con số này rất ít, chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Còn ra thì vì họ được cha truyền con nối, cho nên họ trở nên độc tài độc đoán, chỉ biết hưởng thụ cho riêng mình, chẳng quan tâm gì đến sự lầm than đói khổ của dân chúng dưới quyền họ. Lịch sử Trung Hoa còn cho biết, các ông vua còn tự xưng mình là Thiên tử, là con ông Trời, bắt ai chết thì người đó phải chết, cho ai sống thì người đó được sống (Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung). Các vua La Mã thì xưng mình là Thần, ngang với Thượng đế.

Nhìn chung, thì các vua trần gian ích kỷ, dâm ô. Khi họ đã nắm được ngai vàng rồi thì coi mọi người như bầy tôi, giang sơn đất nước như là tài sản riêng. Đời sống của mọi người dân trong đất nước thật tăm tối lầm than và khổ cực.

Chúng con hãy nghe câu chuyện này:

“Đất Vĩnh Châu bên Trung Quốc về thời nhà Đường có giống rắn lạ mình đen vằn trắng, hễ nó chạm vào cây cỏ, cây cỏ chết liền; cắn người, người cũng không thuốc gì chữa nổi, nhưng dùng làm thuốc sát trùng và trị các chứng phong thì rất công hiệu.

Vì thế, nhà vua ra lệnh bắt dân mỗi năm phải hiến cho vua hai con rắn đã dành. Ai làm được như thế thì được trừ thuế ruộng.

Mọi người đều thi nhau bắt rắn. Có gia đình họ Tương đã ba đời hành nghề. Một hôm có người khách sang trọng ghé chơi, hỏi chuyện, người họ Tương than thở :

– Ông nội tôi chết về nghề này, cha tôi cũng chết về nghề này, tôi đây mới làm mười hai năm, đã bị mấy lần suýt chết.

Người khách cảm động nói:

– Nếu vậy, để tôi can thiệp với quan trên cho anh bỏ nghề và cứ nộp thuế ruộng như thường.

Người họ Tương chảy nước mắt đáp lại.

– Ngài có lòng thương, xin đa tạ, nhưng xin miễn can thiệp.

Người khách lấy làm lạ, hỏi lý do, người họ Tương kể lể :

– Nếu tôi không làm nghề này thì khốn khổ đã lâu. Gia đình tôi ba đời ở đây, hơn 60 năm. Dân làng này mỗi ngày một sống điêu linh quẫn bách vì chính sách thuế má, thậm chí không biết bao nhiêu gia đình phải bỏ xóm làng ra đi, và cũng không biết bao nhiêu kẻ chết đường chết chợ, những người trạc ông nội tôi thì mười không còn một, còn trạc tuổi cha tôi thì còn độ hai ba, và còn trạc tuổi tôi thì còn độ bốn, năm vì không chết cũng bị lưu lạc. Tôi nhờ làm nghề bắt rắn mà còn.

Các quan lại hạt này về làm thuế làng tôi đâu có rõ, họ sục hết đầu làng cuối xóm, vơ vét cả con gà con chó, thượng vàng hạ cám, không tha thứ gì. Ai nấy đều sợ, còn hơn sợ rắn. Trong lúc ấy, về phần tôi, tôi được yên, cứ thấy trong giỏ còn rắn là tôi vững bụng không sợ đói, không lo mất giấc ngủ.

Ngài thấy không tôi làm nghề này một năm chỉ sợ chết hai lần, chớ đâu đến nỗi người làng tôi hết ngày này sang ngày khác, lúc nào cũng bị khốn khổ quan lại tàn ác. Giá tôi bị chết vì rắn, thì so với kẻ xung quanh, vẫn thấy còn thọ hơn. Như thế, tôi không dám xin vì lẽ rắn độc được.

2. Còn Chúa Giêsu là vua thì sao ?

Qua bài Tin Mừng vắn vỏi chúng ta vừa nghe hôm nay, thánh sử Luca đã cho mọi người thấy hình ảnh về một Vua Giêsu thật khác lạ, không giống với bất cứ ông vua nào trên trần thế từ trước đến hôm nay. Chúa Giêsu thật hiền lành và đầy lòng yêu thương.

Đây là Lời của thánh Luca: “Sau khi đóng đinh Ðức Giêsu vào thập giá:

dân chúng thì đứng nhìn,

các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo

Lính tráng cũng chế giễu Người.

Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người.

Không có một chút cảm thông, không một lời an ủi.

Vậy mà Chúa, Chúa đã làm gì chúng con biết không. Cha thấy Chúa dư sức, đủ uy quyền để trừng phạt đám dân độc ác này, thế nhưng Chúa đã không làm mà ngược lại Chúa còn cầu xin Chúa Cha tha cho họ: Lạy Cha xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm” . Sao Chúa hiền quá như vậy.

Thêm vào đó, tên gian phi cùng chịu đóng đinh bên cạnh Chúa, khi hắn cầu xin Chúa, Chúa đã thưởng cả nước Thiên đàng cho hắn. Thật không thể tưởng tượng nổi. “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Ðàng.” Cha hỏi chúng con có ông vua nào trên trần thế đối xử được như thế không ? Thật tình thương của Chúa cao cả lớn lao quá.

Chúng ta hãy bắt chước Chúa sống hiền lành yêu thương như vậy để được xứng đáng là công dân trong Nước của Chúa.

Chúng con hãy nghe câu chuyện này: “Lúc còn là linh mục trẻ, cha thánh Gioan Bosco thường hay ra vào trại cải huấn thăm viếng các chú bé bị giam. Ngày kia, ngài đến gặp ban giám thị trại và đề nghị:

– Tôi xin ban Giám thị cho tôi đưa các em đi cắm trại ngoài trời một ngày để chúng được tự do thoải mái đôi chút.

Cả ban giám thị nhìn nhau ngơ ngác. Xưa nay có ai lại đề nghị như thế bao giờ đâu! Lỡ ra mấy trăm tù nhân nhóc ấy bỏ chạy tán loạn thì chết cả lũ!

– Không được đâu cha ạ! Tụi nó trốn hết.

– Xin các ông cứ tin tưởng nơi tôi. Tôi sẽ dẫn đi trong trật tự và trả về đủ số, không thiếu một người

– Thiếu thì sao ?

– Tôi sẽ ở tù thay. Mà chắc không thiếu đâu. Trái lại, tôi hy vọng sau khi trở về chúng sẽ tử tế hơn, các ông điều khiển càng dễ…

– Xin lỗi cha, nếu không quen gặp cha năng ra vào trai mấy năm qua, chúng tôi tưởng cha là một người điên, hoặc mát mát tốc tốc làm sao ấy. Nguy hiểm lắm cha à!

Cha Bosco cứ dai dẳng năn nỉ một hồi, ban Quản đốc đồng ý nhưng với một điều kiện: sẽ có một đội lính đi bọc hai bên. Cha Bosco không chấp nhận điều kiện, cương quyết chỉ có mình ngài dẫn đi. Sau hết họ siêu lòng, đánh bạo cho phép.

Rồi chủ nhật được trù định đã đến. Cha Bosco sắp các tù nhân thành đội, mỗi đội có đội trưởng phụ trách. Cửa tù mở rộng. Các tù nhân hớn hở ra đi. Vượt khỏi thành phố Turinô họ đến một khu rừng mát mẻ, soạn lều cắm trại, dọn bếp nấu ăn, thi đua thể thao, hát hò văn nghệ thỏa thích … Thật là một khung cảnh ngoạn ngục! Cha Bosco lăng xăng giữa họ đùa chơi, chuyện trò hoặc khuyên bảo.

Trời càng về chiều Ban giám thị càng hồi hộp nhìn đồng hồ, mặt mày tái mét bảo nhau:

– Dại dột quá! Không chừng chết cả lũ.

Bỗng nghe tiếng đàn hát từ xa vọng lại. Họ thở phào nhẹ nhõm. Cửa tù lại mở rộng. Các tù nhân theo hàng ngũ tiến vào. Ban giám thị giở sổ điểm danh: không thiếu một mống!

Mấy ngày sau, Ban giám thị mở cuộc điều tra. Tất cả tù nhân trẻ đều trả lời:

– Cha Bosco yêu thương chúng tôi. Chúng tôi yêu thương cha Bosco. Bởi thế, nhiều lần chúng tôi muốn đào tẩu, nhưng nhìn ngài, chúng tôi không thể nào nhẫn tâm được!

Gặp lại cha Bosco, ban giám thị bắt tay ngài và nói:

– Cha làm chúng tôi một phen hú vía! Nhưng chúng tôi hết sức cảm phục cha. Cha đã trao quả tim cho họ và chinh phục trái tim họ về với cha. Chứ chúng tôi đây, với mấy vọng gác, hàng rào, khoá sắt, chó béc-giê, bóng đèn sáng, trăm người lính gác…vậy mà tháng nào cũng có đứa thoát”

Lạy Chúa xin cho mọi người chúng con biết sống giống như Chúa.

Thiếu nhi chúng con yêu quý,

Hôm là lễ ngày kính ai vậy chúng con ?

– Dạ thưa lễ kính Các thánh Tử đạo tại VN.

+ Rất đúng. Các thánh TĐ tại VN là những ai vậy chúng con?

– Là những người Việt Nam, những nhà truyền giáo ngoại quốc chết vì Đạo tại VN. Các ngài là tổ tiên của chúng ta.

+ Việc các ngài chết như vậy đã lâu chưa ?

– Chưa! Mới cách đây khoảng 300 năm.

+ 300 năm với cả mấy trăm ngàn người đã dám chết vì Đạo như thế. Thật là một biến cố hết sức lạ lùng! Vậy cha hỏi chúng con, khi mừng kính các thánh Tử Đạo tại VN, chúng ta phải có những tâm tình nào? Cha thấy có nhiều tâm tình lắm nhưng đối với cha cha thích ba tâm tình này.

1. Tâm tình thứ nhất đó là tự hào.

Chúng ta tự hào 3 lý do:

– Trước hết vì các thánh là người đã chết trên đất nước Việt Nam thân yêu này của chúng ta. Tertulianô sử gia của La Mã thuở xưa đã nói: “Hạt máu của những vị tử đạo là hạt giống nảy sinh ra những người Kitô hữu khác”

Thứ đến là vì con số lượng lớn lao đông đảo các Thánh tại VN của chúng ta đã có mặt trong Lịch sử của Giáo Hội. Với 118 vị đã được Giáo Hội phong lên hàng hiển thánh, Giáo Hội VN được xếp nhất nhì trong sổ bộ các thánh đã được Giáo Hội tuyên phong.

– Và cuối cùng tự hào vì các Ngài là những chứng nhân anh hùng quả cảm cho lòng tin vào Thiên Chúa.

Đọc lại tiểu sử các Ngài ta không khỏi không cảm phục về đức tin kiên cường của các Ngài.

Lịch sử còn ghi lại những hình phạt mà con người đã nghĩ ra và đã dùng để trừng phạt những người theo đạo như sau:

  – Nhẹ nhất là bị gông cùm. Bị xiềng xích, bị nhốt trong cũi, bị đánh đòn, bị bỏ đói cho tới chết.

  – Nặng hơn một chút thì bị voi dày, bị trói rồi bị ném xuống sông, bị chôn sống, bị đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng cho đến chết.

  – Quyết liệt hơn một chút thì bị xử trảm, xử giảo (= bị thắt cổ) và thiêu sống.

  – Ác liệt nhất là bị xử lăng trì (phân thây ra từng mảnh) hay bá đao ( bị xẻo đi từng mảnh thịt cho tới chết)

Chúng con yêu quý.

Nhìn lại cái chết của các thánh Tử Đạo VN, chúng ta thấy gian khổ có cao, hình phạt có nặng nhưng lòng trung thành của các Ngài còn còn cao hơn. Cái chết của các Ngài thật đáng làm cho chúng ta phải tự hào. Trong sắc phong chân phước cho 64 anh hùng tử đạo VN ngày 27-5-1900 Chính Đức Thánh Cha Léo XIII đã nói về các Ngài với tất cả lòng khâm phục như sau: “Đây là những chiến sĩ trung liệt và kiên cường không kém gì những chiến sĩ ngày xưa vào những thế kỷ khai nguyên của Giáo Hội Chúa Kitô”.

Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô đệ II trong bài giảng ngày lễ tôn phong 117 vị anh hùng tử đạo Việt Nam lên hàng hiển thánh cũng phát biểu tương tự như thế. Ngài nói: “Từ năm 1533 tức là từ khi cuộc rao giảng Tin Mừng Kitô bắt đầu tại vùng Đông Nam Á, Giáo Hội Việt Nam trong suốt 3 thế kỷ đã phải chịu những cuộc bách hại liên tiếp nhau với một vài giai đoạn lắng dịu giống như các cuộc bách hại mà Giáo Hội tại Tây Phương đã chịu trong 3 thế kỷ đầu tiên. Đã có hàng ngàn tín hữu Kitô chịu tử đạo và rất nhiều người khác đã chết trong rừng núi, những vùng ma thiêng nước độc, nơi mà họ bị lưu đày tới”.

2. Tâm tình thứ hai: Biết ơn.

Việc mừng lễ hôm nay làm cha nhớ lại những lời rất cảm động sau đây của Chúa Giêsu: “Kẻ gieo người gặt đều vui mừng. Kẻ này gieo, người kia gặt. Thầy sai các con đi gặt những gì chúng con không vất vả làm ra. Những kẻ khác đã khó nhọc, còn các con thừa hưởng công lao khó nhọc của họ ” (Jn 4,36-37).

Sử gia Tertulianô ngày xưa khi nhìn lại những năm trời Giáo hội bị bách hại và những cuộc trở lại đạo hàng loạt sau đó, ông đã phải viết lên những lời rất rất đáng cho chúng ta suy nghĩ như thế này: “Những hạt máu của những vị tử đạo là những hạt giống làm nảy sinh ra những người Kitô hữu khác”

Chúng ta phải tạ ơn Chúa vì Chúa đã cho chúng ta có được những con người anh hùng như thế. Đồng thời chúng ta cũng phải biết ơn các Ngài vì  chính nhớ các Ngài mà hạt giống Đức tin đã nảy mầm và lớn lên trong chúng ta và trên đất nước thân yêu của chúng ta.

3. Tâm tình  thứ 3 là bổn phận phải sống làm sao cho xứng đáng với đáng với danh nghĩa con cháu của những anh hùng.

Châm ngôn VN có câu rất hay: “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”

Phải sống xứng đáng để những thế hệ mai sau khi nhìn vào chúng ta, họ cũng cảm thấy tự hào.

Năm 1934 khi nhắn nhủ một số các em nhỏ đến mừng sinh nhật của mình, nhà bác học nổi danh nhất của thế kỷ thứ 20, Albert Einstein đã nói với các cháu những lời cảm động như sau: “Các cháu nên nhờ rằng những điều kỳ diệu các cháu được học  ở trường là do công lao của biết bao thế hệ trên khắp thế giới đã hăng hái gắng sức và cặm cụi làm việc không ngừng, rồi truyền lại cho các cháu như một di sản để cho các cháu tiếp nhận, tôn trọng, tăng gia thêm và một ngày nào đó các cháu sẽ lại trung thành truyền lại cho con cháu các cháu. Nhờ vậy mà chúng ta, những con người hữu sinh hữu tử mới thành bất tử trong những vật trường tồn mà chúng ta cùng chung sức làm ra”.

Chúng ta đang thừa hưởng một di sản vô cùng quý giá do Cha Ông chúng ta để lại. Cách trả ơn tốt nhất đối với các Ngài là tiếp nhận và trung thành truyền lại cho các thế hệ mai sau.

Nhưng truyền lại bằng cách nào?

– Thưa bằng chính cuộc sống mà tổ tiên của chúng ta đã sống.

Văn hào Tagore khi bàn về cái chết của Thánh Gandhi, đã nói: “Có lẽ thánh Gandhi không thành công, có lẽ thánh sẽ thất bại như Đức Thích Ca đã thất bại, như Đức Giêsu đã thất bại vì chưa hủy diệt được lòng ác độc của loài người. Nhưng loài người luôn nhớ tới Thánh vì thánh đã đem đời mình ra để làm bài học cho muôn thế hệ mai sau”

a- Bài học đầu tiên mà mỗi người chúng ta phải noi gương bắt chước đó là trung thành với niềm tin.

Đức tin là ơn nhưng không Thiên Chúa ban cho chúng ta.

Hãy bảo vệ lấy, đừng để cho nó bị hao mòn đi.

Phaolô Mợi bị bắt, bị giải đến quan.

Quan dụ:

– Anh đạp ảnh đi, tôi sẽ cho anh một nén bạc.

Phaolô Mợi im lặng không trả lời.

– Vậy một nén vàng!

– Bẩm quan chưa đủ.

– Vậy anh muốn bao nhiêu?

– Bẩm quan lớn, quan lớn muốn cho tôi quá khóa thì quan phải cho tôi đủ vàng để  mua được một linh hồn khác.

Nguyễn văn Lựu: “Đạo đã nhập vào xương tủy tôi, làm sao tôi có thể bỏ được”.

b- Bài học thứ hai phải can đảm sống niềm tin đó.

Victor Hugo: “Đồi Calvario ở đầu đường và hào quang cũng  xuất hiện ở đó”.

Chúa Giêsu :” Nước Trời phải dùng sức mạnh mà chiếm lấy”.

Không có chiến thắng cho những kẻ chưa lâm trận đã đầu hàng.

Không có vinh quang cho những kẻ hèn nhát.

Phần thưởng càng lớn, vinh quang càng cao thì cái giá phải trả cho nó càng đắt.

Phải sử dụng sức mạnh mới chiếm hữu được Nước Trời.

Lời cuối cùng của cha. Cha xin mượn lời của Thánh Phaolô gửi cho tín hữu Roma. Ngài gửi những lời này cho họ vào lúc cơn bắt bớ đạo giáo tại đó bắt đầu trở thành khốc liệt. Ngài muốn dùng những lời này để khích lệ họ, để họ can đảm, để họ tin tưởng vào chiến thắng cuối cùng: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian  gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bỏ, gươm giáo?

Ngài nói tiếp như một xác tín: Trong mọi thử thách, chúng ta sẽ toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” Và Ngài kết luận: “Tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, chiều dài hay vực thẳm hay bất cứ một loài thụ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện nơi Đức Kitô Chúa chúng ta.”(Rom 8,35-39).Amen.

Chúng con thân mến,

Chúng ta đang ở trong tháng 11. Tháng 11 là tháng chúng ta đặc biệt nhớ đến sự chết. Nhớ đến sự chết là chúng ta nhớ đến các thánh đã chiến thắng về trời mà chúng ta đã mừng kính mấy hôm nay; và nhớ đến sự chết là chúng ta nhớ đến các linh hồn trong luyện ngục mà chúng ta có bổn phải cầu nguyện cho các ngài đặc biệt trong tháng này. Một cách đặc biệt khi tưởng nhớ tới các ngài là Giáo Hội muốn chúng ta nhớ đến mỗi người chúng ta.

1. Cha hỏi chúng con Giáo Hội muốn chúng ta nhớ đến cái gì?

Thưa nhớ đến một ngày nào đó chúng ta sẽ phải chết như các ngài.

Hãy nhớ rằng cuộc sống này là cuộc sống có cùng có tận. Và đàng sau cuộc sống này sự sống vẫn tiếp tục.

Bằng một câu chuyện rất đễ hiểu trong Tin Mừng của thánh Luca, câu chuyện về người phú hộ giầu có và Lagiarô khó nghèo, Chúa đã muốn bảo cho chúng ta rằng đàng sau cuộc sống này sự sống vẫn tồn tại. Sự tồn tại này chúng ta gọi là cuộc sống mai sau, cuộc sống đời đời.

Đây là cuộc sống có thật, thế nhưng nhiều người không tin.

Chẳng hạn như trong bài Tin Mừng hôm nay

Cha không có nhiều thời gian để cắt nghĩa dài dòng. Cha chỉ xin nói thật vắn tắt.

Người Saduceo thuộc dòng tộc Sadoc là những người có chức vị cao trong hàng tư tế. Nhưng kỳ lạ là họ không tin có thiên thần, không tin có linh hồn bất tử, không tin có trừng phạt và vì thế mà họ không tin có sự sống lại, không tin có đời sau.

Họ muốn tỏ ra cho mọi người biết là niềm tin của họ như vậy là có bằng chứng, có lý nên một hôm họ “phịa” tức là bày ra một câu truyện để thử Chúa. Câu chuyện của họ thế này:

Có 7 anh em trai. Anh cả cưới vợ –  rồi chết. Theo luật người thứ hai phải lầy người chị dâu goá của mình để nỗi giõi tông đường.

Người thứ 2 lấy chị dâu góa đó.

Rồi người thứ  2 cũng chết.

Người thứ 3 phải lấy bà chị góa góa của hai anh mình.

Người thứ 3 chết.

Người thứ 4 phải lấy người chị góa góa góa của 3 anh mình .

Người thứ 4 chết.

Người thứ 5 phải lấy bà chị góa góa góa góa của 4 anh mình.

Cứ như thế…

Đây là một trường hợp khó có thể tìm thấy được trong hoàn cảnh thực tế của cuộc sống, thế nhưng về lý thì hoàn toàn có thể xảy ra.

Chúa Giải Quyết Cách Nào?

a Trước hết Chúa xác định: “Con cái ở đời này thì cưới vợ lấy chồng – Còn ai đáng huởng đời sau và sự sống lại từ cõi chết thì sẽ không cưới vợ lấy chồng bởi họ sẽ trở nên giống như các thiên thần và nên con cái của Thiên Chúa”

b.  Và Chúa còn nói

– Sự sống mai sau là linh thiêng: Giống như các thiên thần.

– Sự sống đời này vắn vỏi nên cần sự truyền sinh. Còn cuộc sống mai sau là vĩnh cửu cho nên không cần sự truyền sinh nữa.

– Thiên Chúa là Chúa của người sống chứ không phải là Thiên Chúa của người chết.

c. Sách Thánh cũng chứng minh đều đó. Moise đã gọi Chúa là Thiên Chúa của các tổ phụ và việc không tin có đời sau là xỉ nhục các ngài và việc tế lễ của họ sẽ là thừa.

2. Đâu là thái độ của chúng ta?

Có nhiều người bi quan, bi quan đến mức độ muốn đầu hàng cái chết. Từ thái độ đó người ta bị dẫn đến một thái độ khác đó là người ta cho cuộc đời này là phi lý. Dù có sống như thế nào đi nữa rồi cũng kết cùng rồi cũng phải chết. Cuộc sống trở thành một thực tại phi lý hơn bất cứ một thực tại nào khác ở cõi đời này. Kết quả là một cuộc sống buông thả, muốn ra sao thì ra.

Đây quả là một thái độ nguy hiểm. Và chắc chắn đó không phải là thái độ của những người tin. Sống cuộc đời buông thả không những không thể đạt đến hạnh phúc đời đời như lời thánh Phaolô cảnh cáo mà ngay tại đời này cuộc sống như thế cũng đáng bị lên án một cách nặng lời.

b. Có người lại có thái độ khác. Họ dửng dưng trước sự chết. Họ không muốn nhìn vào sự chết như là một sự thật. Họ thản nhiên để cho cuộc đời của họ chìm sâu vào sự tận hưởng những giây phút của hiện tại mà không cần biết đến tương lai.

Đây cũng không phải là thái độ của những người tin như chúng ta.

Trên mộ của một người giầu có người ta đọc thấy một câu như thế này: “Đây là mộ của một người dại dột đã sống mà không biết tại sao mình sống”

Một trong những câu chuyện hay người ta thường kể để răn dạy người đời là câu chuyện ông vua giầu có với chú hề. Truyện như thế này: “Có một ông vua kia sống một cuộc đời giầu sang phú quí. Ông sống như là không hề biết đến tương lai. Ông cũng chẳng màng đến thế giới mai sau. Trong hoàng cung có một chú hề chuyên giúp vui cho ông mỗi khi ông cần tới. Theo nhà vua thì tên hề này là một người biết đem lại niềm vui cho những người khác nhưng lại là một người rất ngu đần. Một ngày kia không hiểu vì tức giận với anh ta truyện gì mà nhà vua cho gọi anh hề tới rồi trao cho anh ta một cây gậy gọi là thanh trượng quyền của nhà vua và nói với anh ta: “Ngươi hãy đi tìm cho ta một người ngu hơn ngươi – trao cây gậy này cho nó, rồi ta sẽ trọng thưởng cho ngươi.” Chú hề nhận cây gậy và cố gắng đi tìm nhưng tìm mãi cũng không ra.

Thời gian qua đi. Tuổi già đến lúc nào nhà vua cũng không biết. Đến khi lực đã cạn, sức đã kiệt ông cảm thấy ngày ông gần đất xa trời không còn bao xa, ông cho gọi chú hề đến và tâm sự với anh ta:

* Trẫm sắp sửa đi một chuyến đi thật xa.

– Dạ thưa Đức Vua đi tới đâu cơ ạ.

* Ta cũng không biết nữa.

– Dạ thưa đi như vậy rồi bao giờ Đức Vua trở về?

* Không bao giờ , không  bao giờ con ạ.

Anh hề là một người ngu nhưng trong trường hợp này anh lại có một phán đoán rất chính xác. Anh nhẹ nhàng đặt cây gậy mà trước kia nhà vua đã trao cho anh vào ngay bàn tay Đức Vua rồi thinh lặng bước ra, lòng cảm thấy nhẹ nhàng và vui sướng vì đã tìm thấy được một người còn ngu hơn mình mà người đó lại là chính ông vua trước kia đã tự hào là mình thông minh hơn anh gấp trăm gấp vạn lần anh ta.

c. Vậy thì dâu là thái độ của chúng ta. Đây là thái độ mà chính Chúa Giêsu đã dậy: Hãy tỉnh thức.

Chúng ta không đầu hàng sự chết. Chúng ta không lẩn trốn sự chết, coi nó như không có trong cuộc đời, nhưng chúng ta can đảm đối diện với nó bằng tất cả lòng tin yêu và phó thác của chúng ta nơi Tình yêu của Thiên Chúa để cố gắng sống một cuộc đời xứng đáng như lòng Chúa mong ước để mao sua khi kết thúc cuộc đòi chúng ta được đời đời với Chúa trong nước Trời.

Một ông cụ già đã sống đến 82 tuổi, đến khi thấy mình không còn sống thêm được bao lâu nữa, cụ dặn các con cháu hãy khắc vào tấm bia trên ngôi mộ mình một hàng chữ:

NƠI ĐÂY AN NGHỈ MỘT CỤ GIÀ VỪA TRÒN 80 CỘNG VỚI 2 TUỔI ĐỜI THẬT SỰ!

Ai cũng thắc mắc vì sao lại ghi lạ lùng như thế, cụ mới thuật lại rằng:

– Tôi đã trải qua cả một cuộc đời dài suốt 80 nằm hoàn toàn xa rời, thậm chí ngược hắn với nếp sống Tin Mùng mà Thiên Chúa đã mời gọi.

Bây giờ thì tuổi già đã tràn đến như sóng thủy triều, tôi đã sức tàn lực kiệt, phải ngồi một chỗ, cũng may mà đầu ốc tôi còn khá minh mẫn để đơn độc một mình hồi tương về dĩ vãng. Và vào một hôm cách đây hơn 2 năm, tôi đã có cơ may trở về với chính mình và nghiêm túc tự hỏi: Mình đã từ đâu mà đến trong cuộc đời trần gian này? Rồi mai đây mình sẽ đi về đâu? Những điều tôi đã làm được trong cả đời sẽ còn lại gì khi tôi nhắm mắt xuôi tay?

Và thế là từng ngày lặng lẽ trôi qua, đời sống của tôi như khúc phim chiếu chậm đã từ từ hiện ra trang trí nhớ già nua bằng tất cả sự thật của nó.

Tôi nhận ra rằng tôi đã phí phạm cả đời mình. Nó chỉ còn để lại cho tôi những lỗi lầm với Thiên Chúa và với vợ con, với mọi người chung quanh. Chính những suy nghĩ này đã đánh động lòng tôi và giúp tôi kịp thời quay về với nếp sống gần gũi với Tin Mừng, một nếp sống chọn lấy niềm Tin, Cậy, Mến đối với Thiên Chúa làm kim chỉ nam và tình yêu thương chân thành đối với tha nhân làm hơi thở.

Và với tâm tình như thế tôi đã sống đến hôm nay được hơn 2 năm. Tôi vui mừng thật sự bời vì 2 năm ấy chính là 2 năm tôi đã sống trọn vẹn cho Nước Trời. Amen.

Thiếu nhi chúng con yêu quí,

Cha Tiến Lộc có một bài hát mà cha rất thích và cha nghĩ cũng có rất nhiều người thích: Đó là bài hát “Gặp gỡ Đức Kitô”, Chúng con biết không?

– Thưa cha, chúng con biết.

Vậy chúng ta cùng hát nào:

Gặp gỡ Đức Kitô.

Biến đổi cuộc đời mình.

Gặp gỡ Đức Kitô,

đón nhận ơn tái sinh,

Gặp gỡ Đức Kitô.

Chân thành mình gặp mình,

Gặp gỡ Đức Kitô

Nảy sinh tình đệ huynh.

Chúng con hát rất hay cha khen chúng con.

1. Gặp gỡ Chúa, biến đổi cuộc đời mình.

Ông Giakêu là người như thế nào thì Tin Mừng đã cho chúng ta biết. Ông là người thu thuế và là một người thu thuế rất giầu có. Ông bị mọi người ghét bỏ. Lý do tại sao thì có lẽ nhiều người cũng biết. Nhưng sau khi được gặp Chúa, ông đã trở nên một con người hoàn toàn. Ông đã được biến đổi trở nên một con người mới.

Ernest Gordon cô viết cuốn sách nhan đề “Ngang qua thung lũng sông Wai”, trong đó ông mô tả chuyện thật xảy ra tại trại tù binh Nhật dọc bờ sông Wai trong thế chiến thứ hai. Tại đây 12 ngàn tù binh chết vì bệnh tật và vì bị đối xử tàn nhẫn trong khi họ phải xây dựng một tuyến đường xe lửa. Họ làm việc cực nhọc dưới nắng nóng gần 50 độ, đầu trần, chân đất, quần áo tả tơi!…

Nhưng điều đau khổ nhất không phải do lao động mà do họ cư xử xấu với nhau. Họ chỉ điểm nhau, trộm cắp của nhau, đánh đập chửi, mắng nhiếc nhau như cơm bữa!….

Thế rồi một điều khó tin đã xảy ra. Hai tù nhân nọ tổ chức học hỏi Kinh Thánh với các tù nhân khác. Nhờ đó họ khám phá Chúa Giêsu đang sống giữa họ, thông cảm với họ, vì Người đã từng chịu đói khát, phản bội, đòn vọt đến chết và chết treo trên khổ giá. Từ đó họ không còn chỉ điểm nhau, thù ghét nhau. Họ hoán cải rõ rệt và bắt đầu cầu nguyện cho nhau. Cả trại biến đổi lạ thường. Không còn tiếng than van oán trách mà chỉ còn lời ca tiếng hát vui vẻ, mặc dầu vẫn phải lao lực cực khổ hằng ngày. Một sự khác biệt giống như cái chết biến hình cuộc sống vậy.

2. Gặp gỡ Đức Kitô, đón nhận ơn tái sinh.

Sau khi được gặp Chúa, thấy được tình thương của Chúa đối với mìnnh, Giakêu đã được thay đổi hoàn toàn. Chính Chúa Giêsu cũng đã xác định điều đó: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham.”(Lc 19,10)

Sở dĩ Giakêu được Chúa thương như thế là vì Giakêu đã thấy được quá khứ những lỗi lầm của mình và quyết tâm sửa lại. Từ nay ông đã biết đối sử tốt với mọi người. Lòng tốt của ông làm Chúa cảm động.

Mátcô đi học về. Chợt cậu thấy trước mặt một học sinh cũng trạc tuổi cậu vấp phải một hòn đá, ngã xấp mặt xuống đất, làm tập sách và dụng cụ rơi tung tóe trên đường. Mátcô vội vàng chạy đến giúp và được biết người đó tên là Bin cũng từ trường về. Từ đó hai anh em bắt đầu quen nhau và trò chuyện với nhau thật vui vẻ. Bill tới nhà trước, nên mời Mátcô vào uống nước và tiếp tục câu chuyện. Hai người trở thành bạn thân. Bốn năm sau, trước ngày ra trương Bill mới tâm sự với Mátcô:

– Anh còn nhớ lần đầu tiên chúng ta gặp nhau không? Hôm đó trên đường về, anh thấy tôi ôm nhiều sách vở và dụng cụ học. Anh có biết tại sao không? Vì hôm đó tôi đã quyết định đem hết sách vỡ vật dụng về nhà, rồi tôi uống thuốc tự tử. Nhưng thấy cử chỉ anh tận tình của anh. Anh đã giúp đỡ và đối xử với tôi thật tử tế, nên tôi đã bỏ ý định đó. Tôi được sống đến ngày nay và học thành tài là nhờ công ơn anh. Anh đã cứu sống tôi, giúp tôi tìm lại được ý nghĩa cuộc đời và niềm vui sống. Tôi chân thành cám ơn anh. Hai người trở nên như ruột thịt với nhau suốt đời.

3. Gặp gỡ Đức Kitô, nảy sinh tình đệ huynh.

Từ lúc gặp Đức Giêsu, Giakêu thấy mình phải thay đổi cách sống. Ông đã chuộc lại những lỗi lầm, đền bù những bất công đã gây ra trong quá khứ. “Tôi xin lấy phân nửa tài sản của tôi mà cho người nghèo; và nếu tôi đã lường gạt ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”.

Nhà văn Pháp St EXUPEY trong Terre des hommes đã viết rất hay: “Chúng ta sống thật là khi nào chúng ta được cột chặt lại với anh em trong một mục đích chung, không riêng cho người nào cả, và kinh nghiệm cho thấy rằng: yêu thương không phải là nhìn nhau, nhưng là cùng nhìn về một hướng. Chỉ là bạn khi nào mình đã cùng sống với nhau trong một toán, nối với nhau theo một đoạn dây, cùng leo chung lên một đỉnh núi, và khi lên đến đó chúng ta lại gặp nhau”.

Thi hào LAMARTINE người Pháp cũng để lại một câu chuyện rất hay:

Ngày xưa, tại một vùng nông thôn giáp kinh đô Giê-ru-sa-lem nước Do-Thái, có hai anh em trai cùng làm ruộng chung trên một thửa đất nhỏ. Người anh về sau đã lập gia đình và con cái ngày một đông, trong khi đó người em vẫn sống độc thân. Thế nhưng cả hi vẫn giữ đúng lời di chúc của cha mẹ, đó là luôn sống bên nhau, cùng ra sức cày cấy trên mảnh ruộng nhà. Tới vụ mùa, họ thu gặt rồi bó những bó lúa thành hai đống bằng nhau, rồi cứ thế để nguyên trên bờ ruộng…

Một năm, gặp cơn mất mùa đói kém, lúa thu về giảm hẳn đi nhưng cả hai vẫn chia đều nhau một cách vô tư. Đến đêm, người em trằn trọc mãi không ngủ được, cậu nghĩ:

– Tội nghiệp ông anh mình phải vất vả. Một tay phải nuôi vợ nuôi con năm sáu miệng ăn, nếu phần thóc lúa thu hoạch của mình mà cũng bằng ngang với phần của anh ấy thì không công bằng chút nào. Vậy mình hãy bí mật ra đồng lấy chục bó lúa trong đống của mình mà bỏ thêm sang cho đống của anh ấy. Anh ấy có lẽ không để ý và không nhận ra đâu!”

Đoạn anh trở dậy, thực hiện ngay ý định dễ thương này..

Cũng đêm hôm ấy, ở gian nhà bên cạnh, người anh cũng trăn trở mãi không ngủ được, anh đánh thức vợ dậy để bàn bạc:

– Mình xem, em trai tôi, chú ấy còn trẻ, lại cứ sống cô độc không có ai giúp đỡ trong công việc nặng nhọc hoặc an ủi chăm sóc chú ấy những khi trái gió trở trời. Cùng làm chung thửa ruộng với chú ấy, mà chúng mình lại cũng nhận số lúa bằng với chú ấy thì coi không được chút nào! Mình nghĩ sao? Hay là tiện dịp đêm nay tối trời không có trăng, để tôi lén ra ruộng, chia thêm độ chục bó lúa phần chúng mình sang cho đống của chú ấy…” Người vợ nhân hậu đồng ý và người anh thực hiện ngay như dự tính…

Ngày hôm sau, cả hai anh em cùng ra đồng thì đều ngạc nhiên thấy hai đống lúa của họ sao lại vẫn cứ bằng nhau y như trước, không thay đổi suy suyển gì như dụng ý của họ. Trong thâm tâm cả hai đều thầm nhủ: đúng là do mình đã quá dè xẻn ích kỷ, chuyển số lúa ít quá, chẳng đáng bao nhiêu!

Thế là đến khuya, người em lại trở dậy, bí mật ra ruộng bỏ số bó lúa nhiều gấp đôi hôm trước sang cho anh. Đến rạng sáng thì người anh cũng nhẹ bước rời nhà ra đồng bỏ số lúa nhiều gấp đôi sang cho em…

Sáng hôm sau, một lần nữa, cả hai lại kinh ngạc vì hai đống lúa vẫn cứ y nguyên như cũ. Họ tự giận mình mà làm đi làm lại như thế mấy đêm liền, nhưng vì người này mang bỏ vào đống của người kia số bó lúa xấp xỉ như nhau, nên hai đống lúa vẫn cứ bằng nhau!

Cuối cùng, một đêm nọ, hai anh em cùng chạm mặt nhau trên bờ ruộng, bắt gặp người này đang lấy lúa mình mà bỏ thêm cho người kia. Họ chưng hửng và chợt hiểu ra tất cả. Họ xúc động ôm chầm lấy nhau, nghẹn ngào trong nước mắt. Từ đó, hai anh em quyết định nhập chung số lúa lại để dùng chung cho cả hai nhà trong thuận hòa hạnh phúc còn hơn cả những ngày trước đó…

Đẹp quá phải không chúng con?

Thiếu nhi chúng con yêu quí,

Chúng con vừa nghe một câu chuyện thật hay. Câu chuyện có liên quan đến hai người. Hai người này là những người rất quen thuộc trong xã hội Do thái thời Chúa Giêsu. Đó là một người Biệt phái thuộc giai cấp lãnh đạo xã hội lúc đó. Và một người thu thuế, bị liệt vào hạng những người bị ghét bỏ nhất thời bấy giờ.

Cha hỏi chúng con: Qua câu chuyện hôm nay chúng ta học được bài học gì nào?

– Thưa cha bài học về lòng khiêm nhường.

– Bài học về sự kiêu ngạo.

– Bài học về việc sống tôn trọng mọi người.

Cám ơn chúng con! Chúng con trả lời rất hay. Riêng cha qua câu chuyện hôm nay, cha có thể rút ra được mấy bài học rất cần cho cuộc sống của cha.

1. Bài học đầu tiên: Chúa không thích những ai kiêu ngạo tôn mình lên.

Trong câu chuyện vừa nghe chúng con thấy người biệt phái là người như thế. Người này đến với Chúa với một thái độ tự mãn. Ông ta đứng thẳng để kể công với Chúa về những việc ông ta đã làm. Ông không thấy mình có bất cứ một lỗi làm nào dù là rất nhỏ trước mặt Chúa. Hơn nữa ông còn kiêu ngạo coi mình hoàn hảo hơn người thu thuế đang đứng xa xa kia.

Cha hỏi chúng con nếu chúng con là Chúa, thì chúng con sẽ có thái độ như thế nào đối với con người này. Theo Cha thì chắc là Chúa không vui, không thích và Chúa không muốn nghe lời cầu nguyện của những người như thế.

Cha kể cho chúng con câu chuyện vui này:

Anh Guton Boris có thói quen ghi lại tất cả những việc làm tốt của mình vào sổ tay, đến ngày kết thúc cuộc đời ở trần gian, anh xuất hiện trước toà Chúa và trình lên Ngài một cuốn sổ tay dày cộm, trong đó anh ghi được tổng cộng tất cả là 50.000 việc làm tốt. Chúa Giêsu nhìn và tỏ vẻ rất nghiêm trang nhưng Ngài không phản ứng gì. Đoạn Ngài từ từ mở sổ riêng của Ngài ra nhìn vào đó hồi lâu rồi nói với anh.

– Con nói là đã làm được 50.000 việc tốt nhưng theo sổ riêng của Ta thì chỉ có một việc duy nhất mà thôi, vì thế con chưa được ở lại đây với Ta mà phải trở lại trần gian để được thanh luyện thêm rồi mới trở lại đây để ta xét.

Anh Guton Boris vội vã thanh minh.

– Thưa Chúa, con đâu ghi láo, mỗi lần làm xong việc tốt là con ghi ngay vào sổ. Quả thật tất cả là con đã làm 50.000 việc lành trong suốt đời sống con ở trần gian. Tại sao Chúa lại chỉ nhận có một việc, còn 49.999 việc kia thì sao.

Bấy giờ, Chúa Giêsu chậm rãi giải thích:

– Này con, con đã làm 50.000 việc tốt nhưng với ý khoe khoang chứ không phải vì ý ngay lành hay vì tình yêu đối với Ta. Chỉ có một lần duy nhất con làm vì ý ngay lành mà thôi, đó là lúc con mới được rước Ta vào lòng lần đầu tiên. Ý ngay lành rất quan trọng vì nếu không có nó, những việc tốt con làm không có giá trị gì đối với Ta cả. Con đã muốn khoe khoang, muốn được mọi người khen ngợi, vì thế 49.999 việc tốt kia là những việc khoe khoang vô ích mà thôi.

Vâng, con người có thể che mắt được thiên hạ chứ làm sao giấu được Chúa.

2. Bài học tiếp theo: Chúa thích những ai sống khiêm nhường và sẵn lòng ban ơn tha thứ cho họ. Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.

Bây giờ chúng ta nói về người thu thuế. Câu chuyện  ghi: “Còn người thu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương cót con là kẻ tội lỗi.”. Người này đứng trước mặt Chúa thấy mình tội lỗi và chỉ mong được Chúa thứ tha.

Cha hỏi chúng con: Chúa có tha không chúng con. Theo kết quả của câu chuyện thì Chúa bảo là Chúa tha.”Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không” (Lc 18,13). Tại sao Chúa lại tha? Thưa vì người này biết khiêm nhường nhận lỗi. Người biết khiêm nhường nhận lỗi thì luôn được Thiên Chúa tha thứ.

Công tước D’Ossome, phó vương xứ Napoli (Ý) sống vào thế kỷ 17. Một hôm, Ngài đi thị sát một chiến thuyền, vốn là loại được chèo bởi một đạo quân đông đảo. Ngài đi xuống lòng thuyền để hỏi han từng tù nhân lý do nào đã đẩy họ đến kiếp sống chung thân gắn chặt với mái chèo với đủ cả xiềng xích ở chân và ở cổ như vậy ?

Tất cả các tù nhân đều kêu oan, bào chữa mình là vô tội. Duy chỉ có một tù nhân ngồi cúi gằm đầu xuống, im lặng, không hé răng nói một lời. Công tước thấy lạ tiến lại gần, dịu dàng hỏi mãi anh ta mới nói :

– Thưa Ngài, tôi chẳng có gì để bào chữa. Tôi thật xứng với tội tôi đã phạm trước đây.

Công tước liền quay lại nói lớn tiếng với mọi người chung quanh:

– Ah! Đây mới đúng là một tên phạm trọng tội. Một kẻ chẳng ra gì, hắn không xứng đáng được ngồi ở đây, chung chạ với những người vô tội này! Vì thế hãy tống cổ sang một nông trại để cải tạo lao động.

Ít lâu sau, anh ta được phóng thích tự do, trở về với đời sống bình thường. Chỉ nhờ lòng khiêm tốn chân thành biết nhận lỗi, biết chấp nhận hình phạt để đền bù tội ác đã phạm, mà tù nhân đó đã được vị Công tước nhân từ phóng thích khỏi kiếp nô lệ khổ sai chung thân đó.

3. Bài học: Hãy cố gắng sống khiêm nhường để được Chúa yêu thương.

Có người hỏi Thánh Phanxicô thành Assisi (1182-1226) tại sao và bằng cách nào ngài làm được nhiều sự trọng đại, Ngài vui vẻ trả lời:

– Cũng dễ thôi, Chúa từ trời cao nhìn xuống và nói: “Ta kiếm đâu được một người yếu đuối nhất, bé mọn nhất, vô nghĩa nhất ở trần gian này!” Ngài nhìn thấy tôi, Ngài nói: “Đây là người Ta tìm được và Ta muốn hành động qua người này. Người ấy sẽ thấy rằng Ta dùng nó chỉ vì nó là con người hèn mọn nhất, khiêm hạ nhất”.

Lời Đức Mẹ: “Chúa hạ kẻ quyền thế khỏi địa vị của họ và nâng các kẻ khiêm nhường lên” (Lc 1,52).

Vâng! Phải có một lòng khiêm nhường chân thực mới có thể sống được như thế.

Lúc nhỏ thánh Gioan Boscô có lần làm bể cây đèn nhưng vì khiêm nhường nhận lỗi nên được bà mẹ tha. Hôm đó bà Magarita là mẹ của Boscô đi chợ, Boscô muốn lấy cái mũ trên đầu tủ. Nhưng vì tủ cao quá, cậu phải lấy ghế kê sát tủ đứng lên mới với lấy được. Chẳng may đụng phải cây đèn dầu rớt xuống đất bể tan. Dầu chảy lênh láng. Boscô định phi tang để khỏi bị phạt nhưng không thể được vì dầu đã loang ra sàn nhà. Cậu định đổ lỗi cho con mèo, nhưng rồi cậu quyết thú lỗi và xin mẹ tha. Cậu ra vuờn chặt cây roi, để sẵn chờ mẹ về. Bà Magarita vừa về tới, cậu chạy ra ôm bà và nói:

– Mẹ ơi, mẹ cầm 1ấy roi này đi .

Mẹ cậu ngạc nhiên hỏi:

– Cầm lấy roi làm chi vậy con?

– Vì con đà làm bể cây đèn đèn trên đầu tủ. Xin mẹ phạt con rồi tha cho con.

Bà Magaria nhìn cậu cảm động :

– Boscô, con làm bể đèn, đáng bị phạt. Nhưng con biết nhận lỗi, mẹ tha cho con. Từ nay con phải ý tứ hơn.

***

Nhận biết lỗi mình và thành thực xin tha thứ thì chắc chắn sẽ được thứ tha. Nhưng lòng chân thành thú lỗi chỉ có nơi tâm hồn khiêm tốn thâm sâu như Boscô và người thu thuế trong Tin mừng hôm nay.

Thiên Chúa không thể cầm lòng trước những tâm hồn thành thật và khiêm tốn nhận lỗi! Khi người thu thuế trong Tin mừng hôm nay sấp mặt xuống đất, đấm ngực ăn năn, Chúa Giêsu tuyên bố: “Người nầy khi trở xuống về nhà, thì được nên công chính rồi “. Còn người biệt phái vì kiêu căng tự đắc, thay vì thú nhận tội lỗi, đã khoe công trạng và khinh dễ kẻ khác, nên Chúa bảo : “Còn người kia thì không”. Không được tha tội, không được nên công chính, không đáng khen mà còn đáng phạt nữa” Vì ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên ” (Lc 18,14).