Tin mừng chúng ta vừa nghe thuật lại cho chúng ta về việc Gioan Tẩy Giả bị chất vấn.

  1. Phái Đoàn Đến Chất Vấn Gioan Tẩy Giả Hôm Nay Gồm Hai Nhóm.

Nhóm thứ nhất có các thầy tư tế và người Lêvi. Họ chú ý đến Gioan Tẩy Giả là điều tự nhiên, vì ông là con của Giacaria, mà Giacaria là thầy tư tế (Lv l,5).

Trong Do Thái giáo, chức vụ tư tế là do cha truyền con nối. Người nào không phải là hậu duệ của Aaron, thì không có gì làm cho người ấy trở thành thầy tư tế được.

Còn nếu người ấy là con cháu của Aaron thì đương nhiên sẽ trở thành tư tế. Do đó dưới con mắt của các nhà cầm quyền, Gioan Tẩy Giả quả là một thầy tư tế, và tự nhiên các thầy tư tế phải tìm hiểu xem tại sao lại có một thầy tư tế hành động bất thường như vậy.

* Nhóm thứ hai gồm những người đại diện cho giới Biệt phái. Rất có thể là sau lưng họ còn có Toà án Tối Cao.

Một trong những nhiệm vụ của Tòa án Tối Cao là phải đối phó với những ai bị nghi ngờ là tiên tri giả. Gioan Tẩy Giả là một nhà truyền đạo được dân chúng mến chuộng và theo rất đông. Có lẽ Tòa án Tối cao thấy họ có trách nhiệm phải tra xét xem ông có phải là tiên tri thật hay không. Gioan Tẩy Giả đã không theo đúng cung cách bình thường của một thầy tư tế và ông cũng không theo đúng phong thái của một nhà giảng đạo. Chính vì thế mà các nhà chức trách tôn giáo thời đó bó buộc phải nhìn ông với cặp mắt nghi kỵ. Đó cũng là một điều hết sức tự nhiên.

1. Họ hỏi ông có phải là Đấng Messia không ? Tại sao họ lại hỏi ông như thế ? Thưa vì dân Do Thái đã trông chờ Đấng Messia từ rất lâu. Thậm chí cho đến lúc đó người ta cũng vẫn còn đang trông chờ. Bất cứ một dân tộc nào đang bị đô hộ cũng trông mong được giải phóng như thế. Dân Do Thái tin rằng họ là tuyển dân của Chúa Giavê nên họ không nghi ngờ gì về việc chẳng chóng thì chày Thiên Chúa sẽ can thiệp để cứu dân Ngài. Họ trông chờ một Đấng Messia sẽ đem hòa bình đến cho cả thế giới. Cho nên khi họ hỏi Gioan Tẩy Giả xem ông có phải là một Đấng Messia hay không thì đó là một điều rất hợp lý.

Gioan bác bỏ hoàn toàn việc tung hô đó: “Tôi không phải là Đấng Messia.”

2. Họ hỏi ông có phải là Êlia không.

Dân Do Thái tin rằng trước khi Đấng Messia giáng lâm, Êlia sẽ trở lại để loan báo trước và chuẩn bị cho thế gian tiếp rước Ngài. Đặc biệt Êlia sẽ đến để dàn xếp mọi bất hoà. Ngài sẽ phân định những gì và những ai là thanh sạch hay không thanh sạch. Ngài sẽ phân chia đâu là người Do Thái, đâu là người ngoại bang. Ngài sẽ đem lại đoàn kết, hoà thuận cho các gia đình từng xa lạ với nhau.

Họ tin tưởng điều đó mạnh đến nỗi luật xưa của người Do thái nói rằng nếu có gì về tiền bạc hay của cải còn đang tranh chấp, hoặc bất cứ tài sản nào còn bị xem là vô chủ thì đều phải đợi “cho tới khi nào Êlia đến”. Niềm tin rằng Êlia phải đến trước Đấng Messia bắt nguồn từ Malakia 4,5. Người ta còn tin rằng chính Êlia sẽ xức dầu cho Đấng Messia làm vua cũng như tất cả các vua đã được xức dầu.

Gioan Tẩy Giả cũng phủ nhận tất cả những vinh dự đó.

3. Họ hỏi ông có phải là nhà tiên tri được hứa ban và mọi người trông đợi không.

Căn cứ vào lời bảo đảm của lãnh tụ Môsê với dân trong sách Thứ Luật 18,15: “Từ giữa anh em, trong số các anh em của anh (em), Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để giúp anh (em); anh em hãy nghe vị ấy”.

Đó là lời hứa mà dân Do Thái sẽ không bao giờ quên. Họ chờ đợi sự xuất hiện của một nhân vật sẽ là tiên tri vĩ đại nhất và trông mong nhân vật ấy như là nhà “tiên tri lý tưởng”. Có nhiều người còn nghĩ rằng cả Isaia và nhất là Giêrêmia cũng sẽ trở lại lúc Đấng Messia đến.

Nhưng lại một lần nữa Gioan Tẩy Giả không thừa nhận vinh quang là của mình.

Vậy họ hỏi ông là ai ?

Ông nói mình chỉ là tiếng nói khuyến giục mọi người dọn đường cho Nhà Vua. Ý ông muốn nhắc lại một lời trong Isaia 40,3 mà tất cả các Tin Mừng đều trích dẫn câu này để ám chỉ Gioan Tẩy Giả. Ý niệm ẩn tàng trong câu ấy là: “Đường đi bên Đông phương, mặt đường gồ ghề và thường chỉ là những lối mòn. Khi một vị vua sắp đến thăm một tỉnh, hoặc khi nhà chinh phục sắp kéo quân đi qua lãnh thổ của mình thì đường xá phải được san bằng, dọn thẳng thu xếp lại cho có trật tự.” Điều mà Gioan Tẩy Giả muốn nói với mọi người là: “Ta chẳng là ai cả, ta chỉ là tiếng kêu, kêu gọi các người hãy chuẩn bị sẵn sàng đợi nhà vua đến”. Ông muốn nhắc lại rằng: “Hãy tự sửa soạn đi! Nhà vua đã lên đường rồi đó”. Ông muốn mọi người hãy quên ông đi để chỉ thấy Nhà Vua mà thôi.

2. Bài Học

Tới đây chúng ta có thể dừng lại. Thử hỏi chúng ta có thể tìm được bài học nào cho chúng ta trong hoàn cảnh hôm nay hay không ? Có rất nhiều bài học nhưng tôi xin được nói tới sự trung thực nơi con người của Gioan.

Trước hết là sự trung thực trong lời nói: Rất trung thực khi nói về chính mình, không dám nhận những vinh quang mà người đời gán cho.

Thứ đến là trung thực với lòng mình. Chính vì muốn trung thực với lòng mình nên ngài đã vui lòng chấp nhận một cuộc sống khổ hạnh, không phô trương, không giả dối.

Vá cuối cùng là trung thực trong những phán đoán về người khác. Ngài đã không sợ khi phải thẳng thắn khuyên vua Hêrôđê không được phép lấy vợ của anh mình. Vì sự sự trung thực này mà Ngài đã phải trả giá bằng cái chết chẳng toàn thây. Nhưng sự trung thực ấy đã làm sáng lên cuộc đời chứng nhân của mình.

Đức Cha Tiamer Toth trong một cuốn sách viết cho giới trẻ có tựa đề là “Chí khí người thanh niên” có nói đến một tấm gương mà ngài ước mong mọi người hãy nhìn vào đó mà bắt chước. Truyện như thế này: Regulus là một tướng của La Mã bị quân Carthage bắt làm tù binh. Sau một thời gian mệt mỏi vì chiến tranh, người Carthage muốn cầu hòa với người La Mã. Người mà thành Carthage chọn để đứng đầu phái đoàn lại chính tướng Regulus. Trước khi lên đường dân Carthage bắt Regulus phải thề: nếu sứ mạng cầu hòa của họ bị thất bại thì Regulus phải trở về nhà tù trở lại. Regulus đã thề.

Chúng ta có thể tưởng tượng được sự xúc động của tướng Regulus khi về tới La Mã, thành phố quê hương yêu quý của ông như thế nào không! Rất vui mừng nhưng cũng đầy khó khăn. Regulus sẽ phải hành động làm sao đây ?

Với tất cả tài lợi khẩu, ông yêu cầu thượng nghị viện cứ tiếp tục chiến tranh; nghị viện yêu cầu ông ở lại La Mã, viện cớ rằng: lời thề vì cưỡng bách không có giá trị. Nhưng ông trả lời:

“Các ngài có muốn để tôi mất danh dự không ? Tôi thừa biết rằng những khổ hình và giờ chết đang đợi tôi khi tôi trở lại. Nhưng những cái ấy không thấm thía vào đâu khi so sánh với sự ô nhục của một hành động bất lương với sự tổn thương của tâm hồn do một lời nói dối. Đành rằng tôi sẽ lại là tù binh của dân Cathage nhưng ít ra tôi vẫn giữ được chí khí của tôi mà dân La Mã sẵn có với sự trong sạch của nó. Tôi đã thề hứa sẽ trở về với họ thì tôi giữ lời hứa cho đến cùng. Vì thế các ngài hãy phó mặc mạng sống tôi cho các Thần Thánh”.

Và Regulus đã trở về Cathage, ở đấy tướng công đã chết giữa những cực hình khủng khiếp.

Đó là chí khí và lòng quả cảm của một người công dân La Mã!

Gioan cũng đã sống như vậy và Chúa Giêsu Chúa của chúng ta chắc cũng muốn cho chúng ta sống như thế. Amen.

Thiếu nhi chúng con yêu quí.

Lại một lần nữa chúng ta nói chuyện với nhau về Ông Gioan Tẩy Giả.

Cha đố chúng con biết trong bài Tin Mừng hôm nay Gioan Tẩy Giả đã làm gì ?

– Thưa ông đã làm chứng cho Chúa.

– Chúng con trả lời rất đúng.

1. Lời chứng của Gioan Tẩy Giả.

Trong bài Tin Mừng hôm nay cụm từ làm chứng được dùng đến bốn lần.

Gioan được sai đến để làm chứng (x. c.6-7).

Cả câu chuyện xảy ra ở Bêtania, bên kia sông Giođan, là một lời chứng hùng hồn của ông (c.19).

Gioan không làm chứng cho mình hay về mình, bởi lẽ ông không phải là Ánh Sáng.

Ðiều kiện tiên quyết của người làm chứng là sống đúng như chứng từ của mình.

Martin Luther King viết: “Chúng ta không chỉ làm chứng bằng lời nói, mà còn làm chứng bằng cuộc sống của mình”. Có những tâm hồn dần dần cải hóa nhờ việc làm của ta, nhưng chính ta lại không ngờ tới. J. Basquin nói: “Sống chứng nhân không phải là đuổi theo các tâm hồn, mà là sống làm sao để các tâm hồn chạy theo ta”.

Gioan Tẩy giả là người làm chứng như thế. Ðoạn Tin Mừng hôm nay viết: “Ông đến để làm chứng về ánh sáng”. Trung thực với chứng từ này, một mặt ông cố gắng chỉ cho người ta thấy Ánh Sáng là ai, mặt khác khi có người tưởng ông là Ánh sáng ấy thì ông thẳng thắn phủ nhận. Rồi khi Ánh sáng xuất hiện, ông âm thầm rút lui: “Ngài phải sáng lên, còn tôi phải mờ đi”.

Sứ mạng của Gioan Tẩy Giả là làm chứng cho Sự Sáng đích thực chính là Ðức Kitô. Ðức Kitô đến để chiếu ánh sáng cho trần gian. Toàn bộ Tin mừng Gioan chỉ là để trả lời cho câu hỏi này: “Giêsu Nagiarét, Người là ai ?” Gioan không dùng danh từ Phúc âm mà chỉ dùng từ ngữ “chứng nhân”. Ðộng từ “làm chứng” được Gioan nhắc đến 33 lần. Tin Mừng Gioan được khai mở bằng lời chứng của Gioan Tiền Hô và kết thúc với minh chứng của Gioan Tông đồ: “Chính môn đệ này làm chứng về những việc đó và đã viết ra. Chúng tôi biết lời chứng của người ấy xác thực” (Ga. 21, 24).

Qua lối sống khổ hạnh khác người, qua lời rao giảng sám hối, và qua lời chứng: “Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi” (Ga. 1, 23) đã minh chứng Gioan là vị Tiền Hô của Ðấng Cứu Thế, là chứng nhân của Thiên Chúa. Gioan chỉ đứng ra làm chứng và báo trước ngày Chúa xuất hiện, rồi rút lui vào bóng tối.

Có thể nói, Gioan là người tôi tớ, còn Ðức Giêsu mới là ông chủ, Gioan là đèn soi, còn Ðức Giêsu mới là ánh sáng, Gioan là tiếng kêu, và Ðức Giêsu mới là lời hằng sống.

Đây chúng con hãy nghe một lời chúng nữa về Chúa. Lời chứng này không phải là lời chứng có từ thuở xưa mà là lời chứng của những người sống với chúng ta ngày hôm nay. Cha muốn nói đến cuộc sống của Thánh Gioan Vianney như một con người sống giữa thế giới hôm nay như là một con người đang sống để qua ngài mọi người thấy được Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương con người.

Đây là lời chứng của một người bổn đạo: Mấy mươi năm liền, ngài luôn giam mình trong toà giải tội, mỗi ngày 18 tiếng đồng hồ, để đem các tội nhân về trong vòng tay Chúa. Không những thế, ngài còn luôn canh cánh bên lòng mối bận tâm về cảnh nghèo túng cơ cực của nhân dân. Chính ngài đã lập nên các viện cô nhi, lớp học mẫu giáo và sẵn sàng cho kẻ nghèo tất cả những gì ngài có hay kiếm được.

Trong lúc toà án giáo phận Belley đang tiến hành việc điều tra về hạnh tích của vị Linh mục, đề lập hồ sơ xin phong thánh, thì có một cụ già quê mùa nghèo khó đến làm chứng như sau:

“Hôm ấy, trời đã sẩm tối, tôi thấy cha Vianney đi giúp tuần đại phúc ở một xứ xa về; giữa đường vắng chỉ có tôi với ngài; vừa gặp tôi, ngài liền lên tiếng chúc một cách vui vẻ:

– Chào ông, mấy lâu nay có được khoẻ không ?

Công việc làm ăn ra sao ?

Chào cha, dạ cám ơn Chúa, con cũng thường luôn; nhưng cũng giấu gì cha, con túng thiếu quá, mất liên tiếp ba vụ mùa liền!

– Tội nghiệp! Tôi thương ông và các cháu lắm:

– Chúng nó rất ngoan.

Vừa nói ngài vừa xỏ tay vào túi áo, lục soát khắp cùng mà cũng chẳng lòi ra được một xu. Nhìn trước nhìn sau, ngài ghé vào tai tôi bảo nhỏ:

– Ông chịu khó đợi cha một chút nghe!

Tôi vâng lời đứng đợi. Ngài rón rén đi ra sau một lùm cây… Mấy phút sau ngài trở lại, trao tận tay tôi một vật và nói:

– Cha không còn gì cả. Ông vui lòng lấy cái quần của cha đây đem bán mà mua bánh mì cho các cháu. Ông thông cảm, bữa sau có gì cha sẽ giúp cho thêm. Thôi chào ông nhé!

Tôi chưa kịp cám ơn vì quá xúc động nghẹn ngào thì bóng dáng ngài đã biến mất sau hàng cây ở trước mặt…”

Cũng trong dịp điều tra để phong thánh cho vị Linh mục thánh thiện, một bác nhà quê khác đã làm chứng rằng: ‘Tôi quê mùa chất phác, chẳng biết nói chi, chỉ xin thưa thế này: Tôi nghĩ Thiên Chúa hẳn tốt lành vô cùng vì cha sở chúng tôi là một người phàm giữa thế gian mà đã tốt lành quá sức tưởng tượng…”

2. Lời chứng của mỗi người chúng ta.

Như Gioan, người tín hữu cũng phải là chứng nhân cho Ðức Kitô trong cuộc sống. Về điểm này, Teihard de Chardin đã ví von rất sống động: “Ánh sáng xuyên qua những áng mây, người ta đoán là có mặt trời trên đó. Nhìn vào đời sống chúng ta mọi người cũng đoán được có Ðức Kitô”.

Một ngày Chủ nhật nọ, có một người đàn ông đã từng sống một đời sống vô cùng lạnh nhạt, khô khan về việc đạo. Tình cờ ông đi ngang qua nhà thờ giáo xứ Churning, ông gặp một cô bé đang vào nhà thờ với các em nhỏ khác. Ông dừng lại quan sát thái độ tử tế khác lạ của cô và ông đã theo cô vào nhà thờ lúc nào không hay. Trong nhà nguyện chật chội và nghèo nàn đó, ông thấy cô ngoan ngoãn quì xuống đất, chắp tay ngước mắt nhìn Chúa Giêsu trong Nhà Tạm với tất cả lòng tin yêu cung kính như khi ta đến trước mặt người có chức tước đáng quí trọng. Tới lúc vị linh mục dâng thánh lễ, ông cũng quì gối để dễ bề quan sát thái độ của cô. Ông cảm động khi thấy gương mặt của cô tươi đẹp như người xuất thần với đức tin mạnh mẽ vào sự hiện diện của Chúa trong phép Thánh Thể. Cảm động, ông trở về nhà và từ đó ông ăn năn trở lại sống đời giáo hữu thật sốt sắng.

Cô bé đó chính là Laura Diconia, có lẽ cô không nhận ra hiệu lực của lòng sốt sắng nơi mình, nhưng chính hành vi và lẽ sống của cô đã là một chứng tá cho đức tin và tình yêu Chúa. Thái độ bên ngoài của cô tuy rất tầm thường và đơn sơ nhưng chính sự trịnh trong của tâm hồn và tình yêu sâu đậm của con tim đã mặc cho những cử chỉ bên ngoài đó một vẻ sâu xa khác thường khiến cho người ta cảm thấy ngay sự hiện diện của Chúa.

Ước gì khi nhìn vào đời sống chúng ta, mọi người cũng có thể nói như đã nói về Thánh Gioan Vianney “Tôi đã thấy Thiên Chúa trong một con người”.

Kính thưa anh chị em

Hằng năm cứ mỗi lần Mùa Vọng trở về là chúng ta có dịp gặp lại một trong những khuôn mặt rất đặc biệt của Tin Mừng. Tôi muốn nói đến Gioan Tẩy Giả.

I. Hồi ấy Gioan xuất hiện trong hoang địa miền Giuđêa. Ông xuất hiện với một cung cách hơi đặc biệt. Tin Mừng nói về ông như sau: “Ông mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da thú, cũng chẳng muốn khác người, nhưng ông làm thế là vì ông ý thức về sứ mệnh cao cả của mình. Ông đã từ bỏ hầu như hết mọi thứ mà người đời thường tìm kiếm.

a/ Ăn mặc: Ông ăn mặc rất đơn sơ dân dã.

Làm người ai mà chẳng muốn ăn ngon mặc đẹp ? Gioan có đủ và có thể nói còn có dư điều kiện để làm việc đó. Chúng ta nhớ ông là người con duy nhất của một gia đình giàu có. Cha mẹ ông là người có địa vị, có thế giá trong xã hội. Vì cha của Gioan Thuộc giai cấp tư tế. Thế nhưng Gioan đã hy sinh.

Của ăn thức uống của ông không phải là những thứ cao lương mỹ vị. Tin Mừng cho chúng ta biết ông ăn châu chấu và thêm vào đó có một chút mật ong trong rừng. Áo mặc của ông cũng không phải là thứ đắt tiền. Chúng được làm bằng lông da thú, một thứ áo mặc thường dùng của những người mục tử nghèo khó. Đôi dép ông mang ở dưới chân cũng thế. Tất cả đều bằng da thú – vừa sẵn có vừa rẻ tiền.

b/ Về cuộc sống thường ngày của ông thì thánh Luca bảo: ngay từ thuở còn niên thiếu ông đã chọn chốn hoang vu làm nơi cư ngụ cho mình. Ông tự nguyện sống một cuộc sống khắc khổ khó khăn như thế để tự rèn luyện mình nên một con người sắt đá hầu có thể đối mặt, đương đầu với những thách đố do sứ mệnh của ông đòi buộc sau này.

Claude Tassin nói về ông như thế này: “Ông không lập dị nhưng ông coi thường những tiện nghi vật chất. Ông muốn sống hoàn toàn tự do không để cho mình bị ràng buộc vào bất cứ một thứ gì mà người trần thế coi trọng”. Ta có thể tóm lại trong hai tiếng: Ông muốn sống siêu thoát để ông được tự do hành động theo sứ mạng của ông. Đó là sứ mạng dọn đường cho Chúa

Một khách du khách nhân lúc mệt mỏi trưa vắng đã ghé vào túp lều tranh của vị thừa sai trong một làng xa xôi hẻo lánh tại Ấn Độ. Bước vào lều, người khách chỉ thấy có cái chõng tre trải chiếu sơ sài, cái bàn cái ghế cũng bằng tre với đống sách trong góc nhà.

Anh không hiểu sao một linh mục thừa sai mà sống đơn sơ nghèo khó đến thế, có thể nói được khắc khổ nữa là khác. Anh ngạc nhiên hỏi linh mục:

– Thưa Cha, đồ đạc của Cha chỉ có bấy nhiêu đó thôi sao ? Vị thừa sai mỉm cười đáp:

– Vậy chớ đồ đạc anh bao nhiêu ? Chỉ có chiếc ba lô nhỏ đó chớ gì.

Anh thành thật đáp:

– Nhưng con chỉ là khách du lịch. Con đi đường vài ngày, đâu cần mang theo đồ đạc nhiều. Còn cha ở luôn đây.

Vị thừa sai hóm hỉnh nói:

– Anh là khách đi đường. Tôi cũng thế. Tôi chỉ là khách dọn đường

Phải chăng vị thừa sai và thánh Gioan Tiền hô muốn dạy chúng ta: muôn dọn sẵn đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đến cứu chúng ta, chúng ta phải hy sinh từ bỏ tất cả những gì là chướng ngại vật.

II. Bây giờ chúng ta hãy nghe lại nội dung những lời ông tuyên bố trong bài Tin Mừng hôm nay: Hãy dọn đường cho Chúa.(Mc 1,3)

Vâng “Hãy dọn đường”. Đường đi có một giá trị rất quan trọng trong cuộc sống.

Chắc anh chị em đã từng được đi trên những con đường cao tốc mới có ở Việt nam gần đây. Những ai đã từng được đi trên con đường cao tốc, chúng ta đã cảm nhận được sự tiện lợi và thoải mái như thế nào.

Vâng! Con đường vật lý mà đã cần như thế thì con đường thiêng liêng còn cần như thế nào. Nếu con đường vật chất hư hỏng thì tai nạn sẽ rất dễ xảy ra. Cũng vậy nếu con đường thiêng liêng không tốt đẹp thì sự tương giao gặp gỡ giữa người với người hay giữa người với Thiên Chúa sẽ bị bế tắc.

Như vậy, ta cần có những con đường thiêng liêng thật tốt để đón Chúa đến.

Thật ra Chúa đã đến từ lâu, từ hơn hai mươi thế kỷ nay nhưng nhiều người vẫn chưa gặp được Chúa. Tại sao thế ?

Thưa vì tâm hồn con người còn có những đỉnh đồi kiêu ngạo luôn muốn nâng mình lên, luôn khoe khoang, không bao giờ chịu thua kém người khác.

Vì Tâm hồn con người còn có những ngọn núi cao tự ái, không bao giờ chịu nhận lỗi, không bao giờ chịu tha thứ.

Vì tâm hồn con người còn có những hố sâu tham lam muốn chiếm đoạt tất cả, muốn thu vén tất cả vào túi riêng.

Vì tâm hồn con người còn có những hố sâu chia rẽ, thích gây ra bất hoà, luôn giận hờn, luôn ganh ghét, luôn nghi kỵ.

Vì tâm con người còn có những hố sâu đam mê, miệt mài đuổi theo danh, lợi, thú.

Vì tâm con người còn có những hố sâu dục vọng nặng nề thú tính.

Vì tâm con người còn có những khúc quanh co của sự dối trá, không thành thật với Chúa, không thành thật với người khác và không thành thật với cả chính mình.

Vì tâm con người còn có những khúc quanh co của sự trốn tránh bổn phận, của sự giả hình, của sự thiếu duyệt xét lương tâm.

Vì tâm con người còn có những lượn sóng gồ ghề của những lời nói độc ác, tàn nhẫn.

Vì tâm con người còn gồ ghề vì thói lười biếng không chịu cố gắng thăng tiến bản thân, ưa phê bình chỉ trích thiếu tính cách xây dựng.

Vâng! Tất cả những ngọn đồi, những vực sâu, những khúc quanh co, những lượn sóng gồ ghề ấy đang ngăn chặn Chúa đến với ta. Chính vì thế mà hôm nay, thánh Gioan Tẩy Giả mời gọi ta hãy sửa con đường thiêng liêng cho tốt đẹp để đón Chúa Giêsu đến.

Đổi mới một con đường vật chất thì dễ, nhưng đổi mới tâm hồn không dễ chút nào. Nhiều khi phải thật can đảm người ta mới có thể làm được

Charles de Foucauld là một sĩ quan kỵ mã, vì mê cô đào Mimi, phạm quân kỷ, nên đã bị loại khỏi gia đình quân đội. Từ đó Charles de Foucauld đã sống một đời tội lỗi, xa bỏ Chúa. Vì mất ơn Chúa, đức tin trở nên yếu ớt, Charles de Foucauld đã có những tư tưởng chống đạo. Một lần kia, đến gặp cha Huvelin, Charles de Foucauld muốn bày tỏ những tư tưởng nghịch đạo, và xin giải đáp những thắc mắc. Cha Huvelin biết Charles de Foucauld là người đạo dòng, sống xa Chúa, kém đức tin; và như được ơn Chúa soi sáng, cha nói với Charles de Foucauld:

– Anh cứ dọn mình xưng tội đi đã, rồi tôi sẽ giải đáp mọi thắc mắc cho anh cách thỏa đáng.

Cha Huvelin đã giúp cho Charles de Foucauld dọn mình xưng tội cách sốt sắng. Sau khi lãnh phép giải tội, ơn Chúa đổ tràn xuống tâm hồn anh, khiến đức tin anh trở nên mạnh mẽ, đến nỗi khi cha Huvelin hỏi:

– Bây giờ có thắc mắc gì anh hãy nói.

Charles de Foucauld trả lời:

– Thưa cha, sau khi chịu phép giải tội, con thấy các thắc mắc và tư tưởng chống đạo đều tan biến hết.

Rồi từ lúc đó, Charles de Foucauld quyết chí bỏ thế gian, đi tu làm linh mục, lập tu hội Tiểu đệ và Tiểu muội, chuyên lo việc thờ phượng Chúa và thực thi đức bác ái giúp đỡ tha nhân.

Trong chúng ta cũng thế, tội nhẹ là quả đồi, tội trọng là quả núi, đã ngăn cản con đường không cho Chúa đến ban ơn cho ta. Vậy trong Mùa Vọng này, Giáo hội khuyên chúng ta hãy dọn mình xưng tội, để bạt đồi núi trong linh hồn, để dọn cho Chúa một con đường nhẵn nhụi và phẳng phiu, để Chúa đến ban ơn cho chúng ta trong ngày lễ Giáng sinh của Chúa như Chúa đã ban ơn cho cha Charles de Foucauld sau khi chịu phép giải tội.

Thiếu nhi chúng con yêu quý.

Chúng con đang sống trong Mùa Vọng. Mùa Vọng là Mùa chuẩn bị đón Chúa đến. Thường thì trong cuộc sống mỗi khi có một nhân vật nào quan trọng xuất hiện thì chúng con thấy người ta luôn phải có sự chuẩn bị. Nhân vật càng lớn, càng quan trọng thì người ta lại càng phải chuẩn bị kỹ hơn.

Tin mừng hôm nay nói về Gioan Tẩy giả. Gioan Tẩy Giả là người đến trước để dọn đường cho Chúa.

Ông Gioan đã chuẩn bị đón Chúa như thế nào chúng con ? Chúng con thấy Gioan rất hay. Trước khi ông xuất hiện để chuẩn bị cho mọi người đón Chúa thì chính ông, ông cũng đã tự dọn đường để Chúa đến với mình trước.

1. Gioan dọn đường để Chúa đến với mình.

Đọc Tin Mừng hôm nay chúng ta thấy ông Gioan xuất hiện trong hoang địa. Nhìn vào cuộc sống của Ông, chúng ta biết ông đã chuẩn bị đời sống của ông như thế nào. Ông sống trong khung cảnh cô tịch nơi sa mạc. Ông sống rất khắc khổ: Áo ông mặc là một tấm da lạc đà khoác trên mình, cột thêm một dây da thắt lưng cho khỏi lòa xòa, loại da thuộc sơ sài còn thô nhám thời đó. Thức ăn của ông là châu chấu và mật rừng, loại thức ăn của người du mục nghèo khổ lúc đó thường dùng khi họ dẫn đoàn vật đi ăn cỏ nay đây mai đó trong rừng. Châu chấu thì thường nướng hay luộc, ướp muối. Còn mật thì đôi khi mới có khi tìm được tổ ong trong hốc đá, nhưng rất hiếm. Còn đa số là nhựa của cây tây hà liễu (Tamaris) ăn hơi ngọt ngọt.

Với thức ăn và áo mặc như thế, ông Gioan đã nói lên tinh thần sẵn sàng từ bỏ tất cả những gì là dễ dãi, là thoải mái, là tiện nghi mà mọi người thường ưa chuộng. Ông sống thánh thiện, khắc khổ để đón Chúa và cũng để nêu gương cho người khác nữa.

Điều đáng cảm phục hơn nữa là tinh thần khiêm tốn của ông. Lúc đó uy tín của ông đã lên rất cao và tiếng tăm của ông đã lan rộng khắp nơi. Có người coi ông là ngôn sứ, thậm chí có người còn coi ông là Đấng Cứu Thế nữa. Thế nhưng, khi người ta hỏi ông là ai, thì ông Gioan đã trả lời: “Có Đấng quyền thế hơn tôi, đang đến sau tôi, tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dép cho Ngài” (Mc 1,7). Chúng ta đừng quên ở Do Thái chỉ có nô lệ, đầy tớ mới cởi dép cho chủ mình mà thôi. Ông Gioan đã từ bỏ tất cả, sống khiêm tốn để chuẩn bị tâm hồn sẵn sàng để đón Chúa.

Một du khách nhân lúc mệt mỏi đã ghé vào túp lều tranh của vị thừa sai trong một làng xa xôi hẻo lánh tại Ấn Độ. Bước vào lều, người du khách chỉ thấy có cái chõng tre trải chiếu sơ sài, cái bàn cái ghế cũng bằng tre với đống sách ở trong góc nhà. Anh ta không hiểu sao một linh mục thừa sai Tây phương mà lại sống đơn sơ nghèo khó đến thế, có thể nói được khắc khổ nữa là khác. Anh ngạc nhiên hỏi vị thừa sai:

  • Thưa cha, đồ đạc của cha chỉ có bấy nhiêu đó thôi sao ?

Vị Thừa sai mỉm cười đáp.

  • Vậy chớ đồ đạc của anh có bao nhiêu ? Chỉ có chiếc ba lô đó chớ gì ?

Anh thành thật đáp:

  • Nhưng con chỉ là khách du lịch. Con đi đường vài ngày đâu cần mang theo nhiều đồ đạc làm chi ? Còn cha ở đây luôn mà!

Vị thừa sai hóm hỉnh nói:

  • Anh là khách đi đường. Tôi cũng thế! Tôi chỉ là khách dọn đường thôi. Đúng vậy, vị thừa sai chỉ đến để dọn cho dân làng biết Chúa, lãnh nhận ơn cứu độ. Ngài cũng như thánh Gioan Tẩy Giả dạy chúng ta muốn dọn đường, sửa lối cho Chúa đến, chúng ta phải hy sinh từ bỏ tất cả những gì là chướng ngại vật cản trở.

2. Gioan Tẩy Giả đã dọn đường cho Chúa đến với mọi người như thế nào ?

Với sứ mạng tiền hô (đi trước loan báo) và tẩy giả (làm phép rửa nói lên lòng sám hối), ông Gioan còn giúp mọi người chuẩn bị Chúa đến bằng cách kêu mời mọi người dọn cho Chúa một con đường để Chúa đến.. Ông chuẩn bị thế nào chúng con. Ông dùng những hình ảnh rất cụ thể để giúp người ta hiểu phải làm gì.

  • Ông kêu gọi hãy lấp mọi hố sâu: Nghĩa là hãy thanh tẩy khỏi lòng mình những giận hờn, ghen ghét, hận thù là những vực thẳm khôn dò làm chúng ta không thể đón Chúa.
  • Ông bảo mọi người hãy san phẳng những núi đồi, tức là tính tự kiêu tự phụ, tự ái, luôn coi mình hơn người khác để sống một cuộc sống khiêm nhường và đồng lòng nhân hậu. Sống như thế thì Chúa mới đến với mình.
  • Thêm nữa ông còn muốn mỗi người uốn cho ngay thẳng những chỗ cong queo tức sự dối trá, gian ngoa, lừa đảo người khác. Sóng như thế mới xứng đáng với Chúa.

Lần kia một người đàn ông lịch sự tìm đến gặp cha Gioan Maria Vianney, cha sở xứ Ars có ý muốn tranh luận vài vấn đề thuộc tôn giáo. Thánh nhân nhìn thẳng vào mặt vị khách và nói:

  • Ông hãy xưng tội đã rồi muốn tranh luận gì cũng được. Bị chạm tự ái, ông muốn nổi nóng, nhưng nghĩ lại cũng khá lâu chưa xưng tội. Ông nén lòng ngồi yên lặng. Trong yên lặng, ông thấy mình đã lỗi bao điều luật Chúa và Hội Thánh. Ông hối hận ăn năn rồi xưng tội sốt sắng. Sau khi xưng tội xong, ông thấy tâm hồn bình an thư thái. Bấy giờ cha Vianney nói:
  • Xin ông cho biết ông thắc mắc điều gì ?

Ông trả lời:

  • Lúc mới vào đây con thắc mắc nhiều chuyện, nhưng giờ đây, con không còn thắc mắc điều gì nữa.

Có kiểm điểm đời sống nghiêm chỉnh, chúng ta sẽ thấy mình còn nhiều hố sâu ghen ghét hận thù, nhiều núi đồi kiêu căng tự phụ, nhiều chỗ cong queo gian tham, lừa đảo… Còn nhiều đam mê xấu như say sưa, nóng nảy, lười biếng, hay xem phim ảnh xấu và nhiều khuyết điểm, lầm lỗi khác. Ước mong ngay từ hôm nay chúng con hãy kiểm điểm đời sống và sốt sắng lãnh Bí tích Hòa giải để dọn đường đón mừng Chúa đến.

Hãy tích cực chuẩn bị sửa lại đời sống cho thật tốt đẹp thánh thiện để Chúa có thế đến với mình. Cụ thể trong Mùa Vọng này, chúng con hãy cố gắng sống tốt hơn, thánh thiện hơn. Cha tin là Chúa sẽ hài lòng và Chúa sẽ đến mang lại cho chúng con nhiều hồng ân của Chúa.

Cha muốn kết thúc bằng câu chuyện có thật này:

Bé Josiah Duncan, năm tuổi, đi ăn với mẹ. Bước vào tiệm, bé thấy người đàn ông nọ ăn mặc rách rưới, nghèo khổ, ngồi trước cửa tiệm với tấm bảng ghi hàng chữ: ”Tôi vô gia cư, chẳng có gia đình, tôi bị bệnh, xin làm ơn giúp tôi.”

Bé Josiah hỏi người ấy: ”Ông có đói bụng không ?”

Ông ta gật đầu. Josiah bèn đến nói với mẹ: ”Mẹ ơi, mẹ mua cho ông ấy một bữa ăn, mẹ nhé!”

Mẹ bé đồng ý và người đàn ông theo bé vào tiệm ăn.

Thấy ông ấy nghèo nàn, dơ bẩn nên, khi ông ta vào ngồi bàn, nhân viên phục vụ làm lơ. Bé bèn đi lấy thực đơn cho ông xem. Ông đọc qua nó, rồi chọn món rẻ nhất.

Bé liền nói: ”Không sao, ông cứ kêu thêm đi, kêu nhiều một chút để ăn cho no.”

Và, khi dĩa đồ ăn được bưng ra, bé Josiah nói với người đàn ông: ”Cháu hát cho ông nghe, nhé. Mẹ cháu hay hát cho cháu nghe khi cháu buồn.”

Và, giữa tiệm ăn, bé hát: ”Lạy Thiên Chúa trên Trời, Thiên Chúa của con, con cám ơn Ngài về những ơn lành Ngài ban cho con, con cám ơn, con cám ơn Ngài. Amen.. Amen…”

Người đàn ông khóc!

Mẹ cậu bé rơi lệ!

Tất cả khách hàng trong tiệm ăn chứng kiến cảnh ấy, đều chảy nước mắt…!

Hôm nay bắt đầu đổi mùa: Mùa Vọng

A. Vọng là gì ?

Người ta vẫn thường nói: Hy vọng, thất vọng.

Mong chờ một Tin Vui sẽ có: Hy vọng.

Mong chờ một tin vui nhưng không bao giờ có: Thất vọng.

Vua Fédéric nước Đức xưa tính mỗi năm chim sẻ sẽ ăn hết 2.000.000 thùng lúa. Ông cho mở chiến dịch bài trừ chim sẻ – Toàn dân hưởng ứng: mỗi đầu chim sẻ là một phần thưởng. Ông hy vọng một vụ mùa bội thu. Nhưng rồi ông thất vọng vì lúc lúa mới trổ bông thì từng đoàn từng đoàn sâu bọ khổng lồ bò ra ăn sạch những cây lúa mới trổ bông trên quê hương đất nước của ông. Ông hối hận: “Giá những con chim sẻ kia không bị tiêu diệt thì chúng sẽ giúp ông thanh toán những đàn sâu bọ này… Nhưng bây giờ thì đã quá muộn rồi. Thế là hy vọng biến thành thất vọng.

Ngược lại trong Tin Mừng… Người mù ăn xin ở vệ đường… Khi nghe tin Chúa đi qua… Anh mong gặp được Chúa với hy vọng Chúa sẽ chữa cho anh. Anh đã gặp được Chúa và Ngài đã cho anh được sáng mắt. Hy vọng của anh đã biến thành sự thật…

B. Khi lập ra Mùa Vọng Giáo Hội muốn nói với chúng ta điều gì ?

Giáo Hội muốn nói tới một tin vui: Tin Vui ấy chính Chúa cũng đã nói trước. Đó là ngày Chúa trở lại trong vinh quang của Ngài.

Vọng là mong chờ cái Ngày Vinh quang đó của Chúa.

Thánh Cyrillô thành Giêrusalem cắt nghĩa vấn đề này rất hay: “Những gì liên hệ tới Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta thường diễn ra hai lần. Hai lần Người sinh ra: một lần bởi Thiên Chúa từ trước muôn đời; một lần bởi đức Trinh nữ vào lúc thời gian viên mãn.

Hai lần Người xuống thế: lần thứ nhất thì lặng lẽ như hạt mưa rơi xuống lông chiên; Còn lần thứ hai, chắc chắn sẽ xảy ra trong tương lai thì oai hùng rực rỡ.

Lần giáng lâm thứ nhất, Người được bọc tã đặt nằm trong máng cỏ; lần thứ hai người khoác cẩm bào là muôn ánh hào quang.

Lần thứ nhất. Người vác Thập Giá chẳng nề nhuốc hổ; còn lần thứ hai, Người chiến thắng khải hoàn có thiên thần hộ tống.

Vậy chúng ta đừng dừng lại ở lần giáng lâm thứ nhất mà phải đợi chờ lần giáng lâm thứ hai. Lần thứ nhất chúng ta đã tung hô Người: Chúc tụng đấng ngự đến nhân danh Chúa thì chúng ta sẽ lập lại y như thế trong lần thứ hai. Lúc đó chúng ta sẽ cùng với các thiên thần ra nghênh đón Chúa mà thờ lạy và tung hô: Chúc tụng đấng ngự đến nhân danh đức Chúa”

C. Như vậy Mùa Vọng là mùa giúp ta nhìn về tương lai… Tương lai huy hoàng của Chúa Giêsu Chúa chúng ta.

Một thắc mắc có thể đặt ra ở đây ? Mùa Vọng có ăn nhằm gì với việc mừng lễ Giáng Sinh hay không ? Và việc mừng lễ Giáng sinh sẽ đem lại những ích lợi cụ thể nào ?

Vâng! Mùa Vọng nào cũng được kết thúc bằng lễ Giáng Sinh. Giáo Hội đặt ra Mùa Vọng trước lễ Giáng Sinh không đơn thuần chỉ là nhắc lại một việc của quá khứ. Vâng! Không phải đơn giản như vậy. Không phải nhắc lại một quá khứ như một kỷ niệm nhưng là như một biến cố, biến cố cống hiến cho chúng ta một kinh nghiệm sống và một hướng đi giúp chúng ta chuẩn bị ngày Chúa Kitô lại đến để hoàn tất chương trình cứu độ của Ngài một cách tốt đẹp hơn. Như vậy mỗi lần chúng ta mừng lễ Giáng sinh là mỗi lần chúng ta có kinh nghiệm thêm về việc gặp Chúa trong cuộc sống hôm nay để tiến dần đến việc chiếm hữu được Chúa trong vinh quang của Người. Và đó là ý nghĩa chính của Mùa Vọng

D. Vậy thì chúng ta phải sống tâm tình Mùa Vọng như thế nào ?

Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa đã chỉ dẫn cho chúng ta. Chúa bảo chúng ta: “Hãy tỉnh thức”(Mc 13,37). Chỉ trong một đoạn văn ngắn ngủi Chúa nhắc đi nhắc lại điều này tới 4 lần.

Tỉnh thức không có nghĩa là không ngủ, vì đó là điều bất khả về phương diện thể lý. Để hiểu đúng ý mà Chúa Giêsu muốn nói, chúng ta có thể nghĩ đến một lời mời gọi tỉnh thức đặc biệt mà chính Chúa đưa ra cho các môn đệ thân tín của Người trong một hoàn cảnh khác. Trong vườn Ghếtsêmani, vào đêm Chúa Giêsu bị bắt, Người nói với ba đồ đệ thân tín: “Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện” (14,38). Trong vườn Ghếtsêmani, lời mời gọi này phải được hiểu trước hết theo nghĩa đen của các từ ngữ. Nhưng điều đó không ngăn cản chúng ta giải thích rằng sự tỉnh thức sâu xa ra, chính là một thái độ sống hoàn toàn quy hướng một cách rõ ràng về Thiên Chúa, tức là một thái độ cầu nguyện ở mức độ thâm sâu và thực chất. Áp dụng cách hiểu đó vào lời mời gọi ở đây chúng ta có thể hiểu: sự tỉnh thức mà Chúa Giêsu muốn nói đến chính yếu là một cách sống hoàn toàn trong ý thức liên tục quy hướng về ông chủ và nhiệm vụ mà ông trao phó. Người đầy tớ tỉnh thức là người luôn luôn đặt mình trong ý thức về tư cách của mình là người phục vụ ông chủ và thi hành một cách tốt nhất nhiệm vụ mà ông trao phó cho mình. Khi ông chủ đi xa, người đầy tớ dễ bị cám dỗ quên ông và quên nhiệm vụ ông trao phó, từ đó hành xử như thể mình là ông chủ, theo hướng riêng của mình từng lúc. Người đầy tớ tỉnh thực sẽ luôn luôn gắn kết cuộc sống mình với ông chủ và luôn luôn sẵn sàng trả lời ông về việc thực hiện nhiệm vụ mà ông đã trao phó cho mình. Khi Chúa Giêsu nói các môn đệ của Người phải tỉnh thức như các đầy tớ trong dụ ngôn phải tỉnh thức, là Người muốn nhấn mạnh đến thái độ sống đó, chứ không phải là một sự canh thức về phương diện thể lý đơn giản.

Kết thúc diễn từ cánh chung, Chúa Giêsu khẳng định: “Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là: phải tỉnh thức!” (c.37). Chúa Giêsu không ngần ngại nhắc đến tư cách và vị trí đặc biệt của bốn đồ đệ thân tín đang nghe Người tâm sự đây. Họ là những đồ đệ đầu tiên mà Người đã kêu gọi để biến đổi thành những kẻ lưới người (x. 1,16-20). Nhưng lời kêu gọi tỉnh thức và sẵn sàng không chỉ dành riêng cho họ mà thôi. Chúa nói rõ ý của Người là kêu gọi tất cả mọi người đều phải tỉnh thức như vậy, không trừ một ai. Nói cách khác, ở bên dưới lời khẳng định này là một lệnh truyền được ngỏ với các môn đệ thân tín, sai họ đi thông truyền cho tất cả mọi người điều mà Chúa Giêsu đang nói với họ đây, để mọi người đều tỉnh thức đón chờ Ngài đến hoàn thành công trình cứu độ của Ngài.

Ngày kia có một khách du lịch dừng chân trước một biệt thự rất sang trọng cạnh một hồ nước trong xanh ở Thụy Sĩ, nhưng không phải trên con đường mà khách vãng cảnh thường qua lại. Khách du lịch gõ vào hàng rào sắt, tức thì một cụ già coi vườn ra mở cái cổng nặng nề vẫn đóng chặt. Sung sướng vì được thấy một người khách, cụ dẫn ông tham quan cả một khu vườn rộng lớn. Người khách hỏi:

– Cụ ở đây bao lâu rồi ?

– Thưa ông, tôi ở đây đã được hai mươi bốn năm.

– Chủ của cụ ít khi ngủ lại biệt thự này, có phải không ? Cụ đã trông thấy ông ta mấy lần rồi ?

– Tôi đã trông thấy ông ấy bốn lần. Lần cuối cùng cách đây đã mười hai năm.

– Ông có viết thư cho cụ chăng ?

– Chẳng bao giờ.

– Thế ai trả công cho cụ ?

– Người quản gia của ông.

– Thế người quản gia này có năng đến đây không ?

– Tôi chưa hề thấy mặt ông. Ông ấy luôn liên lạc với tôi qua thư từ.

– Thế thì ai hưởng sự đẹp đẽ này ?

– Trừ vợ tôi và tôi thì không ai hưởng hết.

– Cụ à, tôi có cảm giác như là cụ coi sóc vườn này, sân hoa này, bãi cỏ này cách chu đáo, như là ngày mai ông chủ cụ sẽ đến vậy!.

– Ồ! Thưa ông, tôi phải làm như chủ tôi phải đến ngày hôm nay, vâng thưa ông, ngày hôm nay.

Vâng chúng ta hãy sống như là chủ – Chúa của chúng ta đến với chúng ta ngay trong ngày hôm nay. Nếu chúng ta tỉnh thức như thế thì chắc chắn chúng ta sẽ không phải ngỡ ngàng và phần thưởng cho một người sẽ nằm trong tay chúng ta.

Thiếu nhi chúng con yêu quí,

Cha đố chúng con hôm nay chúng ta bắt đầu bước vào Mùa nào trong năm Phụng Vụ đó ?

– Thưa cha, Mùa vọng

– Chúng con giỏi – Cha khen chúng con. Bắt đầu vào Mùa vọng Giáo Hội khuyên chúng ta điều gì nào ?

– Thưa cha, Giáo Hội khuyên tỉnh thức.

– Rất đúng…Giáo Hội mượn lời thánh Marco khuyên mọi người hãy tỉnh thức.

“Anh em hãy tỉnh thức”

– Thế tỉnh thức là thế nào nào ?

……

Đây cha cắt nghĩa cho chúng con. Trước hết chúng con nghe một câu chuyện nhỏ:

Một vị Bà La Môn hỏi Đức Phật:

– Ngài có phải là Thượng Đế không ?

 Đức Phật trả lời.

– Không, thưa ông.

– Vậy Ngài là một vị thánh ?

– Cũng không phải, thưa ông. Đức Phật trả lời.

– Vậy Ngài là một ảo thuật gia ?

– Cũng không phải, thưa ông. Đức Phật trả lời.

– Vậy Ngài là ai ?

– Ta là sự Tỉnh thức.

Tỉnh thức là gì ? Chữ “tỉnh” là tỉnh táo, chữ “thức” là nhận biết phân biệt. Như vậy khi gặp bất cứ việc gì trong cuộc sống, người tỉnh thức là người biết tỉnh táo nhận định cho chính xác, hiểu thật rõ ràng rồi mới đi đến quyết định hành động.

Cha muốn minh hoạ bằng một câu chuyện:

Hai thầy trò dẫn nhau vào rừng để tu luyện.

Dọc đường, thầy căn dặn trò hãy tỉnh thức đề phòng cạm bẫy và các thuốc độc giết người của trần gian đầy đau khổ và sự dữ. Bỗng hai thầy trò thầy một gói to nằm trên đường. Trò vội vàng chạy lại mở ra, rồi la lớn:

– Thầy ơi, có lẽ trời Phật đã thưởng công tu luyện cho thầy trò ta rồi. Đây là gói vàng, với số vàng này chúng ta tha hồ sống hạnh phúc.

Nghe thế, vị đạo sĩ nghiêm sắc mặt nói:

– Này con, đây không phải là nguồn hạnh phúc mà là thuốc độc đấy. Nếu không tin, con cứ để gói vàng tại đây, chúng ta leo lên một cây kia rồi sẽ thầy.

Hai thầy trò leo lên một cây gần đấy và quan sát.

Nửa giờ sau, có ba người nét mặt hung dữ đi ngang qua đó. Họ thầy cái gói mở ra và cả ba đều vui mừng kêu lên:

– Trời thương chúng ta rồi. Từ nay chúng ta không còn phải đi ăn trộm, ăn cắp nữa.

Người đầu nhóm ra lệnh cho em út:

– Chú mày đi vào làng mua rượu và đồ nhắm ra đây. Hôm nay, anh em mình phải nhậu một bữa cho đã rồi chia nhau số vàng này.

Thế là người em út đi vào làng, còn lại hai người ngồi canh giữ. Trong lúc này cả hai đều có ý định thanh toán nhau để một mình hưởng trọn gói vàng. Thế là một trong hai người đã chết, còn người kia thoi thóp nằm ôm gói vàng.

Người em út trở về với rượu và đồ nhậu, thầy cảnh trên và nghĩ đây là cơ hội để mình chiếm trọn gói vàng. Hắn vất rượu và đồ nhắm, khiêng tảng đá to giáng xuống đầu người bạn đang nằm đó và ôm gói vàng tẩu thoát.

Nhưng phần vì vừa phạm tội ác khiến lương tâm cắn rứt, phần vì mải mê nghĩ đến gói vàng nên hắn đã tông vào một chiếc xe hơi và nằm chết bên gói vàng.

Sau khi quan sát những gì đã xảy ra, thầy bảo trò:

– Đấy con thầy chưa ? Điều thầy nói lúc nãy là sự thật.

Và thầy trò tụt xuống, tiếp tục đi vào rừng.

2. Tỉnh thức để làm gì chúng con ?

Thưa để gặp được Chúa khi Ngài đến.

Thế cha hỏi chúng con: Chúa đã đến chưa ?

Thực ra thì Chúa đã đến rồi, đến cách nay hơn hai ngàn năm, nhưng theo thánh Sirilô thành Giêrusalem cắt nghĩa thì chúng ta phải hiểu thế này: “Những gì liên hệ tới Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta thường diễn ra hai lần. Hai lần Người sinh ra: một lần bởi Thiên Chúa từ trước muôn đời; một lần bởi đức Trinh nữ vào lúc thời gian viên mãn.

Hai lần Người xuống thế: lần thứ nhất thì lặng lẽ như hạt mưa rơi xuống lông chiên; Còn lần thứ hai, chắc chắn sẽ xảy ra trong tương lai thì oai hùng rực rỡ.

Lần giáng lâm thứ nhất, Người được bọc tã đặt nằm trong máng cỏ; lần thứ hai người khoác cẩm bào là muôn ánh hào quang.

Lần thứ nhất. Người vác Thập Giá chẳng nề nhuốc hổ; còn lần thứ hai, Người chiến thắng khải hoàn có thiên thần hộ tống.

Vậy chúng ta đừng dừng lại ở lần giáng lâm thứ nhất mà phải đợi chờ lần giáng lâm thứ hai trong vinh quang. Lần thứ nhất chúng ta đã tung hô Người: Chúc tụng đấng ngự đến nhân danh Chúa thì chúng ta sẽ lập lại y như thế trong lần thứ hai. Lúc đó chúng ta sẽ cùng với các thiên thần ra nghênh đón Chúa mà thờ lạy và tung hô: Chúc tụng đấng ngự đến nhân danh đức Chúa”.

Hơn nữa giữ hai lần đến quan trọng đó Chúa còn đến với mỗi người trong ngày Chúa gọi chúng ta ra khỏi cuộc sống sống này. Đây cũng là lần Chúa đến thật quan trọng.

Bên cạnh đó chúng con thầy Chúa còn hứa đến với những ai biết họp nhau cầu nguyện: “Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ.”(Mt 18,20) cũng như khi lãnh nhận bí tích đặc biệt là Bí Tích Thánh Thể.

Như vậy chỉ có những người biết tỉnh thức và sằn sàng thì mới dễ gặp được Chúa.

Có một cậu bé muốn đi gặp Chúa Giêsu, để chuẩn bị cho cuộc hành trình, cậu bỏ vào giỏ mấy chiếc bánh và hai chai sữa tươi. Và cậu bé lên đường, lòng vui tươi hớn hở. Mới đi được mấy dãy phố, cậu chợt thấy một bà cụ già đang ngồi trên một chiếc ghế đá công viên. Cậu thầy mỏi chân nên quyết định ngồi nghỉ một chút bên cạnh bà lão. Cậu lấy một chai sữa tươi ra, định uống cho đỡ khát.

Nhưng nhìn sang, thấy bà cụ run lập cập, có lẽ vì đói quá chăng. Cậu liền lấy bánh lẫn sữa ra mời bà. Bà cụ nhận tất cả với một nụ cười cảm động và biết ơn ôi nụ cười mới đẹp làm sao ? Thế là hai bà cháu mải mê ngồi ăn uống và nói chuyện vui vẻ với nhau mãi.

Buổi chiều, khi cậu bé trở về nhà, bà mẹ thầy con rất vui liền hỏi:

– Hôm nay con có chuyện gì mà vui thế ?

Cậu hớn hở khoe:

– Mẹ có ngờ được không ? Hôm nay con đã cùng ngồi ăn trưa với Chúa Giêsu. Người có nụ cười thật dễ thương mẹ ạ!

Trong khi đó, bà lão cũng chậm rãi trở về nhà, lòng chan chứa một niềm bình an. Cậu con trai lớn của bà hỏi thăm ngay từ cửa:

– Mẹ ơi, sao hôm nay mẹ có vẻ vui thế nhỉ ?

Bà cụ móm mém trả lời:

– Này, con có ngờ được không ? Hôm nay mẹ đã cùng được ngồi ăn trưa với đức Giêsu. Người trẻ hơn mẹ tương nhiều con ạ!

Bài Tin mừng chúng ta vừa nghe là một trong những câu truyện sống động nhất của Chúa Giêsu và bài học Chúa dạy cũng hết sức rõ ràng. Bài học đó là Thiên Chúa sẽ phán xét chúng ta theo những việc chúng ta làm cho nhau trong cuộc sống hằng ngày. Sự phán này không tùy thuộc vào kiến thức chúng ta có, sự may mắn hay tiếng tăm chúng ta đã đạt được, nhưng tùy vào sự giúp đỡ chúng ta làm cho nhau.

Như vậy rõ ràng qua câu truyện này Chúa muốn chúng ta phải giúp đỡ người nhau.

1. Ta phải giúp đỡ nhau từ những nhu cầu thật đơn giản trong cuộc sống của mọi người như kẻ đói cần được cho ăn, kể khát cần được cho uống, những người khách lạ cần được tiếp đón, những kẻ bị cầm tù cần phải được viếng thăm.

Ngày nay Mẹ Têrêsa còn cho biết thêm: có nhiều người đói thức ăn, nhưng cũng có nhiều người đói những thứ khác như đói được biết đến, đói được yêu thương, đói được tôn trọng …

Trần truồng không phải chỉ là không quần áo, mà còn là không nhân phẩm, không trong sạch, không tự trọng.

Vô gia cư không phải chỉ là không có nhà, mà còn là bị ruồng bỏ, bị coi là vô dụng.

Chứng bệnh nặng nhất của thế giới hôm nay là cảm giác bị bỏ rơi không ai để ý đến, không ai quan tâm chăm sóc….

Sự ác lớn nhất của thế giới hôm nay là thiếu tình yêu là dửng dưng với người bên cạnh.

Đó là những việc này chúng ta có thể gặp hàng ngày. Tất cả cần phải được quan tâm.

2. Phải giúp đỡ nhưng giúp đỡ với tinh thần nào ? Thưa là tinh thần không tính toán.

Tất cả những người đã giúp đỡ người khác trong câu truyện hôm nay đều không ai nghĩ rằng họ đã giúp đỡ Chúa Giêsu và tích trữ công đức đời đời cho mình. Họ giúp vì không thể không giúp, đó là bản chất tự nhiên không tính toán, phát xuất từ lòng yêu thương thật.

Oscar Wilde đã viết một câu chuyện rất đẹp, tựa đề là The Happy Prince, như sau:

Một ông Hoàng kia sống một cuộc đời rất hạnh phúc .

Vì thế khi ông chết, người ta đã làm một bức tượng của ông đặt trên một cái bệ cao giữa thành phố và đặt tên là ông Hoàng Hạnh Phúc, như là biểu tượng may mắn sẽ mang hạnh phúc đến cho mọi người dân trong thành.

Một buổi nhiều đầu mùa đông, một con chim én đến đậu dưới chân pho tượng. Bỗng một giọt nước rơi xuống đầu nó. Nó nhìn lên và ngạc nhiên vì đó là giọt nước mắt của ông Hoàng. Ông đang khóc.

– Tại sao ông khóc ? Ông là ông Hoàng Hạnh Phúc kia mà!.

– Từ khi đứng trên cao nhìn thấy cảnh sống của dân thành, ta đau lòng quá và không còn hạnh phúc nữa. Ta muốn đi giúp họ lắm, nhưng đôi chân ta bị chôn chặt ở cái bệ này nên không thể nào đi được. Bạn có thể giúp ta không ?

– Không được, tôi phải bay đi Ai Cập.

– Hãy làm ơn giúp ta đêm nay đi.

– Thôi được! Bây giờ ông muốn tôi làm gì ?

– Trong một túp lều đàng kia có một người mẹ đang khóc vì con bà bị bệnh mà bà không có tiền gọi bác sĩ. Bạn hãy lấy viên ngọc ở chuôi kiếm của ta đem cho bà ấy.

Chim én dùng mỏ lấy viên ngọc ra và bay đến cho bà mẹ nghèo. Nhờ có tiền, bà đã lo cho con bà khỏi bệnh.

Hôm sau ông Hoàng lại xin chim én nán lại một đêm nữa để mang viên ngọc khác đến cho một người nghèo khác. Rồi hôm sau nữa đến giúp một người nghèo khác nữa. Cứ thế hết ngày này đến ngày khác, con chim én lấy các thứ trang sức của ông Hoàng đem cho người nghèo. Cuối cùng trên mình ông Hoàng không còn gì quý giá nữa. Và lúc đó mùa đông đã tới, trời đổ lạnh rất nhiều. Sáng hôm đó, người ta thấy xác con chim én đã chết cóng dưới chân pho tượng ông Hoàng trần trụi. Phía dưới thành phố, mọi người đều hạnh phúc. Họ có biết đâu hạnh phúc của họ là nhờ sự hy sinh của ông Hoàng Hạnh Phúc và con chim én nhỏ bé kia.

Vâng có ai ngờ những việc tốt chúng ta làm cho nhau lại là làm cho chính Chúa: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính ta vậy” (Mt 25,40).

Ngược lại như Lời Chúa quả quyết những gì chúng ta từ chối không giúp đỡ người khác cũng có nghĩa là chúng ta không giúp Chúa.

Khi đã không muốn giúp đỡ những người khác thì người ta có thể nại ra đủ mọi thứ lý do để từ chối.

Năm 1880, ở thành phố Paris, có một Linh mục ăn mặc nghèo hèn đến gõ cửa nhà một Cha Sở xin được trọ qua đêm. Cha Sở tiếp rất thờ ơ rồi chỉ cho Linh mục ấy lên chiếc gác xép nhà xứ. Linh mục ấy tên là Gioan Bosco, từ Turin nước Ý sang Paris để quyên tiền về xây trường giáo dục các thiếu niên.

Nhiều năm sau, Giáo Hội đã tôn phong Gioan Bosco lên bậc hiển thánh. Khi nghe tin đó, Cha Sở nọ nói:

“Phải chi lúc đó tôi biết ông ấy là Don Bosco thì tôi đâu có để Ngài ở trên cái gác xép ấy, trại lại tôi đã dành phòng khách sang trọng nhất cho Ngài rồi.

Quả thật chúng ta không bao giờ biết rõ những kẻ chúng ta gặp là những người như thế nào. Nhưng điều này không quan trọng. Điều quan trọng đối với những kẻ có đức tin là chính Chúa hiện thân trong những người ấy.

Giúp đỡ để được người ta khen ngợi, cám ơn và công bố ra cho nhiều người biết, thì không phải là giúp đỡ nữa mà là kiêu ngạo, ích kỷ trá hình. Sự giúp đỡ đẹp lòng Chúa là sự giúp đỡ không vì mục đích nào ngoài sự giúp đỡ cả.

3. Và cuối cùng Chúa cổ võ tình yêu thương qua việc chúng ta phải giúp đỡ lẫn nhau để làm gì ? Câu trả lời cũng không khó lắm. Thưa để thiết lập Nước Trời của Chúa ngay trên trần gian này và mai sau được hưởng hạnh phúc Nước Trời.

Ngày xưa người Do Thái hiểu Nước Thiên Chúa chính là Nước Do Thái, một nước Do Thái hùng cường phồn vinh làm bá chủ nhiều nước khác. Hiểu như vậy là sai.

Ngày nay nhiều người hiểu Nước Thiên Chúa là Giáo Hội, một Giáo Hội có rất đông tín đồ, một Giáo Hội có tổ chức quy mô, khiến cho người ngoài nể phục. Hiểu như vậy có đúng không ? Thưa chỉ đúng một phần thôi, là phần bề ngoài, phần hình thức, phần tổ chức.

Một câu chuyện vui:

Một buổi sáng tưng bừng, một bà sang trọng đi chiếc xe hơi bóng láng, lóng lánh như kim cương tới cửa Thiên đàng. Nghe tiếng còi điện lừng vang, thánh Phêrô vội vã mở cửa dẫn vào. Khi thấy Thánh Cả chỉ cho bác tài xế của mình một tòa nhà đồ sộ, bà ta sung sướng nghĩ bụng:

– Bác tài mà còn được ở một tòa nhà nguy nga tốt đẹp như thế! Tôi sẽ phải được một tòa nhà nguy nga lộng lẫy đến chừng nào!

Và bà ta xoa tay sung sướng.

Ngờ đâu khi bác tài đi rồi, Thánh Phêrô quay lại chỉ vào một túp lều lụp xụp nhỏ ở bên góc, nói:

– Đó là nhà của bà!

Bà ta hốt hoảng, cả đầu óc choáng váng lên:

– Nhà của tôi đó thật sao ? Không tôi không thể nào sống trong một căn lều xấu xí như thế được!

Thánh Phêrô đem tay vân vê chòm râu bạc, trả lời giữa hai cái nháy mắt:

Thưa bà, tôi rất tiếc không thể làm hơn thế được. Với vật liệu bà gởi tới cho tôi xưa nay, tôi chỉ có thể làm được ngần ấy thôi ?.

Một nhà giàu hỏi xem thiên đàng ở đâu ?

Ngày lễ Mông Triệu, cha xứ giảng về thiên đàng. Sau lễ, cha gặp người giàu có nhất làng. Ong này mới nói: “Thưa cha, cha vừa giảng một bài rất hay về thiên đàng, nhưng cha đã không nói thiên đàng ở đâu ?” Cha xứ trả lời: “Này ông, tôi sẽ nói cho ông biết thiên đàng ở đâu. Bên kia đường, trong một căn nhà nghèo nàn, có một bà góa sống với 2 đứa con nhỏ. Cả 3 đều lâm bệnh, đói khát và cùng khổ. Ông hãy chu cấp cho bà những gì bà cần và hãy trả tiền bác sĩ cho bà. Sau đó hãy đọc đoạn 25 Phúc âm thánh Matthêo, đoạn này nói đến phán xét cuối cùng và tôi chắc chắn là ông sẽ biết thiên đàng ở đâu. Nếu ông không biết nữa, thì hãy đến đây và tôi sẽ nói cho ông biết”. Người giàu kia làm những gì cha sở bảo và giúp đỡ tận tình bà góa. Sau này, khi gặp cha xứ, ông nói: “Thưa cha, con như ở thiên đàng trong ngày đó. Cha không thể tưởng tượng được con vui sướng hạnh phúc trong tâm hồn biết dường nào, và niềm vui ấy kéo dài cho đến ngày hôm nay”. Chính vì Thiên đàng là một trạng thái tâm hồn, là “sự bình an và niềm vui của một lương tâm ngay chính”.

Chúng con yêu quí,

Chúng con có biết hôm nay là lễ gì không ?

– Thưa cha lễ Chúa Kitô Vua.

– Chúng con có biết Chúa Giêsu muốn làm vua như thế nào không ?

……

Chúa Giêsu làm vua nhưng cách Chúa là vua chẳng giống một ông vua nào trên cõi đời này. Tại sao cha dám nói thế ? Đây chúng con hãy nghe câu chuyện này. Đây là câu chuyện do Cha Mark Link S.J kể. Theo ngài thì trong cuốn sách của mình có tựa đề là: The Christian Vision (Thị kiến của người Kitô hữu) ông John Powell có kể lại một truyền thuyết xưa kia của người Ái Nhĩ Lan. Truyền thuyết này nói về thời còn các vị vua đang cai trị nước họ.

Ngày xưa, có một vị vua đương cai trị nhưng không có con nối dõi ngai báu. Nhà vua muốn tìm một người thật xứng đáng để nối ngôi vua sau này. Chính vì thế, nhà vua đã truyền cho các sứ giả loan báo trên khắp các thành thị và phố phường trong toàn vương quốc, mời gọi tất cả những người đàn ông ưu tú đến cho Ðức vua phỏng vấn.

Ðức vua làm thế với hy vọng có thể chọn được một người kế vị trước khi Ngài chết. Hai tiêu chuẩn được ngài nhấn mạnh đặc biệt là kẻ ấy phải có lòng mến Chúa yêu người sâu sắc.

Có một người thanh niên cảm thấy mình có đủ hai tiêu chuẩn trên. Tự thâm tâm anh cảm thấy có tiếng thúc giục anh đi dự cuộc phỏng vấn này. Nhưng phiền một nỗi là anh quá nghèo, nghèo đến mức chẳng có quần áo tươm tất để mặc khi đi dự phỏng vấn. Đồng thời anh cũng chẳng có tiền mua đồ ăn đồ uống đi đường để đến cung điện đức vua tham dự cuộc phỏng vấn. Bí quá anh đã cầu nguyện xin ơn Chúa soi sáng và trong thâm tâm, Chúa cho anh biết là anh có thể đi ăn xin. Những người tốt bụng đã cho anh đủ quần áo và lương thực cần thiết. Khi mọi sự đã sẵn sàng, anh bắt đầu lên đường.

Sau một tháng dài đi đường, người thanh niên này đã nhìn thấy cung điện đức vua. Anh ta ngồi xuống trên một ngọn đồi phía trước. Tình cờ anh trông thấy một ông lão ăn mày nghèo khổ đang ngồi bên vệ đường. Vừa thấy anh, ông cụ chìa tay ra xin anh giúp đỡ. Giọng nói ông ta thật yếu ớt:

– Tôi đói và lạnh quá, cậu có thể cho tôi cái gì mặc cho đỡ lạnh và ăn cho đỡ đói không ?

Người thanh niên nhìn ông cự lòng tràn đầy xúc động. Anh liền cởi bộ đồ ấm áp anh đang mặc bên ngoài để đổi lấy tấm áo cũ rách của ông già ăn xin, đồng thời cũng cho ông cụ phần lớn số lương thực anh mang theo trong túi xách dành cho chuyến trở về nhà của mình. Thế rồi, mặc dù lòng thấy hơi ngại nhưng anh cũng liều bước tới cung điện trong bộ áo rách nát cùng với số lương thực mang theo không đủ cho chuyến trở về của mình. Khi anh ta đến gần cổng lâu đài, thì đám lính gác chận anh ta lại rồi dẫn anh đến khu vực dành cho du khách. Sau một thời gian chờ đợi lâu, anh ta được dẫn tới diện kiến đức vua.

Ðến trước bệ rồng anh thanh niên quỳ mọp, gập sâu người xuống cúi chào. Khi ngước lên nhìn, anh không thể nào tin nổi mắt mình và run rẩy thốt lên:

– Té ra ngài chính là ông lão ăn xin bên vệ đường đó sao!

Đức vua đáp:

– Ðúng thế.

Người thanh niên liền hỏi:

– Tại sao ngài lại làm điều ấy đối với kẻ tiện dân này ?

Ðức vua trả lời:

– Bởi vì trẫm muốn thử xem ngươi có phải là thật là người có lòng mến Chúa yêu người hay không ?

Câu chuyện kết thúc thế nào thì chúng ta có thể đoán được.

Câu chuyện cho chúng ta thấy một điều rất thật. Sự thật này là: vào ngày cuối cuộc đời, mỗi người chúng ta sẽ bị xét xử về việc chúng ta đã phục vụ Chúa Kitô Vua như thế nào nơi kẻ những người mọn nhất trong anh chị em chúng ta. Hãy nhớ lại những lời Chúa nói: “Ðoạn đức vua sẽ nói “Xưa Ta đói các ngươi cho Ta ăn, Ta khát các ngươi cho Ta uống, Ta là khách lạ các ngươi đã đón tiếp Ta vào nhà, Ta đau ốm bệnh hoạn các ngươi đã chăm sóc Ta”

Bây giờ đám người công chính sẽ thưa với Ngài: “Lạy Chúa có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống đâu ? Ðức vua sẽ đáp lại: “Ta nói cho các ngươi hay, bất cứ khi nào các ngươi làm điều này cho một trong những anh em bé mọn nhất trong các ngươi tức là các ngươi đã làm cho chính Ta đó”.

Chúa không hỏi chúng ta về những điều cao siêu khó hiểu. Chúa cũng không đòi hỏi chúng ta về những việc anh hùng chỉ có những người có chí khí gan lì mới làm được. Chúa cũng không tra vấn chúng ta về những việc làm to tát chỉ có những người nhiều tiền nhiều của mới có thể thực hiện được nhưng Chúa chỉ hỏi chúng ta về những việc làm hết sức dễ dàng, hết sức nhỏ bé ai cũng có thể làm được. Đó là những việc có liên hệ đến những nhu cầu rất cần thiết của mỗi người như việc ăn ở đi mặc.

Cha hỏi chúng con: Đọc lại những lời Đức Vua nói với mọi người trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng con có thấy điều gì khó hiểu hay không.

Cha chắc là không!

Vậy thì vấn đề còn lại là chúng ta phải sống những điều Chúa nói. Hãy ghi tạc Lời Chúa vào lòng: “Ta nói cho các ngươi hay, bất cứ khi nào các ngươi làm điều này cho một trong những anh em bé mọn nhất trong các ngươi tức là các ngươi đã làm cho chính Ta đó”.

Cha muốn kết thúc bằng câu chuyện này: Câu chuyện trích ở trong một cuốn sách mà cha rất thích. Truyện một tâm hồn:

Enricô ơi!

Như sáng nay, lúc đi học về, con đi trước mẹ, con đã gặp một người đàn bà nghèo bế một đứa con nhỏ xanh xao yếu đuối và chìa tay xin con. Con nhìn người ta bằng cặp mắt lạnh lùng, con chẳng cho gì cả mà chính lúc ấy túi con có tiền. Nghe mẹ, con ơi!

Con đừng tập thói làm ngơ trước cái nghèo khó nó ngửa tay xin con ; hơn nữa con lại càng không nên bước qua một người mẹ xin ăn cho con. Con hãy nghĩ đến bụng đói của đứa trẻ thơ, nghĩ đến sự đau khổ của người mẹ.

Mỗi khi mẹ bố thí cho kẻ nghèo thì bao giờ họ cũng cảm ơn và chúc cho mẹ, cho cả nhà ta được mọi sự lành. Những lời chúc tụng ấy nghe êm ái biết là dường nào! Và lòng tạ ơn họ không biết bao nhiêu.

Những lời cầu nguyện ấy sẽ thấu đến đấng Thượng đế để ngài phù hộ cho tất cả những người thân yêu của ta. Vì thế, mẹ trở về rất hài lòng và tự nhủ:

– Người ấy đã cho ta nhiều hơn là ta đãi họ!

Enricô ơi! Con hãy nghe mẹ: thỉnh thoảng nên bớt một vài xu trong túi tiền của con để cho người già không chốn nương thân, người mẹ không gạo, đứa trẻ không mẹ không cha. Những kẻ khó thích xin trẻ con vì như thế họ không nhục, vì trẻ con cũng như họ phải cần đến mọi người. Con có nhận thấy ở quanh trường thường có nhiều kẻ ăn xin không ? Sự bố thí của người lớn là một việc làm phúc, nhưng sự bố thí của trẻ con không những là một việc làm phú mà còn là một sự vỗ về nữa, vì mỗi lần đứa trẻ đem cho thì hình như đồng tiền kèm với bông hoa ở trong tay nó rơi ra.

Con ơi! Con phải biết con có đủ cả, chứ kẻ khó thì thiếu hết. Khi con mong được sung sướng thì người nghèo chỉ cầu sao cho khỏi chết. Trong một đám có bao nhiêu là nhà giàu, trong một phố có bao nhiêu người sang trọng qua lại, có bao nhiêu đứa trẻ ăn mặc xa hoa, thế mà vẫn còn thấy nhiều đàn bà và trẻ con đói khát, rách rưới! Thực đáng buồn thay!

Muốn cho người ta khỏi chê con là một kẻ vô tình thì từ sau, con đừng bước qua một kẻ khó mà không cho gì”. Mẹ con.

Anh chị em thân mến,

Hôm nay chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội Việt Nam vui mừng mừng kính các anh hùng tử đạo tại Việt Nam của chúng ta. Trong bầu khí linh thiêng và cảm động này tôi muốn chia sẻ với anh chị em một vài tâm tình của tôi.

1. Tâm tình thứ nhất là tâm tình tự hào.

Các thánh Tử đạo Việt Nam của chúng ta làm cho chúng ta tự hào.

Chúng ta phải tự hào vì chúng ta đã có được những vị tổ tiên anh hùng thật xứng đáng. Các Ngài đã được sinh ra, đã làm việc, đã cùng sống với những người Việt Nam chúng ta ngay trên mảnh đất quê hương thân yêu này. Các ngài đã sống như biết bao nhiêu những con người khác đã sống, nhưng các Ngài đã sống hơn hẳn rất nhiều người khác ở chỗ các ngài đã biết sống anh hùng, không để cho mình bị mua chuộc, không để cho mình bị khuất phục. Tiền bạc không làm cho các ngài mù tối. Khổ đau không làm cho các ngài chùn bước, nhục hình không làm cho các ngài ngã quỵ, và cả cái chết cũng không uốn cong được lòng trung tín của các ngài.

Lịch sử còn ghi lại những hình phạt mà người ta đã nghĩ ra và đã dùng để phạt những người theo đạo như sau:

– Nhẹ nhất là bị gông cùm. Bị xiềng xích, bị nhốt trong cũi, bị đánh đòn, bị bỏ đói cho tới chết.

– Nặng hơn một chút thì bị voi dày, bị trói ném xuống sông, bị chôn sống, bị đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng.

– Quyết liệt hơn một chút thì bị xử trảm, xử giảo (thắt cổ) và thiêu sống.

– Ác liệt nhất là bị xử lăng trì (phân thây ra từng mảnh) hay bá đao (bị xẻo từng mảnh thịt cho tới chết)

Tôi xin trích ra đây một đoạn trong bản báo cáo về việc xử cha cố Du tại Thợ Đức ngày 30-11-1835:

“Họ cột chân tay ngài vào một cây cột. Hai bên lính cầm kìm chờ sẵn. Sau hồi chuông báo hiệu, tên lính cầm kìm đã được nung đỏ kẹp vào ngực kéo ra hai miếng thịt nơi vú liệng xuống đất. Tên khác cầm dao xẻo thịt phía sau hông – rồi đến dùi thì chúng lấy kìm kéo thịt ra rồi dùng lưỡi dao xẻo đứt từng miếng. Cha ngất đi, đầu rũ xuống và ngài tắt hơi về chầu Chúa lúc 17 giờ.

Cha chết rồi, lính chặt đầu ngài cho vào một chiếc thùng đầy vôi….đoạn họ cởi trói lật úp xác xuống, phân thây ra từng khúc bỏ vào thùng vôi. Tiếp theo họ lấy đầu đầu của ngài treo giữa chợ ba ngày, rồi lấy xuống nghiền nát ra bỏ vào thùng đựng xác rồi vứt tất cả xuống biển cho mất tích”

Vâng, kính thưa anh chị em.

Gian khổ có cao, hình phạt có nặng nhưng lòng thành của các ngài còn cao hơn. Cái chết của các Ngài thật đáng làm cho chúng ta phải tự hào. Trong sắc phong chân phước cho 64 anh hùng tử đạo Việt Nam ngày 27-5-1900 Chính Đức Thánh Cha Léo XIII đã nói về các Ngài với tất cả lòng khâm phục như sau: “Đây là những chiến sĩ trung liệt và kiên cường không kém gì những chiến sĩ ngày xưa vào những thế kỷ khai nguyên của Giáo Hội Chúa Kitô”.

2. Tâm tình thứ hai là lòng biết ơn.

Việc mừng lễ hôm nay làm tôi nhớ lại những lời rất cảm động sau đây của Chúa Giêsu: “Kẻ gieo người gặt đều vui mừng. Kẻ này gieo, người kia gặt. Thầy sai các con đi gặt những gì chúng con không vất vả làm ra. Những kẻ khác đã khó nhọc, còn các con thừa hưởng công lao khó nhọc của họ ” (Ga 4,36-37).

Sử gia Tertulianô ngày xưa khi nhìn lại những năm trời Giáo Hội bị bách hại và những cuộc trở lại đạo hàng loạt sau đó, ông đã phải viết lên những lời rất rất đáng cho chúng ta suy nghĩ như thế này: “Những hạt máu của những vị tử đạo là những hạt giống làm nảy sinh ra những người Kitô hữu khác”

Chúng ta phải tạ ơn Chúa vì Chúa đã cho chúng ta có được những con người anh hùng như thế. Đồng thời chúng ta cũng phải biết ơn các ngài vì chính nhớ các ngài mà hạt giống Đức tin đã nảy mầm và lớn lên trong chúng ta.

3. Tâm tình thứ 3 là bổn phận phải sống làm sao cho xứng đáng với đáng với danh nghĩa con cháu của những anh hùng.

Châm ngôn Việt Nam có câu rất hay: “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”

Phải sống xứng đáng để những thệ mai sau khi nhìn vào thế hệ này, họ cũng phải cảm thấy tự hào.

Năm 1934 khi nhắn nhủ một số các em nhỏ đến mừng sinh nhật của mình, nhà bác học nổi danh nhất của thế kỷ thứ 20, Albert Einstein đã nói với các cháu những lời cảm động như sau: “Các cháu nên nhờ rằng những điều kỳ diệu các cháu được học ở trường hôm nay là do công lao của biết bao thế hệ trên khắp thế giới đã hăng hái gắng sức và cặm cụi làm việc không ngừng rồi truyền lại cho các cháu như một di sản để cho các cháu tiếp nhận, tôn trọng, tăng gia thêm và một ngày nào đó các cháu sẽ lại trung thành truyền lại cho con cháu các cháu. Nhờ vậy mà chúng ta, những con người hữu sinh hữu tử mới thành bất tử trong những vật trường tồn mà chúng ta tạo ra chung với nhau”

Chúng ta đang thừa hưởng một di sản vô cùng quí giá do cha ông chúng ta để lại. Cách trả ơn tốt nhất đối với các Ngài là tiếp nhận và trung thành truyền lại cho các thế hệ mai sau.

Nhưng truyền lại bằng cách nào ?

– Thưa bằng chính cuộc sống mà tổ tiên của chúng ta đã sống.

Văn hào Tagore khi bàn về cái chết của Thánh Gandhi, đã nói: “Có lẽ thánh Gandhi không thành công, có lẽ thánh sẽ thất bại như Đức Thích Ca đã thất bại, như Đức Giêsu đã thất bại vì chưa hủy diệt được lòng ác độc của loài người. Nhưng loài người luôn nhớ tới Thánh vì thánh đã đem đời mình ra để làm bài học cho muôn thế hệ mai sau”

a- Bài học đầu tiên mà mỗi người chúng ta phải noi gương bắt chước đó là phải trung thành với niềm tin.

Đức tin là ơn nhưng không Thiên Chúa ban cho chúng ta.

Hãy bảo vệ lấy, đừng để cho nó bị hao mòn đi.

Phaolô Mợi bị bắt, bị giải đến quan.

Quan dụ:

– Anh đạp ảnh đi, tôi sẽ cho anh một nén bạc.

Phaolô không trả lời.

Quan lại hỏi:

– Vậy một nén vàng!

– Bẩm quan chưa đủ.

– Vậy anh muốn bao nhiêu ?

– Bẩm quan lớn, quan lớn muốn cho tôi quá khóa thì quan phải cho tôi đủ vàng để mua được một linh hồn khác.

Nguyễn văn Lựu: “Đạo đã nhập vào xương tủy tôi, làm sao tôi có thể bỏ được.”

b- Bài học thứ hai phải can đảm sống niềm tin đó.

Trong một bài diễn văn đọc cho binh lính trước khi họ lâm trận, Hitler đã nói: “Thế giới này sẽ thuộc về những kẻ gan dạ”

Victor Hugo: “Đồi Calvario ở đầu đường và hào quang cũng xuất hiện ở đó”

Chúa Giêsu: “Nước Trời phải dùng sức mạnh mà chiếm lấy”(Mt 11,12)

Không có chiến thắng cho những kẻ chưa lâm trận đã đầu hàng.

Không có vinh quang cho những kẻ hèn nhát.

Phần thưởng càng lớn, vinh quang càng cao thì cái giá phải trả cho nó càng đắt.

Phải sử dụng sức mạnh mới chiếm hữu được Nước Trời.

Lời cuối cùng của tôi. Tôi xin mượn lời của Thánh Phaolô:        “Trong mọi thử thách, chúng ta sẽ toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” Và Ngài kết luận: “Tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, chiều cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thụ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện nơi Đức Kitô Chúa chúng ta.”(Rm 8,35-39). Amen.