Hôm nay, chúng ta cùng với Giáo Hội long trọng mừng lễ Thiên Chúa Ba Ngôi. Đây là mầu nhiệm cốt trụ của Đạo. Tuy nhiên đây lại là mầu nhiệm khó hiếu nhất.

1. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi

Để có một chút ý niệm về mầu nhiệm này, thiết tưởng chúng ta không thể bỏ qua những chỉ dẫn của Sách Giáo lý chung của Giáo Hội.

Đây là lời dạy về Chúa Ba Ngôi của Sách Giáo Lý Chung:

“Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trọng tâm của đức tin và đời sống Kitô hữu. Đây là mầu nhiệm về đời sống nội tại của Thiên Chúa, cội nguồn phát sinh mọi mầu nhiệm khác của đức tin và là ánh sáng chiếu soi các mầu nhiệm ấy. Đây là giáo huấn căn bản nhất và trọng yếu nhất theo “phẩm trật các chân lý đức tin” (234). Trọn lịch sử cứu độ chỉ là lịch sử về đường lối và các phương tiện mà Thiên Chúa chân thật và duy nhất là Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần dùng để tự mặc khải, để giao hòa và kết hợp với Người những ai từ bỏ tội lỗi” (47).

Trong Tin Mừng, chính Chúa Kitô, là Thiên Chúa Ngôi Hai nhập thể làm người đã mạc khải cho chúng ta về Mầu Nhiệm này. Không có sự mạc khải của Chúa Giêsu thì không ai trong chúng ta có thể nói cho chúng ta biết.

Về Thiên Chúa Cha, thì Chúa Giêsu đã nói thật rõ: “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho.” (Mt 1,27)

“Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc” (Ga 5,17)

“Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.” (Ga 6,40)

Chúa cũng nói về Chúa Thánh Thần mà Người gọi bằng nhiều tên khác nhau: “Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em. Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”.

Và đây là những lời rõ rệt nhất mà Chúa Giêsu nói nói về Ba Ngôi: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế (Mt 28,19-20).

2. Sống mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi

Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi không phải là mầu nhiệm để hiểu nhưng là mầu nhiệm để sống.

Chúng ta không thể hiểu được mầu nhiệm này vì lý trí của con người quá hạn hẹp.

Truyền thuyết kể lại rằng:

Thánh Augustinô – là một vị thánh Tiến sĩ của Giáo Hội – một hôm, đi dọc theo bờ biển, đầu óc miên man nghĩ đến những bí ẩn về Thiên Chúa. Tình cờ Ngài gặp một cậu bé đang ngồi chơi trên cát. Cậu bé đang dùng một mảnh sò để đào một cái lỗ nhỏ trên cát, rồi dùng vỏ sò ấy mà múc nước biển đổ vào.

Nhưng thật là dã tràng xe cát biển đông, em bé đổ nước mãi vào cái lỗ mà vẫn không bao giờ đầy. Ngạc nhiên về cử chỉ của em bé, thánh nhân nấn ná gợi chuyện. Ngài hỏi xem em đang làm gì, thì đứa bé trả lời không chút do dự:

– Thưa ông, cháu đang dùng vỏ sò này để tát cho cạn nước bể đại dương để đổ vào cái lỗ này.

Thánh nhân lắc đầu bảo nó :

– Cháu không thể làm được chuyện đó đâu.

Đứa bé ngước lên và mỉm cười nói :

– Múc cạn nước đại dương để đổ đầy cái lỗ này còn dễ hơn múc cạn mầu nhiệm về Thiên Chúa.

Nói xong câu đó, em bé biến mất. Thánh Augustinô chợt hiểu được điều Chúa muốn dùng em bé để dạy mình cho nên Ngài đã từ bỏ hắn việc suy nghĩ thêm về mầu nhiệm này. “Thiên Chúa là một mầu nhiệm mà con người không thể nào thấu hiểu được” (D.Wahrheit)

Đây là mầu nhiệm lý Chúa và Giáo Hội dạy chúng ta phải tin. Hằng ngày chúng ta tuyên xưng niềm tin đó khi chúng ta làm Dấu Thánh Giá, đọc kinh Sáng Danh, và tuyên xưng trong kinh Tin Kính, hoặc các trường hợp khác tương tự khi tham dự các Nghi Lễ Phụng Vụ.

Vậy nghĩa vụ khẩn thiết chúng ta phải có đối với Chúa Ba Ngôi là:

1. Tôn thờ

Chúng ta cần phải dâng lên Chúa lòng tôn thờ xứng đáng như một nghĩa vụ khẩn thiết của một thụ tạo phải có đối với Đấng Tạo Hóa, bằng cách luôn hiệp với Hiến Lễ Thánh Thể hằng tiến dâng nơi các bàn thờ trên khắp thế giới, nhất là mỗi khi chúng ta cử hành hay tham dự Thánh Lễ Misa; đồng thời biến cả cuộc đời chúng ta cùng với Công Nghiệp và Giá Máu Chúa Cứu Thế, thành một Thánh Lễ liên tiếp để tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi cực thánh, vì chỉ có Lễ Hy Sinh của Chúa Kitô mới có giá trị vô song, tái diễn Lễ Hiến Tế Núi Sọ mới đáng được Thiên Chúa hài lòng chấp nhận. Không bao giờ cố tình tục hóa Đền Thờ bản thân chúng ta đã được hiến dâng cho Chúa ngày chúng ta lãnh Nhiệm Tích Thánh Tẩy, như lời Thánh Phaolô nhắn nhủ: “Anh em không biết rằng anh em là Đền Thờ Thiên Chúa sao, ai tục hóa Đền Thờ Thiên Chúa, sẽ bị Chúa hủy diệt” (1Cr 3,16).

2. Yêu mến

Chúng ta hãy hết lòng yêu mến Chúa, bằng cách không từ chối Chúa điều gì. Luôn làm hài lòng Chúa, làm mọi việc vì lòng yêu mến Chúa, dâng trót tình yêu cho Chúa, đáp lại lòng Chúa khát khao: “Con hãy dâng trái tim con cho Cha!” (Prov 23,26) hợp với thánh lệnh Chúa truyền: “Con hãy yêu mến Thiên Chúa là Chúa con hết lòng, hết sức, hết trí khôn, hết tâm hồn con” (Mt 22,37).

3. Biết ơn

Để tỏ lòng biết ơn Chúa vì những ơn phúc Chúa đã ban, ơn được làm con Chúa, ơn được làm Bạn Tâm Phúc của Chúa Kitô, ơn được trở nên Thừa Tác Viên phân phát các mầu nhiệm thánh, chúng ta hãy cẩn thận bảo toàn ơn thánh đã lãnh nhận, luôn giữ tâm hồn trong sạch sống trong ơn nghĩa Chúa, luôn làm hòa lòng Chúa, không bao giờ xúc phạm đến Chúa, không cố tình phạm bất cứ một tội lỗi nào, nhất là tội trọng, vì phạm tội trọng là trục xuất Chúa Ba Ngôi ra khỏi tâm hồn, đón rước ma quỉ vào thống trị tâm hồn mình. Hơn nữa, cần phải cố gắng giãi sáng ơn thánh Chúa bằng sống đời gương mẫu thánh thiện, nên chứng nhân chinh phục cho Chúa các linh hồn, để tất cả những ai chúng ta giao tiếp, những ai chúng ta có sứ mạng phục vụ, đều cảm nhận thấy nơi bản thân chúng ta là “Người mang Thiên Chúa trong lòng”.

Một bà kia không biết đến sự yêu thương của đồng lọai. Bà là một người không tôn giáo, nghèo khổ bị bỏ quên, bị ngược đãi, bị đối xử bất công lâu ngày đến nỗi bà thù ghét tất cả mọi người mà mọi người dường như nghịch cùng bà. Một lần kia, cha sở đến gặp bà để nói về tình yêu thương của Thiên Chúa, song bà chẳng hiểu tình yêu là gì cả. Bà bảo :

– Tôi không hiểu ông nói gì. Chưa hề có ai yêu thương tôi và đối với tôi, tôi cũng không hiểu yêu thương là gì cả.

Cha sở về lại nhà xứ mà lòng vẫn canh cánh ray rứt về câu chuyện với người phụ nữ nọ. Ngài cầu nguyện liền mấy ngày rồi chợt nảy ra một ý, ngài cho mời nhóm bạn trẻ Tông đồ trong xứ lại và kể cho các bạn ấy nghe đầu đuôi sự thể. Rồi ngài đề nghị mọi người hãy giúp cho bà ấy biết được tình yêu của Chúa bằng cách mỗi người trong nhóm sẽ lần lượt từng người đến thăm bà, chân thành tỏ cho bà biết trên đời này vẫn có người yêu thương, thăm viếng, an ủi và giúp đỡ bà.

Mấy tháng trôi qua, một ngày kia, khi cha sở lại thăm bà, bà xúc động đến rướm nước mắt:

– Thưa cha, bây giờ thì tôi đã hiểu, đã biết yêu thương là gì rồi, và bây giờ tôi đã có thể xin cha cho tôi được đón nhận tình yêu của Thiên Chúa.

Chúng con yêu quí, Cha đố chúng con, hôm nay chúng ta mừng lễ gì nào?

– Lễ Thiên Chúa Ba Ngôi.

– Chúng con rất giỏi. Nhưng ai dạy cho chúng ta biết về Thiên Chúa Ba Ngôi nào?

– Chúa Giêsu.

– Lại giỏi nữa. Thiếu nhi của cha rất giỏi.

– Nhưng một Chúa mà lại có Ba Ngôi nghĩa là thế nào chúng con? Ai có thể nói cho cha biết không?

–  …Có Ngôi thứ nhất là Cha, Ngôi thứ hai là Con và Ngôi thứ ba là Chúa Thánh Thần.

– Đúng rồi. Nhưng làm sao để có thể cắt nghĩa cho mọi người hiểu được một Thiên Chúa mà lại có Ba Ngôi? Khó quá phải không chúng con? Cha thấy để hiểu được Thiên Chúa Ba Ngôi thì không nên dùng trí khôn để tìm hiểu, nhưng nên dùng trí khôn để nhìn vào những công việc Thiên Chúa làm mà hiểu về Thiên Chúa thì hay hơn và dễ hiểu hơn.

Thế thì Thiên Chúa đã làm những gì để cho người ta nhìn vào mà biết được Thiên Chúa nào?

Cha đọc trong thư của Thánh Gioan, cha thấy ngài viết một câu rất hay. Ngài nói: Thiên Chúa là Tình thương. Tình thương của Thiên Chúa luôn có việc làm minh chứng. Bởi thế người ta mới nói:

1. Thiên Chúa Cha là Tình thương tạo dựng

Tạo dựng là làm sao chúng con? – Là làm nên mọi sự ở trần gian này.

Cha kể cho chúng con câu chuyện: Một ông thông thái người Pháp nọ băng qua sa mạc. Ông dẫn theo vài người Arập làm người dẫn đường. Khi mặt trời lặn, một người trong bọn họ trải một tấm thảm xuống đất và cầu nguyện.

– Ngươi làm gì thế?- Ông thông thái hỏi.

– Tôi cầu nguyện.

– Ngươi cầu nguyện ư? Ngươi cầu nguyện cùng ai?

–  Thiên Chúa.

Ông thông thái mỉm cười.

– Ngươi đã bao giờ thấy Thiên Chúa chưa?

– Chưa!

– Vậy thì ngươi là một kẻ điên nếu tin vào một Thiên Chúa mà ngươi không bao giờ thấy, không bao giờ nghe và không bao giờ đụng chạm đến.

Người Árập không trả lời gì. Sáng sớm hôm sau, trước khi mặt trời mọc, nhà thông thái ra khỏi lều, đã nói lên nhận xét này với người dẫn đường cho ông:

– Đã có một con lạc đà đi qua đây!

Một tia sáng lóe lên trong mắt người Arập.

– Ngài thấy con lạc đà chứ?

– Không.

– Ngài không đụng đến nó chứ?

– Không.

– Vậy thì ngài điên khi tin là có một con lạc đà mà ngài không nghe, không thấy, không ngửi qua chỗ này.

– Ồ! – Ông thông thái đáp trả – nhưng người ta thấy rõ các dấu chân của nó trên cát.

Vào chính ngay lúc ấy, mặt trời mọc lên ở chân trời với tất cả các màu sắc rực rỡ của phương đông. Bằng một cử chỉ gọn gàng, người Árập đưa tay chỉ vào tinh thể rực sáng, rồi nói:

– Ngài có thấy dấu vết của Đấng Tạo Hóa không? Vậy sao ngài không biết rằng có một Thiên Chúa.

Chúng ta hãy nghe lại một trong những lời thánh vịnh đẹp nhất:

Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa
hông trung kể lại những việc tay Người làm.

2. Chúa Con: Tình Thương Cứu Chuộc

Sự cứu chuộc thật là kỳ diệu ngoài sức tưởng tưởng của loài người.

Trong  một nhà thờ ở Tây Ban Nha, người ta tôn kính một cây Thánh Giá cổ xưa mà cánh tay phải của Chúa đã tách rời khỏi đinh. Cây Thánh giá này có lịch sử như sau:

Ngày nọ, một tội nhân thuộc loại “gạo cội”. Gạo cội là làm sao chúng con? Nghĩa là tội ghê gớm lắm. Ông ta đến xưng  thú tội mình dưới cây Thánh giá này với tất cả dấu hiệu của một sự thống hối  chân thật. Cha giải tội do dự ban phép tha tội cho ông ta vì các tội của ông ta nhiều và nặng. Tội nhân cầu xin sự tha thứ.

– Tôi ban phép giải tội cho ông, – Vị linh mục nói – tuy nhiên ông không được tái phạm nữa  nhé!

Tội nhân xin hứa và giữ một được một thời gian. Nhưng rồi, yếu đuối và sã ngã lại. Lòng thống hối thúc đẩy ông đến toà giải tội . Vị linh mục bảo ông:

– Lần này thì tôi không ban phép giải tội cho ông đâu!

– Con thống hối, – tội nhân đáp lời vị linh mục – con rất chân thành khi đoan hứa với cha, nhưng con yếu đuối! Xin hãy tha thứ cho con!

Cha giải tôi tha thứ và nói thêm:

– Đây là lần cuối cùng đó nhé!

Một thời gian khá lâu sau, một phần theo thói quen, một phần vì yếu đuối, ông lại rơi vào vòng tội lỗi.

– Bây giờ thì dứt khoát! – Vị linh mục bảo – ông luôn phạm lại trong cùng một tội lỗi, điều đó chứng tỏ ông không có sự thống hối chân thành.

– Thưa Cha, con rất chân thành thống hối. Con sa ngã vì con yếu đuối. Con thẳng thắn, chân thực, nhưng con bệnh hoạn.

– Không, không còn sự tha thứ cho ông nữa.

Vào chính lúc đó, người ta nghe như có tiếng ai khóc. Rồi người ta nghe thế tiếng động phát xuất từ cây Thánh giá: một cánh tay của Chúa rời khỏi đinh, giơ lên và vạch trên đầu tội nhân dấu hiệu sự tha thứ, đồng thời  có một tiếng nói: “ Ngươi, ngươi không đổ máu ngươi cho nó!”

Vâng! Sự cứu chuộc thật là kỳ diệu con ngoài chẳng làm sao mà hiểu nổi.

3. Chúa Thánh Thần: Tình Thương Thánh Hóa

Thánh Thần là Thần thánh hóa. Một trong những công việc đặc biệt nhất là ơn tha tội. Chúng con hãy nghe lời của Chúa Giêsu: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.”(Ga 20,22-23). Đây là một ơn ban đặc biệt của Thánh Thần. Và ơn ban này chỉ trong Giáo Hội mới có.

Cha kể cho chúng con câu chuyện có thật này:

Linh mục Bernado thuộc hội Giáo Hoàng thừa sai người Ý truyền giáo tại Hongkong. Ngài kể lại rằng:

“Trong một ngày thứ Sáu tuần thánh, sau khi nói về cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá và ơn tha thứ của Chúa, tôi giải thích về ý nghĩa của Bí tích Giải Tội và kêu gọi mọi người xưng tội để cảm nhận được ơn tha thứ của Chúa. Sau nghi lễ, có một người Hồi giáo đến gặp tôi nói như sau:

– Thưa Cha, tôi muốn xưng tội để được ơn tha thứ.

Vị linh mục giải thích rằng: “Vì chưa được rửa tội, ông không thể lãnh nhận Bí Tích Giải tội”, nhưng người tín hữu Hồi giáo nài nỉ:

– Thưa Cha, trong Hồi giáo của chúng tôi không có sự tha tội, nhưng tôi cảm thấy cần phải được Chúa tha thứ và có được một dấu chỉ về sự tha thứ của Ngài.

Vị linh mục liền chúc lành cho người tín hữu Hồi giáo và người này ra về trong bình an.”

Đúng như vậy chúng con. Chỉ trong Giáo Hội của Chúa mới có sự tha thứ. Và đây là ân ban của Chúa Thánh Thần. Chúng ta hãy cám ơn Chúa vì hồng ân cao cả này. Amen.

Các bản văn Phụng Vụ hôm nay ít nhiều đều nói về Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần có một vai trò rất quan trọng trong chương trình sáng tạo, cứu độ và thánh hoá loài người của Thiên Chúa. Hoạt động của Chúa Thánh Thần rất phong phú và đa dạng. Nhân lễ Chúa Thánh Thần hôm nay chúng ta sẽ nói về một số những hoạt động của Người.

A..Trước hết là hoạt động của Chúa Thánh Thần trong lịch sử ơn Cứu độ. 

Câu đầu tiên của sách Thánh ghi như thế này: “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất.  Ðất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước”.

Như vậy ngay từ giây phút đầu tiên khi trời đất muôn vật vừa được tạo thành thì Thần Khí TC đã  có mặt để thực hiện việc sáng tạo nên muôn loài muôn vật và cả con ngưởi.

Rồi trong Tân ước, cũng chính Thần Khí đó luôn có mặt từ lúc Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm người cho đến ngày Giáo Hội được sinh ra.

Thánh Luca ghi lại những giây phút đầu tiên thật cảm động :”Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc.

CTT hoạt động trong Giáo hội sơ khởi và thực hiện bao nhiêu việc lạ lùng qua các tông đồ như lời của Chúa Giêsu :”Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất.”

Và CTT luôn hiện diện, hoạt động trong Hội thánh và trong mỗi người chúng ta cho đến ngày tận cùng thế giới. (Theo “Con đường hạnh phúc”).

B. Bây giờ chúng ta hãy dừng lại trước biến cố mà sách TĐCV đã tường thuật lại một cách đặc biệt hôm nay. Chúa Thánh Thần đã đổi mới các tông đố của Chúa.

1. Đầu tiên là đổi mới trí khôn.

Chúng ta biết các Tông đồ xưa là những người làm nghề chài lưới, ít học. Suốt 3 năm ở bên cạnh Chúa Giêsu, các ngài đã được Chúa dạy dỗ nhiều điều nhưng các ngài không hiểu. Vậy mà sau khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, trí khôn các ngài như được mở ra. Không những các ngài hiểu biết về Chúa, hiểu biết giáo lý của Chúa, mà còn có thể đi giảng dạy cho người khác nữa.

Ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Ngài đã biến những con người thất học nên hiểu biết. Ngài đã đổi những tâm trí u mê thành sáng suốt.

2. Thứ đến là đổi mới ý chí.

Từ khi Chúa Giêsu bị bắt và bị kết án, các Tông đồ sống trong sợ hãi. Các ngài đã trốn chạy. Các ngài đã chối Chúa. Các ngài ẩn nấp trong nhà đóng kín cửa. Nhưng khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, con người các ngài đã hoàn toàn thay đổi. Các ngài mở tung cửa ra đi rao giảng Tin mừng cho mọi người. Bị đe dọa, các ngài vẫn không sợ. Bị đánh đòn, các ngài vẫn kiên cường. Không gì có thể ngăn cản các ngài rao giảng, làm chứng cho Đức Kitô phục sinh. Sau cùng tất cả các ngài đã chịu đổ máu, hiến mạng sống mình để làm chứng cho Chúa.

Ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Ngài đã biến những con người yếu đuối nên vững mạnh. Ngài đã biến những con người nhút nhát nên can đảm.

3. Sau cùng là đổi mới trái tim.

Trước kia các ngài còn mang nặng những ước mơ trần tục. Theo Chúa để mong được chức trọng quyền cao, mong được ngồi bên tả bên hữu Chúa, tranh dành nhau chỗ cao chỗ thấp. Có thể nói, trước kia các ngài theo Chúa vì bản thân, vì chính các ngài. Các ngài chưa yêu mến Chúa bằng yêu mến bản thân. Nhưng từ khi được ơn Chúa Thánh Thần, trái tim của các ngài đã hoàn toàn thay đổi. Từ nay các ngài không còn tranh dành nhau chỗ cao chỗ thấp, ngồi bên tả hay bên hữu. Nhưng các ngài biết sống nhường nhịn yêu thương. Từ nay các ngài dành trọn trái tim cho Chúa, yêu mến đến sẵn sàng chịu mọi đau khổ, và nhất là sẵn sàng chết vì Chúa.

Ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Đã biến đổi những trái tim chai đá thành những trái tim bằng thịt. Đã biến đổi những trái tim ích kỷ thành những trái tim yêu thương.

Chính vì thế mà khi bàn về vai trò của Chúa Thánh Thần đối với Giáo Hội, Thượng phụ Athénagoras không ngần ngại mà quả quyết: “Không có Thánh Thần, Thiên Chúa sẽ ở xa, Đức Kitô bị khép lại ở trong quá khứ, Tin Mừng sẽ chỉ là những dòng chữ chết. Hội Thánh sẽ chỉ là một tổ chức bình thường, quyền bính sẽ trở thành một thứ áp bức, và công việc truyền giáo sẽ trở thành một việc uyên truyền không hơn không kém. Rồi việc tế tự, một trong những sinh hoạt quan trọng nhất trong đạo của chúng ta sẽ chỉ còn là một thứ tưởng niệm và hoạt động Kitô giáo sẽ chỉ là một thứ đạo đức nô lệ.”

Hôm nay ta hãy tha thiết xin ơn Chúa Thánh Thần đến đổi mới con người xưa cũ của ta.

Đổi mới Trí khôn u mê không hiểu Lời Chúa, không nhận biết thánh ý Chúa thành trí khôn biết bén nhạy với Lời Chúa, nhất là với sự soi sáng của Chúa Thánh Thần

Đổi mới Ý chí bạc nhược không đủ sức làm việc lành, hèn nhát không dám làm chứng cho Chúa thành ý chí biết phục thiện và can đảm làm chứng cho chân lý.

Đổi mới Trái tim nhơ uế vì những ích kỷ nhỏ nhen, vì những ham muốn trần tục thành trái tim quảng đại, biết tha thứ và yêu thương.

Xin được kết thúc bắng một chứng từ rất cảm động đã xảy ra tại một giáo xứ nọ.

Trong giáo xứ tôi có cụ già tên là Thomas ngoài trăm tuổi. Cụ thường sống cô đơn vì các bạn cùng tuổi với cụ đã ra đi. Một hôm cụ lâm bệnh và qua đời. Tôi tự nhủ:

– Chắc không có ai đến dự đám tang của cụ. Vì thế tôi nhất định đến tiễn cụ đến nơi an nghỉ cuối cùng.

Hôm ấy lại là ngày xấu trời, mưa tầm tả. Theo sau xe tang không có một bóng người, đường xá vắng tanh. Khi xe chạy tới cổng nghĩa trang, tôi thấy có một người đàn ông trong y phục quân đội đứng đợi. Ông đi theo xe tang đến huyệt và có mặt trong suốt thời gian an táng. Trước khi hạ huyệt ông đưa tay ngang trán, nghiêm chỉnh chào cụ Thomas như một vị vua.

Chôn cất xong, tôi đi theo ông ra cổng nghĩa trang. Một cơn gió mạnh bay tốc áo mưa, để hộ ra mấy cái huy chương trên áo ông. Thì ra ông không chỉ là một binh lính thường mà còn là một sĩ quan cao cấp. Như đọc được sự tò mò của tôi, ông nói:

– Có lẽ ông ngạc nhiên vì sự có mặt của tôi hôm nay trước linh cửu của cụ Thomas. Trước đây cụ là thầy dạy của tôi. Lúc đó tôi là một đứa trẻ tinh nghịch làm khổ cụ rất nhiều. Tôi được như ngày hôm nay là nhờ ơn của cụ. Vì thế hôm nay tôi đến tạ ơn và chào vĩnh biệt cụ, với tất cả tấm lòng trìu mến tri ân của tôi đối với cụ

* *

Câu chuyện trên đây cho chúng ta thấy đâu là sức mạnh của hạt giống được gieo vào mảnh đất là tâm hồn người đàn ông nầy.

Ai đã làm cho lời giáo hóa và gương sáng của cụ Thomas sinh hoa trái? Đâu là sức mạnh đổi mới tâm hồn đứa trẻ tinh nghịch nên một con người có thế giá?

Đó chính là hoạt động của Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần đã âm thầm tác động làm cho những lời dạy và tấm lòng tốt của cụ Thomas đem đến những kết quả lạ lùng như thế.

Chúng con yêu quí,

Bài Tin mừng chúng con vừa nghe rất vắn nhưng qua đó thánh Gioan cũng đã đủ để cho chúng ta thấy được những ơn ban của Chúa Thánh Thần, giúp chúng ta thấy được sự có mặt của Chúa Thánh Thần trong cuộc sống của chúng ta.

Cha đố chúng con những ơn ban đó là những ân ban nào?

1- Trước hết chúng con hãy nghe Chúa Giêsu: “Chúc anh em được bình an!“(Ga 20,19)

Như vậy ơn ban đầu tiên và cao trọng nhất của Chúa Thánh Thần là ơn Bình an. Thế nhưng cha hỏi sự bình an mà Chúa Thánh Thần ban tặng là thứ bình an như thế nào?

Cha kể cho chúng con nghe một câu chuyện này do báo Tuổi Trẻ Chúa nhật số ra ngày 2.9.2001 đăng. Bào báo có tựa đề là “Sự bình an“. Câu chuyện như thế này: Một vị vua kia treo giải thưởng cho nghệ sĩ nào vẽ được một bức tranh đẹp nhất về sự bình an. Nhiều họa sĩ đã cố công. Nhà vua ngắm tất cả các bức tranh nhưng chỉ thích có hai bức và ông phải chọn lấy một.

Một bức tranh thứ nhất vẽ một hồ nước yên ả. Mặt hồ là tấm gương tuyệt mỹ vì có những ngọn núi cao chót vót bao quanh. Bên trên là bầu trời xanh với những đám mây trắng mịn màng. Tất cả những ai ngắm bức tranh này đều cho rằng đây là một bức tranh diễn tả về sự bình an thật hoàn hảo.

Bức tranh kia cũng có những ngọn núi nhưng những ngọn núi này trần trụi và lởm chởm đá. Ở bên trên là bầu trời giận dữ đổ mưa như trút, kèm theo những tiếng sấm chớp long trời. Ở giữa là một dòng thác nổi bọt trắng xóa đang xuống bên vách núi là. Bức tranh này trông thật chẳng bình an chút nào.

Nhưng khi nhà vua ngắm nhìn, ông thấy đàng sau dòng thác là một bụi cây nhỏ mọc lên từ khe nứt của một tảng đá. Trong bụi cây ấy có một con chim mẹ đang xây tổ. Ở đó giữa dòng thác trút xuống một cách giận dữ, có một con chim mẹ đang thản nhiên đậu trên tổ của mình… Bình an thật sự.

Nhà vua công bố: “Ta chấm bức tranh này!”

Bình an không có nghĩa là một nơi không có tiếng ồn ào, không khó khăn, không cực nhọc. Bình an ở ngay trong sự yên tĩnh trong trái tim. Đó mới chính là ý nghĩa thật sự của bình an.

Sau khi Đức Giêsu chịu chết, các tông đồ sợ người Do Thái lùng bắt, nên đã trốn vào phòng, cửa đóng then cài.

Giữa cơn lo sợ đó, Đức Giêsu sống lại, hiện ra với các ông, như chim mẹ an nhiên đậu trên tổ canh giữ bầy con, Người mang lại cho các ông sự bình an đích thực: “Bình an cho anh em!”.

2- Tiếp đến ơn tha tội: chính nhờ được tha tội mà con người được bình an thật.

Linh mục Bernado thuộc hội Giáo Hoàng thừa sai người Ý truyền giáo tại Hongkong kể lại rằng: Vào một ngày thứ sáu tuần thánh, sau khi nói về cái chết trên thập giá và ơn tha thứ của của Chúa Giêsu, Ngài giải thích về ý nghĩa của Bí Tích Giải tội và kêu gọi mọi người xưng tội để hiểu được được ơn tha thứ của Chúa. Sau nghi lễ, có một người Hồi giáo đến gặp ngài và nói như sau:

– Thưa Cha, con muốn xưng tội để được ơn tha thứ.

Vị linh mục giải thích rằng: Vì chưa được rửa tội, ông không thể lãnh nhận Bí Tích Giải tội, nhưng người tín hữu Hồi giáo nài nỉ:

– Thưa Cha, trong Hồi giáo của chúng con không có sự tha tội, nhưng con cảm thấy cần phải được Chúa tha thứ và có được một dấu chỉ về sự tha thứ của Ngài.

Cha liền chúc lành cho người tín hữu Hồi giáo và sau đó người này trở thành người con của Chúa. Từ ngày đó người ấy nói rằng anh ta luôn được sống trong sự bình an.

3- Ơn ban cuối cùng là ơn được sai đi để loan báo Tin Mừng cứu độ cho mọi người cho tới ngày tận thế. Thánh Phaolô đã quả quyết: “Làm sao mà rao giảng, nếu không được sai đi? (Rm 10,15). Chúa Giêsu bảo “Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”.(Ga 20,21)

Linh mục Natarinô Rochky, một thừa sai người Ý làm việc truyền giáo lâu năm ở Nhật Bản, đặc biệt là Ngài làm Cha sở họ đạo Elsaye. Cách thủ đô Tôkyô khoảng 100 km. Ngài kể lại câu chuyện sau đây:

“Có một giáo sư đại học trẻ tuổi người Nhật xin gặp tôi mỗi tuần 2 buổi tối để thảo luận về các vấn đề tôn giáo và Phúc Âm, mặc dù ông chưa phải là tín hữu Công giáo. Những cuộc thảo luận như vậy kéo dài hơn một năm trời. Vị giáo sư này trình bày cho tôi những nghi ngờ, thắc mắc về đạo, đồng thời ông cũng xin tôi giải thích thêm về Tin Mừng,  về Giáo hội và về luân lý của đạo Công giáo.

Sau hơn một năm, tôi cảm thấy vị giáo sư thông minh đó có vẻ đã sẵn sàng đón nhận Bí Tích Thanh Tẩy, nên tôi hỏi ông có muốn được rửa tội và gia nhập vào Hội thánh Công Giáo hay không. Tôi ngạc nhiên khi thấy ông từ chối cách lịch sự. Và từ đó, tôi không thấy không lui tới với tôi nữa… Bẵng đi hơn 10 tháng, khi tôi hầu như đã quên đi vị giáo sư đó, thì một hôm. Ông trở lại gặp tôi và nói:

– Thưa Cha, Cha đã thuyết phục được con. Bây giờ con sẵn sàng đón nhận Bí Tích Rửa tội và con cũng đã chuẩn bị cho vợ con cũng như hai đứa con của con.

Nghe đến đây, tôi rất ngạc nhiên. Tôi hỏi ông điều gì đã khiến ông thay đổi ý kiến như thế. Ông ta đáp:

– Trong những tháng qua, con đã âm thầm theo dõi xem Cha đã sống như thế nào. Cha đã từng nói với con rằng Cha thường dâng thánh lễ một mình trong nhà thờ mỗi ngày lúc 7 giờ sáng. Đó cũng là giờ con ra ga xe lửa để đến Tôkyô dạy học, vì thế con vẫn có dịp đi qua Nhà thờ của Cha. Con dừng lại một lát nhìn Cha qua cửa sổ, xem Cha làm gì trong đó. Bao giờ con cũng thấy Cha trong Nhà thờ và cầu nguyện thật sốt sắng. Ngoài ra, con cũng dò hỏi nhiều người về cách sống của Cha. Qua các cuộc điều tra đó, con thấy quả thật Cha đã tin và đã sống những điều Cha đã chia sẻ cho con về đạo. Xét về mặt kiến thức thì con đã xác tín về sự thật Phúc Âm, nhưng con muốn xem Cha có sống Phúc Âm thực sự hay không”.

Cha Rochky không những đã truyền giáo bằng lời nói, giảng dạy, nhưng còn bằng cuộc sống thường nhật của mình nữa!

Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài hãy đến như ngọn gió mát, thổi vào cuộc đời chúng con luồng sinh khí mới để cả trái đất này được thay da đổi thịt trong cùng một Thánh Thần Tình Yêu. Amen. **

 ** Lời Chúa:

19 Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Dothái. Ðức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Chúc anh em được bình an!” 20 Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. 21 Người lại nói với các ông: “Chúc anh em được bình an! như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. 22 Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. 23 Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”.

Hôm nay cộng đoàn chúng ta họp nhau trong ngôi thánh đường này để mừng trọng thể lễ Chúa Thăng Thiên. Đây cũng là ngày Giáo Hội dành làm Ngày truyền thông thế giới”. Khi chọn ngày lễ này làm ngày truyền thông, Giáo Hội muốn nhắc nhở từng người chúng ta ý thức hơn đến việc loan truyền cho mọi người Tin Mừng Phục Sinh, một Tin Mừng vĩ đại nhất qua mọi thời đại và có khả năng biến đổi cuộc sống của những ai tin nhận.

Không chỉ hôm nay, nếu để ý, chúng ta sẽ thấy trong suốt những tuần lễ vừa qua, dưới nhiều hình thức khác nhau, phụng vụ lời Chúa cũng đã luôn mời gọi chúng ta phải lên đường loan báo Tin Mừng Phục Sinh của Đức Kitô.

Ngay trong Chúa Nhật Phục Sinh, Maria Mađalêna đã là người đầu tiên loan báo cho hai môn đệ Phêrô và Gioan về sự kiện ngôi mộ trống, dấu chỉ của Đấng Phục Sinh. Rồi tám ngày sau, vào Chúa Nhật II Phục Sinh, trong lần hiện ra với các tông đồ có cả Tôma, chính Đấng Phục Sinh đã truyền cho các tông đồ Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con (Ga 20, 21). Kế đến, trong Chúa Nhật III, Tin Mừng Luca còn thuật lại cho chúng ta việc Đấng Phục Sinh hiện đến với các tông đồ khi đó đang tụ họp cùng với hai môn đệ vừa từ làng Emmaus trở về. Và cả lần này, Đấng Phục Sinh cũng giao cho các ông sứ mạng nhân danh Người rao giảng sự thống hối… bắt đầu từ Giêrusalem (Lc 24, 47). Ngài còn nhấn mạnh: Còn các con, các con sẽ là chứng nhân về những điều ấy” (Lc 24, 48). Còn trong Chúa Nhật IV, chúng ta đọc được tâm sự của Đức Kitô, Vị Mục Tử nhân lành: “Ta còn những chiên khác không thuộc đàn này; cả những chiên đó Ta cũng phải mang về đàn (Ga 10, 16a). Được gia nhập vào đoàn chiên duy nhất của Đấng Phục Sinh như cành nho liên kết với thân nho, từng người chúng ta cũng được mời gọi sinh hoa trái bằng đời sống bác ái yêu thương. Nhờ đó, ngày càng có nhiều người tin nhận Đấng Phục Sinh. Đó chính là giáo huấn của lời Chúa trong Chúa Nhật V Phục Sinh. Còn trong Chúa Nhật vừa qua, Đức Kitô xác định rõ với từng người chúng ta: Chính Thầy đã chọn các con, và đã cắt đặt, để các con đi, và mang lại hoa trái (Ga 15, 16). Và hôm nay, trước khi chấm dứt giai đoạn hiện diện hữu hình của mình với các môn đệ, một lần nữa, Đấng Phục Sinh đã giao cho các tông đồ sứ mạng: “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật”.

Như thế, loan báo Tin Mừng Phục Sinh không còn là một điều mà chúng ta muốn làm hay không tuỳ thích, nhưng là một sứ mạng, một bổn phận bắt buộc cho tất cả những ai muốn xưng mình là kitô hữu. Ý thức điều đó, Công đồng Vatican II, trong Sắc lệnh về truyền giáo, số 2 đã nói: Bản chất của Giáo Hội là truyền giáo”. Giáo Hội phải loan truyền cho mọi người về Tin Mừng Phục Sinh, vì từ đây, Đấng Phục Sinh không còn hiện diện hữu hình với chúng ta nữa. Chúa lên trời, không phải là Ngài không còn hiện diện với con người nữa, nhưng là hiện diện với một cách thức mới, hiệu quả hơn, như lời Ngài đã hứa: Các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các con, và các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđêa và Samaria, và cho đến tận cùng trái đất”. Lịch sử Giáo Hội đang bước sang một giai đoạn mới, giai đoạn mở ra cho muôn dân. Đó cũng là một trong những lý do khiến Giáo Hội chọn ngày lễ hôm nay làm ngày Truyền thông thế giới”. Từ đây, Giáo Hội có nhiệm vụ truyền thông cho thế giới về Tin Mừng Phục Sinh, Tin Mừng của Tình yêu và Sự sống, Tin Mừng của niềm Hy vọng.

Chúng ta không được phép chỉ nhìn trời, nhưng phải nhìn đến những người đang sống quanh ta, đó là người chồng, người vợ, là cha mẹ, con cái, là anh chị em và cả những người hàng xóm, láng giềng, những người hợp ý với chúng ta lẫn những người làm chúng ta khó chịu. Nếu trong một gia đình Công Giáo luôn trên thuận dưới hoà, anh chị em luôn biết tha thứ, đùm bọc yêu thương nhau. Nhất là nếu chúng ta luôn biết quan tâm chia sẻ, nâng đỡ những người hàng xóm, không phân biệt lương giáo những lúc “tối lửa, tắt đèn”, thì tôi thiết nghĩ, đó là cách tốt nhất để chúng ta thông truyền cho mọi người về một Tình yêu phổ quát của Đấng Phục Sinh, Đấng đã chết và sống lại cho tất cả chúng ta.

Vợ chồng họ bán phở trên hè phố đã được một thời gian khá dài. Giá cả phải chăng cùng với nụ cười chân thành làm cho quán ăn của họ luôn tấp nập khách. Đến quán phở của họ nhiều lần, tôi phát hiện sáng nào cũng có một cụ già ăn mặc rách rưới lặng lẽ đứng chờ ở một góc.

Nhìn thấy bà cụ đến, hai vợ chồng họ vừa bận rộn làm nốt công việc dở, vừa mỉm cười nói với bà cụ:

– Bà chờ cháu một chút nhé, cháu sẽ làm ngay cho bà.

Lát sau, vợ hoặc chồng họ nhanh nhẹn bỏ phở vào trong chiếc hộp giấy, múc nước phở bỏ vào trong túi bóng, buộc lại rồi đưa cho bà cụ. Họ còn không quên nhắc bà cụ cẩn thận kẻo bỏng tay. Bà cụ run rẩy đưa đôi tay gầy guộc ra nhận, sau đó lặng lẽ quay người đi. Nhưng điều kỳ lạ là, dường như bà cụ chưa lần nào trả tiền.

Một hôm, tôi không kìm nén nổi sự tò mò, đã hỏi vợ chồng họ. Người vợ thở dài nói:

– Bà cụ ấy thật tội nghiệp, khó khăn lăm mới nuôi con cái khôn lớn. Vậy mà đến lúc già lại không có chỗ nương tựa. Gia đình chúng tôi cũng không được dư giả cho lắm, giúp đỡ bà cụ nhiều hơn thì chúng tôi không có khả năng, nhưng chỉ cần bà cụ đến chúng tôi luôn đãi cụ một bát phở.

Trên nét mặt người phụ nữ trung niên ấy dường như lộ vẻ áy náy, dường như chị cảm thấy có lỗi khi chỉ giúp đỡ được bà cụ một bát phở.

Tôi để ý và luôn nhận thấy vợ chồng họ đối xử lễ phép và tôn trọng bà cụ giống như những người khách hàng khác, không hề tỏ ra một chút coi thường hay ban ơn.

Sau này, trên phố xuất hiện khá nhiều quán phở, nhưng tôi chỉ thích đến quán phở của họ. Không vì cái gì cả, tôi chỉ muốn ngồi trên chiếc ghế cũ kỹ, trong âm thanh náo nhiệt của đường phố, lặng lẽ nhìn hai vợ chồng họ – những người thuộc tầng lớp nghèo túng của xã hội – chìa đôi bàn tay thô ráp, tặng cho một bà cụ còn nghèo túng hơn mình cả một tấm lòng yêu thương và nhân ái.

Bố thí cho người khác, có lẽ rất nhiều người dễ dàng làm được. Nhưng bố thí cho người khác với một thái độ chân thành và nhân ái, thì không phải ai cũng có thể làm được.

Tóm lại, chúng ta có thể chu toàn sứ mạng thông truyền Tin Mừng bằng chính đời sống công chính, yêu thương, nhường nhịn, tha thứ cho dù chỉ là một câu nói và một tấm lòng mở rộng sẵn sàng cảm thông của chúng ta. Chính đời sống đó sẽ là một dấu lạ cho mọi người nhận ra rằng có một Thiên Chúa đang ở với chúng ta. Chớ gì nhờ sức mạnh của Thánh Thể nâng đỡ, từng người, từng gia đình và cả cộng đoàn giáo xứ chúng ta sẽ trở thành một lời chứng hùng hồn cho Tin Mừng yêu thương và hy vọng của Đấng Phục Sinh. Amen.

Chúng con yêu quí,

Hôm nay chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội mừng lễ Chúa lên trời. Hay nói cho có văn vẻ và đẹp hơn thì chúng ta gọi là lễ Thăng Thiên. Thăng thiên hay lên trời cũng là việc Chúa Giêsu của chúng ta không còn có mặt trên trái đất này như một con người nữa mà Chúa đã đi vào một thế giới khác rồi.

Cha thử hỏi qua sự việc này Chúa muốn nhắn nhủ gì với mỗi người chúng ta?

Có nhiều điều Chúa muốn nhắn nhủ:

1. Trước hết là Chúa muốn củng cố niềm tin của chúng ta vào cuộc sống mai sau, cuộc sống đàng sau cuộc sống hôm nay của chúng ta.

Cha thấy đọc ở trong Tin mừng có mấy trường hợp người chết được Chúa cho sống lại, chẳng hạn như người con gái ông Giarô, người thanh niên con một bà góa thành Naim và nhất là Lagiarô, người đã chết 4 ngày mà Chúa đã cho sống lại…Nhưng tất cả những người ấy chẳng có người nào để lại cho thế hệ mai sau một chút kinh nghiệm gì về cái chết họ đã trải qua.

Thánh Gioan Maria Vianney một lần kia đã nói thật lớn với các bổn đạo của Ngài rằng: “Sự chết có thật chứ không phải Thiên Chúa bày đặt ra để hù dọa anh chị em đâu” – Vâng sự chết là có thật. Bao nhiêu cái chết của người đã ra đi trước chúng ta nói cho chúng ta điều đó. Nhưng đàng sau cái chết là cái gì thì chẳng ai trong chúng ta biết được.

Chính thánh Augustinô vị thánh tiến sĩ của Hội thánh, khi đứng trước thực cái chết, Ngài cũng cảm thấy bất lực.

Chỉ có Chúa Giêsu, bằng cái chết và sự phục sinh của Người, Người đã hé mở cho chúng ta thấy và hiểu một phần nào về cuộc sống đàng sau cái chết là gì để rồi đối với chúng ta là những người có niềm tin thì chúng ta ít ra cũng thấy được rằng cuộc sống không phải là con đường cụt mà nó đã có một lối ra.

2. Tiếp theo, việc Chúa lên trời đã đem đến cho chúng ta một niềm hy vọng và chính niềm hy vọng này là một nâng đỡ lớn lao cho mỗi người chúng ta để chúng ta xây dựng cho mình một cuộc sống cao cả, tốt đẹp và có ý nghĩa trong cõi đời này.

* Không thể sống mà không có hy vọng.

Cha nhớ một vở kịch đã được các sinh viên Y khoa diễn cách đây khá lâu, nhưng mỗi khi nhớ lại cha vẫn cảm thấy thấm thía. Vở kịch co tên là Vì những bước đi”. Kịch diễn lại cảnh một cô nữ điều dưỡng giúp một chàng thanh niên vì một tai nạn nên chân anh đã bị liệt. Bây giờ phải tập luyện để trả lại những bước đi cho đôi bàn chân. Trong một lần tập cho người thanh niên tàn tật này, cô Kim Loan, tên của cô nữ điều dưỡng trong vở kịch đó đã khích lệ người thanh niên bằng những lời rất đẹp như thế này:

“Cô gắng một chút nữa anh ạ.

Mỗi bước đi hôm nay là cả một đường dài ngày mai.

Vịn vào vai em mà đi.

Em hát cho anh nghe nhé.

Anh thích nhất là bài ca hy vọng phải không? ”

Thánh Antôn sống một cuộc sống thật khắc khổ trong rừng. Một ngày kia có mấy người đạo đức đến thăm Ngài. Thấy Ngài sống như thế mà vẫn tươi vui. Họ thắc mắc hỏi Ngài về cái bí quyết làm sao mà Ngài có thể sống tươi vui được như thế, thì Ngài dẫn họ đi vào sâu trong hang, tới một chỗ có cái lỗ có thể nhìn lên trời được. Ngài dừng lại và chỉ cho họ biết: Đó là tất cả bí mật về cuộc sống mà tôi đang sống: Bầu trời…niềm hy vọng của ngày mai.

3. Vấn đề còn lại là trong khi chờ đợi niềm hy vọng vào cuộc sống vĩnh cửu trở thành sự thật, mỗi người chúng ta phải làm gì?

Thánh Augustino nói hay lắm chúng con. Thánh nhân bảo:” Hãy tập sống cuộc sống thiên đàng ngay từ hôm nay”. Đúng vây chúng con. Hãy sống thiên đàng mai sau bằng chính thiên đàng hôm nay. Đó là cách chuẩn bị chắc ăn nhất. Nhưng chuẩn bị bằng cách nào? Bằng cách can đảm sống noi gương Chúa Giêsu nhất là đối với giới luật yêu thương của Chúa. Trong Tin Mừng thánh Luca 17,20 Chúa Giêsu đã nói rất hay: “Thiên đàng ở ngay trong lòng của các ngươi”.

Đức Cha Tiamer Toth trong một cuốn sách gửi cho các bạn trẻ, đã nói một câu mà cha nhớ mãi. Đức Cha nói: “Trong trận đại chiến vừa qua, người ta đã nhắc đi nhắc lại câu châm ngôn: “Tấn công là cách phòng thủ tốt nhất”. Câu châm ngôn thật hợp lý. Người ta không thể không thấy rằng khi bắt đầu cuộc chiến đấu tức là đã có một phần thắng quân địch. Trong cuộc chiến đấu vĩ đại của tâm hồn cũng vậy, phương pháp tốt nhất để phòng bị những thất trận là hằng ngày phải “đột kích” với quân đích ẩn  náu trong mình: lười biếng, vô tâm, vị kỷ, hay thay đổi, tò mò và còn nhiều nữa.

Ngày nọ có một hiệp sĩ Samurai thô lỗ hung bạo tìm đến với một vị thiền sư. Chàng nói với thiền sư.

– Xin ngài chỉ dạy cho cha biết thiên đàng và hỏa ngục là gì?

Vị thiền sư đưa mắt nhìn con người thô bạo từ bàn chân đến đỉnh đầu rồi thất vọng trả lời:

+ Dạy cho ngươi biết thế nào là thiên đàng, thế nào là hỏa ngục ư? Ta không thể dạy cho ngươi bất cứ điều gì cả. Ngươi là một con người hung bạo thô lỗ. Ngươi là nỗi nhục cho hàng hiệp sĩ Samurai. Hãy cút khỏi mặt ta, ta không thể chịu đựng được ngươi nữa.

Nghe những lời sỉ vả ấy, chàng hiệp sĩ liền rút gươm và định chém đầu vị thiền sư. Nhưng vị thiền sư đã giơ tay cản lại và nói:

+ Hỏa ngục là thế đó!

Chợt nhận ra bài học cụ thể của nhà tu hành, chàng hiệp sĩ dừng tay lại. Sự hối hận và cản thông bỗng trào dâng lên trong tâm hồn, chàng hiệp sĩ mới hiểu ra rằng vị thiền sư muốn hy sinh cả mạng sống của mình để dạy cho chàng bài học về hỏa ngục. Từ từ hạ gươm xuống, cho vào vỏ, rồi chàng đến quì gối trước mặt vị thiền sư với tất cả lòng thành và sám hối. Đỡ chàng dậy, vị thiền sư nhìn sâu vào đôi mắt của chàng và nói nhỏ :

– Thiên đàng là thế đó.

Thánh Phaolô bảo: Trên Thiên đàng sẽ chỉ còn một điều duy nhất: Đó là tình yêu. Sống tình yêu thương tức là sống thiên đàng hôm nay để chuẩn bị cho thiên đàng vĩnh cửu mai sau vậy.

Cha chúc chúng con kiên trì và chiếm được hạnh phúc thiên đàng Chúa hứa mai sau. Amen.

Một lần nữa chúng ta lại được nghe Chúa Giêsu nói về luật yêu thương của Ngài.

1. Tuần trước Chúa Giê-su nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con thương yêu nhau”, Khi nói như hế Chúa đã cấp thẻ quốc tịch cho những kẻ thuộc về Người. Căn tính của những kẻ thuộc về Người không phải là mầu da, ngôn ngữ hay phong tục tập quán, nhưng là trái tim. Và người ta nhận ra thần dân của Người không phải bằng chiều cao, sức nặng, nhưng là bằng tình yêu.

Hôm nay, Chúa nói: “Ai yêu mến Thầy thì giữ Lời Thầy. Và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Và chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy”. Khi nói như thế Chúa Giê-su đang vẽ nên biên cương Nước Chúa. Biên cương này không xác định bằng rừng núi, sông biển, nhưng bằng tấm lòng. Chúa Giê-su không giới hạn Nước Chúa trong 4 bức tường nhà thờ vì Nước Chúa là Tình Yêu. Vì thế, điều quan trọng không phải là ở trong hay ngoài nhà thờ, mà là ở trong hay ở ngoài tình yêu. Ai ở ngoài nhà thờ mà ở trong Tình Yêu thì người ấy đã ở trong Nước Chúa. Trái lại, những ai ở trong nhà thờ mà không có Tình Yêu, thì người ấy vẫn còn ở ngoài Nước Chúa.

Như vậy chúng ta thấy trong xã hội của Chúa sẽ không còn phân biệt hữu thần với vô thần mà chỉ còn hữu tâm hay vô tâm nghĩa là có trái tim hay không có trái tim

Người hữu tâm là người có trái tim rộng mở, biết chạnh lòng thương xót, biết chia sẻ, phục vụ.

Ngược lại người vô tâm là người lòng chai dạ đá, trái tim khép chặt, chỉ biết trau chuốt bản thân.

Một buổi tối lạnh lẽo, rét buốt ở miền bắc Virginia cách đây đã nhiều năm. Một ông lão với bộ râu lão cứng ngắc trong cái lạnh của mùa đông đang đợi có ai đó giúp đưa ông qua sông. Sự chờ đợi dường như vô tận. Cơ thể ông tê cóng và cứng đờ bởi những cơn gió bấc giá lạnh.

Bỗng ông nghe thấy tiếng ngựa phi nhịp nhàng đang đến gần men theo con đường đầy sương gió. Ông lo lắng nhìn khi một nhóm chàng trai phi ngựa rẽ qua khúc quanh. Ông đã để cho người đầu tiên chạy qua mà chẳng hề gọi. Sau đấy, một người khác đi qua, rồi một người nữa. Lúc này, tuyết đã rơi, trông ông lão giống như một bức tượng bằng tuyết, ông đã thấy người kỵ sĩ cuối cùng. Khi người này đến gần, ông già ra dấu với người kỵ sĩ rồi nói:

–  Chào cậu, cậu có phiền đưa già này sang bên kia sông được không? Chẳng có lối nào để đi bộ được cả.

Người kỵ sĩ ngồi trên ngựa đáp:

–  Được chứ, thưa bác. Bác nhảy lên đây nào.

Thấy ông lão không thể nhấc nổi cơ thể đã gần như đông cứng khỏi mặt đất, chàng trai nhảy xuống và giúp ông leo lên ngựa. Chàng kỵ sĩ không chỉ đưa ông già sang sông mà còn mang ông đến nơi ông định đến cách đó vài dặm nữa.

Khi đến gần một mái nhà tranh nhỏ xíu ấm cúng, chàng kỵ sĩ tò mò hỏi:

–  Thưa bác, cháu thấy bác đã để nhiều người cưõi ngựa khác chạy qua mà không nhờ lấy một ai để giúp qua sông. Khi cháu đến thì bác nhờ cháu ngay lập tức. Cháu thắc mắc không hiểu tại sao, vào một buổi tối mùa đông lạnh giá như thế này, bác lại đợi và nhờ người cuối cùng. Nếu cháu từ chối không giúp bác thì sao?

Ông lão từ từ leo xuống ngựa, nhìn thẳng vào mắt chàng trai, đáp:

–  Bác đã ngồi ở đấy một lúc rồi. Bác nghĩ mình biết cách nhìn người. Khi bác nhìn vào mắt những chàng trai kia bác nhận ra ngay là họ chẳng quan tâm gì đến tình cảnh của bác cả. Nhờ họ giúp cũng không ích gì. Nhưng khi nhìn vào mắt cháu, lòng tốt và sự thương người hiện lên rất rõ. Bác biết rằng thái độ dịu dàng của cháu sẽ mở ra cho bác cơ hội được giúp đỡ lúc bác cần.

Những lời ấm lòng đó của ông lão làm người kỵ sĩ hết sức cảm động.

–  Cháu hết sức cám ơn những gì bác vừa nói. – Anh nói với ông lão – Có lẽ sẽ chẳng bao giờ cháu quá bận rộn với chuyện riêng của mình mà không đáp lại những gì người khác cần bằng lòng nhiệt thành cả.

Vâng chúng ta hãy cố đừng để mình trở thành một người xa lạ, vô tâm, vô cảm với những người chung quanh mình. Nhưng hãy trở thành những người có trái tim rộng mở, biết chạnh lòng thương xót, biết chia sẻ, phục vụ. Tôi nhớ có lần Albert Einstein đã nói: “Một cuộc sống vì một cuộc sống khác mới là một cuộc sống xứng đáng.”

2. Còn mẹ Têrêsa: “Hãy trao tặng tình yêu thương ở mỗi nơi bạn đặt chân đến: trước hết là ở ngay chính căn nhà của bạn.

Hãy yêu thương con cái, người bạn đời của bạn, và cả những người hàng xóm…

Hãy đừng để người nào đến với bạn rồi ra đi mà không cảm thấy vui tươi và hạnh phúc hơn.

Hãy là hiện thân cho lòng nhân ái của Thượng Đế bằng cách thể hiện trên nét mặt, trong ánh mắt, trong nụ cười và cả trong những lời chào nồng nhiệt của mình.”

Một câu chuyện nhỏ từ Internet:

Vào một buổi sáng mùa đông, tuyết rơi nặng hạt. Tôi đứng ở một góc phố tối và lạnh lẽo chờ chuyến xe buýt đầu tiên trong ngày. Cách chỗ tôi đứng không xa, có hai vợ chồng già  cũng đứng chờ xe buýt. Chiếc áo khoác ngoài của họ bị tuyết phủ trắng xóa. Xem ra, họ đứng đợi xe đã khá lâu. Cuối cùng chiếc xe buýt cũng đến. Người lái xe bấm còi, đi lướt qua chỗ hai vợ chồng cụ già rồi dừng lại chỗ tôi đang đứng. Khi tôi vừa bước lên xe, người tài xế cho xe chạy ngay, bỏ lại hai vợ chồng già đứng trong tuyết. Tôi tức giận hỏi:

– Chẳng lẽ cậu không nhìn thấy hai vợ chồng già đó sao?

Người lái xe trẻ tuổi ấy nói:

– Hôm nay là ngày đầu tiên tôi đi làm. Hai cụ già đó là bố và mẹ tôi. Họ đến đây để xem tôi làm việc như thế nào.

Tôi bỗng rưng rưng xúc động.

Xét như thế, thì Nước Chúa thực là rộng lớn. Những người thuộc về Nước Chúa thực là đông đảo. Những người có trái tim yêu thương tạo nên thành Jêrusalem mới như ta nghe trong bài đọc thứ I hôm nay. Thành Jêrusalem mới có cửa mở ra 4 phương tám hướng để đón nhận mọi người từ khắp nơi tuốn về. Thành không có đền thờ vì thành được xây bằng yêu thương. Mà ở đâu có yêu thương thì ở đó có Thiên Chúa ngự trị. Thành không cần đèn đuốc vì Thiên Chúa tình yêu là ánh sáng cho thành. Gạch xây thành là những trái tim chan chứa yêu thương nên thành trở nên một khối pha lê trong suốt, như một viên ngọc quí toả ánh sáng tới khắp muôn dân.

Xin tình yêu Chúa thanh luyện trái tim chúng ta không ngừng, để mỗi trái tim chúng ta trở thành một viên gạch trong suốt như pha lê, góp phần xây dựng thành Jêrusalem mới cho tình yêu Thiên chúa ngự trị. Amen.

Thiếu nhi chúng con yêu quí,

Chúng con vừa được nghe một bài Tin Mừng nữa của Chúa Giêsu nói về luật yêu thương của Ngài.

1. Tuần trước cha đã nói với chúng con về hai tiếng yêu thương. Chắc chúng con còn nhớ những lời Chúa nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con thương yêu nhau”. Khi nói như thế Chúa, thứ hỏi Chúa muốn ám chỉ điều gì chúng con? Chúa muốn nói rằng người ta có thể phân biệt được ai là người thuộc về Chúa và ai là người không thuộc về Chúa. Người thuộc về Chúa là người biết yêu thương còn người không thuộc về Chúa là những không biết đến hai tiếng yêu thương. Như vậy điều chính yếu cho thấy những người thuộc về Chúa không phải là những người có mầu da, tiếng nói hay phong tục thói quen tốt nhưng là những người có trái tim.  Có trái tim có nghĩa là những người biết yêu thương. Chúng con có thấy trên mấy cái áo người ta hay in hình trái tim không. Cha thì dụ bằng tiếng Anh nhé. T+trái tim+Việtnam. Cha đố chúng con câu đó là gì nào? Thưa là tôi yêu Việt Nam.

Và hôm nay, chúng con được nghe Chúa nói thêm: “Ai yêu mến Thầy thì giữ Lời Thầy. Và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Và chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy”. Khi nói như thế Chúa Giê-su muốn nói điều gì?

Chúa muốn bảo rằng để Chúa biết ai là người yêu mến Chúa thật và ai là người không yêu Chúa thì cứ xem người đó có giữ Lời Chúa hay không. Cũng như chúng con yêu mến Cha mẹ thì chúng con giữ lời vâng lời cha mẹ vậy. Còn yêu mến Chúa thỉ phải giữ Lời Chúa.

“Ai yêu mến Thầy thì giữ Lời Thầy”  Như vậy việc giữ Lời Chúa làm cho mọi người trở thành người yêu mến Chúa. Và đây là lời hứa của Chúa dành cho những người yêu mến Chúa: “Và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Và chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy”. Thật là những lời hứa hết sức đặc biệt và cảm động. Được Thiên Chúa yêu mến, còn gì hạnh phúc hơn. Rồi còn được Chúa đến và ở trong. Chúng con thử nghĩ xem có ai trên đời làm được điều đó không? Cha tưởng chỉ có Chúa mới có thể làm được.

2. Nhưng làm thế nào để biết được người nào yêu và người nào không yêu mến Chúa? Dễ lắm! Chúng con hãy nghe lời thánh Gioan bảo:  “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì làm sao có thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy được (1Ga 4,20). Như vậy chúng con thấy yêu người là dấu chỉ (lại dấu chỉ nữa) yêu mến Thiên Chúa. Mà yêu người thì có đễ không chúng con?

Cha kể cho chúng con câu chuyện này:  Chuyện được đăng ở trên báo Tuổi trẻ ngày 28-12-2005. Tác giả kể lại câu chuyện này đặt cho nó một tựa đề là “Bà cụ lẩm cẩm”

Chuyện như sau: Ở khu tập thể nọ có rất nhiều người ở nhưng không ai lạ gì bà Ba. Mỗi sáng bà hay ngồi ở chiếc ghế đá trước cổng khu tập thể nhìn người này đưa con đi học, người khác đi chợ hoặc vội vàng đến công sở. Chiều, ai trở về cũng thấy bà vẫn ngồi chỗ ấy, bắt chuyện, hỏi thăm.

Nghe đâu trước đây bà đã từng lập gia đình. Nhưng chỉ vài năm sau người chồng bạc mệnh của bà đã mãi mãi ra đi trong một lần đánh cá ngoài khơi. Bà ở vậy từ đó đến giờ.

Nga là thư ký cho một tổng giám đốc người nước ngoài cũng ở trong khu tập thể đó. Cũng như bao người khác ở khu tập thể, Nga rất ít thời gian nên chưa bao giờ dừng lại để nói chuyện với bà. Bà có thói quen cứ mỗi lần thấy một người quen là bà luôn chào hỏi. Bà cũng rất muốn làm quen với mọi người. Có lần Bà đã muốn bắt chuyện với Nga nhưng việc đó làm Nga khó chịu và coi đó như là việc lẩm cẩm của một bà già!

Một lần kia khi Nga phải đi công tác xa, đi từ lúc trời chưa sáng. Oái oăm thay hôm đó do ngủ quên Nga vội vàng ào ra khỏi nhà mà quên khóa cửa. Gần cả ngày công tác trôi qua, Nga rụng rời tay chân khi nghĩ đến số tiền dành dụm được bấy lâu và số nữ trang cất trong tủ; rồi tivi, đầu đĩa, máy nghe nhạc…

Ruột gan Nga như lửa đốt trên đường về. Phải chi Nga biết số điện thoại của một vài người trong khu tập thể để hỏi thăm tình hình. Ờ, mà nếu biết, làm gì mình biết bụng dạ người ta…

Chiều tối vừa về tới nhà, Nga vội vàng lao vào nhà. Một bóng người nhỏ nhắn ngồi trước băng đá: đó là bà Ba. Thấy Nga, bà nói gì đó nhưng… mặc kệ, Nga vờ như không nghe thấy. Lúc này đây mớ tài sản của Nga trong nhà có còn hay không mới là điều quan trọng nhất.

Nga sững người đứng nhìn căn phòng đã khóa chặt cửa của mình, ghé mắt lại gần, xem kỹ: căn phòng được khóa bằng một ổ khóa lạ. Chưa biết thế nào thì bà Ba lom khom bước tới, trên tay cầm chìa khóa đưa cho Nga. Thì ra sáng dậy bà không thấy Nga đâu mà cửa lại mở toang. Biết Nga quên khóa cửa nên bà đã dùng khóa của mình khóa lại giúp. Bà ngồi đợi Nga đến khuya vì sợ cô về không vào được nhà.

Đêm đó Nga như thức trắng nghĩ về một bài học về sự quan tâm, chia sẻ trong cuộc sống – bài học từ một bà cụ “lẩm cẩm và lạc hậu” như cô đã từng nghĩ.

Đây có phải là yêu thương không chúng con?

Yêu thương là đừng để mình trở thành một người xa lạ, vô tâm, vô cảm với những người chung quanh mình. Nhưng hãy trở thành những người có trái tim rộng mở, biết chạnh lòng thương xót, biết chia sẻ, phục vụ. Cha nhớ có lần nhà Bác học Albert Einstein đã nói: “Một cuộc sống vì một cuộc sống khác mới là một cuộc sống xứng đáng.”

Còn mẹ thánh Têrêsa thì bảo:Bạn hãy là biểu lộ lòng nhân ái của Thiên Chúa ra ngay  trên nét mặt, trong ánh mắt, trong nụ cười và cả trong những lời chào nồng nhiệt của mình.”

Cha chúc chúng con làm được như thế. Amen.

Bài Tin Mừng hôm nay quá quen thuộc, tuy nhiên vẫn có nhiều điều chúng ta có thể nói với nhau.

1. Chúa ban điều răn mới: Phải chăng luật yêu thương bây giờ mới có?

– Không! Luật yêu thương đã có từ lâu, có ngay từ trong Cựu Ước.

Nhưng tại sao hôm nay Chúa lại nói về một giới răn mà Chúa bảo là mới?

– Giới luật yêu thương trong Cựu Ước theo ý của Chúa là giới răn yêu thương “cũ”. Giới răn này cũ không phải bởi hình thức nhưng là cũ trong nội dung. Sở dĩ tôi dám nói như thế là vì giới răn yêu thương trong Cựu Ước mới chỉ có tính cách tiêu cực và rất giới hạn, không những giới hạn trong cách thực hiện mà còn giới hạn trong đối tượng phải thực hiện tình yêu thương: Chẳng hạn như chỉ yêu thương những người yêu thương mình hoặc chỉ yêu thương những người cùng đạo với mình, cùng một tôn giáo với mình v.v..

Trái lại giới răn yêu thương mà Chúa gọi là mới thì có một nội dung sâu xa hơn. Đối tượng của luật đó cũng được mở rộng ra đối với tất cả mọi người kể cả những kẻ thù địch với mình. Đàng khác cách thức thực luật yêu thương thương cũng tích cực và quyết liệt hơn. Phải yêu thương như Chúa yêu. “Yêu như Thày yêu chúng con”. Mức độ Chúa đòi hỏi rất cao, nó không còn nằm ở trong phạm vi lòai người nữa mà phải vươn lên đến Thiên Chúa. “Yêu như Thầy”

2. Thế nào là yêu như Chúa?

a. Chúa không định nghĩa về Tình yêu như Ngài chỉ cho chúng ta cách thức để thực hiện, cách thức để sống luật yêu thương.

Chúng ta hãy chú ý một chút đến hoàn cảnh khi Chúa dậy về luật yêu thương. Lúc đó Chúa đang ở với các môn đệ trong nhà Tiệc ly. Tôi thấy Chúa đã làm ba việc rất đặc biệt có thể nói là khác thường, để tạo nên một ấn tượng làm cho các môn đệ của Chúa sau này hễ nhớ đến Chúa là phải nhớ đến những việc này:

* Việc khác thường thứ nhất: Chúa quì xuống rửa chân cho các môn đệ.

Chẳng cần phải nói anh chị em cũng thấy được đây là một việc làm thật khó hiểu.

Ông Phêrô một trong những môn đệ thân tín của Chúa hầu như đã không còn làm chủ được sự xúc động của mình, nên ông đã phải lên tiếng công khai xin Chúa đừng làm như thế đối với ông. Thế nhưng không những Chúa không thuận theo đề nghị của ông mà ngược lại Chúa còn làm cho ông hoảng sợ khi Chúa đe doạ cắt đứt mối dây thân tình đối với ông nếu ông không để cho Ngài làm những việc Ngài muốn.

Thế là tất cả các môn đệ đã được chính Chúa Giêsu quì xuống rửa chân cho. Đây là việc khác thường thứ nhất.

* Việc khác thường thứ hai là Chúa chọn đúng lúc các môn đệ đang ngỡ ngàng về việc Chúa vừa làm cho mình để tuyên bố cho họ biết về một sự việc làm cho các ông cảm thấy choáng váng. Chúa nói: “Một người trong các con sẽ nộp Thầy”. Tin Mừng cho chúng ta biết ngay sau khi Chúa nói những lời đó thì tất cả môn đệ đều hoang mang không biết Chúa nói về ai.

* Việc khác thường thứ ba: “Chúa mời cho các môn đệ ăn chính mình và uống Máu của Ngài”.

Chúa cầm lấy bánh đã biến thành Mình Chúa và Rượu đã trở thành Máu của Chúa rồi Chúa bảo các môn đệ của Ngài: “Hãy cầm lấy mà ăn – Hãy lãnh nhận mà uống”. Xưa nay chẳng có ai có thể lấy thịt mình mà cho người khác ăn, lấy máu mình mà cho người khác uống. Vậy mà hôm nay chính Chúa đã làm như thế.

b. Chúng ta tự hỏi: Chúa làm như thế để làm gì?

Thưa để  cắt nghĩa một phần nào về giới răn yêu thương mới của Ngài .

* Yêu thương trước hết là phục vụ. Khi đã yêu thương thì người ta sẽ chẳng quản ngại bất cứ một công việc nào dù công việc đó là công việc có tính thấp hèn đến như thế nào đi nữa.

* Yêu thương là hy sinh biết quên mình vì người khác. Khi chịu chết trên Thập giá Chúa Giêsu đã hy sinh mạng sống của mình để đền tội cho cả lòai người chúng ta. Thánh Phao-lô còn quả quyết thêm: “Ngài – Chúa Giêsu – phận là phận Thiên Chúa nhưng Ngài đã quên mình, tự hủy ra như không vì phần rỗi thế gian”

* Và cuối cùng “Yêu thương còn là ban tặng, là dâng hiến” Chúa Giêsu đã ban tặng cho chúng ta không phải chỉ là một phẩm vật mà là chính mình. “Đây là mình Thầy chúng con cầm lấy mà ăn. Đây là máu Thầy chúng con hãy cầm lấy mà uống.” Yêu là cho đi. Cho đi ít là dấu chỉ yêu thương ít. Cho đi nhiều là dấu chỉ yêu thương nhiều. Cho tất cả là dấu chỉ của một tình yêu thương không bờ không bến”

Đó là bài học Chúa muốn dạy cho chúng ta. Yêu thương là phục vụ trong hy sinh với tinh thần tự hiến. Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của một người đã hiến thân vì người mình yêu.

3. Chúng ta có thể yêu như Chúa không?

Có. Xin minh họa bằng một thí dụ.

Có một cậu bé tự cho mình là đứa trẻ bất hạnh nhất thế giới này. Trong con mắt của bạn bè, cậu là kẻ nhát gan, yếu đuối. Trên nét mặt cậu thường lộ vẻ sợ hãi. Cậu thở phì phò giống người ta kẻo bễ vậy. Khi bị cô giáo gọi đứng dậy đọc bài hay trả lời câu hỏi, đôi chân cậu lập tức run rẩy, môi liên tục mấp máy. Đương nhiên, cậu trả lời ấp úng và đứt quãng. Cuối cùng, cậu đỏ mặt xấu hổ quay về chỗ ngồi. Nếu cậu có một gương mặt đẹp, thì người khác có thể cảm tình với cậu một chút. Nhưng khi bạn thương hại nhìn cậu ta, thì bạn có thể nhìn thấy hàm răng hô xấu xí của cậu.

Vào một ngày mùa xuân, bố cậu bé xin nhà hàng xóm một ít cây giống. Bố cậu muốn trồng chúng trước nhà. Ông bảo các con, mỗi đứa trồng một cây. Ông nói với chúng, cây của ai lớn nhanh nhất, người đó sẽ được ông tặng cho một món quà giá trị. Cậu bé ấy cũng muốn nhận được món quà.

Nhưng khi nhìn thấy anh chị em hào hứng chạy đi chạy lại tưới nước cho cây, không hiểu tại sao, trong đầu cậu lại nảy sinh ý nghĩ kỳ quặc: cậu mong cái cây mình trồng mau chóng chết đi. Vì thế, cậu chỉ tưới nước cho cây hai lần, sau đó bỏ mặc nó.

Một tuần sau, khi xem cái cây mình trồng, cậu bé ngạc nhiên phát hiện nó không những không héo úa, mà còn mọc ra mấy cái lá xanh nõn nà. So với những cái cây mà anh chị em cậu trồng, nó dường như tươi tốt hơn và tràn đầy sức sống. Bố cậu thực hiện đúng lời hứa, mua cho cậu một món quà mà cậu thích nhất. Đồng thời, ông còn nói với cậu, cứ xem cách cậu trồng cây, thì sau này chắc chắn cậu sẽ trở thành một nhà thực vật học xuất sắc.

Từ đó trở đi, cậu bé dần dần trở nên lạc quan.

Vào một buổi tối, cậu bé trằn trọc không sao ngủ được. Nhìn ánh trăng vằng vặc ngoài sân, cậu chợt nhớ đến câu nói của thầy giáo dạy sinh vật: thực vật thường lớn lên vào lúc trời tối. Cậu nghĩ bụng, tại sao mình không xem thử xem cái cây mình trồng lớn như thế nào nhỉ? Khi cậu rón rén đi ra ngoài sân. Cậu nhìn thấy bố đang dùng gáo tưới nước cho cái cây cậu trồng. Ngay lập tức, cậu hiểu ra tất cả. Hóa ra, bố cậu âm thầm bón phân cho cái cây cậu trồng. Cậu trở về phòng ngủ, gục mặt xuống giương mặc cho nước mắt chảy đầm đìa trên khuôn mặt.

Thấm thoắt mấy chục năm đã trôi qua. Cậu bé với đôi chân tập tễnh ấy mặc dù không trở thành một nhà thực vật học như ước nguyện của người cha, nhưng lại trở thành tổng thống của nước Mỹ. Tên của ông là Franklin Roosevelt.

Tình yêu chính là chất dinh dưỡng tốt nhất của cuộc đời. Chỉ cần một gáo nhỏ, nhưng nó cũng có thể làm cho cái cây của cuộc đời trở nên tươi tốt, cành lá xum xuê. Có thể cái cây đó rất bình thường, có thể cái cây đó rất nhỏ bé, thậm chí còn héo úa, nhưng chỉ cần được chăm bón bởi chất dinh dưỡng này, thì nó vẫn có thể trở thành những thân cây tươi tốt, thậm chí còn cao lớn chọc trời.