Thiếu nhi chúng con yêu quí,
Thánh sử Luca vừa thuật lại cho chúng ta câu chuyện Chúa Giêsu biến hình trên núi.

Cha đố chúng con biết Chúa làm như thế để làm gì? Hay nói một cách cụ thể hơn khi Chúa làm như thế Chúa muốn gì? Nếu nhìn vào những việc xẩy ra trước và sau cuộc biến hình của Chúa, chúng ta sẽ thấy ngay câu trả lời. Việc này không có gì khó lắm.

1. Trước hết là để tránh cho các môn đệ của Chúa một sự sụp đổ thấy vọng trước mầu nhiệm Thập giá.

Chúng con hãy nhớ lại hoàn cảnh xảy ra trước đó một chút: Chúa Giêsu vừa được Phêrô đại diện cho nhóm môn đệ tuyên xưng là ĐĐấng Messia con Thiên Chúa hằng sống và ngay sau đó Chúa đã báo cho họ biết về con đường khổ nạn và chết chóc mà Chúa sẽ phải đi qua để hoàn thành sứ mạng của Người. Đây quả thực là một lời loan báo kinh hoàng về một Đấng Cứu thế mà chẳng có ai dám nghĩ như thế.  Chính vì thế mà Phêrô đã tức tốc phản ứng ngay. “Ông liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người”(Mt 13,22)  Khi làm như thế chắc Phêrô tưởng là mình làm đẹp lòng Chúa, ai dè ông lại nhận được một lời quở trách cực mạnh từ Đức Giêsu: “Satan, lui ra đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài Người”(Mt 16,23). Sau đó, Đức Giêsu còn đòi hỏi thêm: “Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”(Mc 8,34). Chúa muốn con đường mà Chúa đi cũng là con đường của các môn đệ Người phải đi. Phêrô đã thật sự choáng váng và cả các môn đệ khác cũng thế.

Thế nhưng thử hỏi khi Chúa đòi hỏi như thế thì điều đó có quá đáng không? Chắc là khi đòi hỏi như thế Chúa có lý do của Chúa. Tuy nhiên, các môn đệ có dám chấp nhận hay không là tùy ở mỗi người. Cha xin mượn một câu chuyện được lấy từ Internet để gợi ý và giúp chúng con hiểu được vấn đề này. Câu chuyện như thế này:
Đã lâu lắm rồi, có một vị hiền triết sống trên đỉnh ngọn núi cao. Dân làng dưới chân núi mỗi khi gặp khó khăn thường tìm đến vị hiền triết này để xin lời khuyên.

Ngày nọ, một chàng trai được xem là khá thành đạt, đang băn khoăn cho chặng đường sắp tới của mình. Chàng quyết định lên núi gặp vị hiền triết.
– Điều gì có thể giúp con thành một người thực sự vĩ đại?  Chàng trai hỏi.
Vị hiền triết nhìn thẳng vào mắt anh và hỏi:
– Con có chắc là con muốn biết điều đó không?
– Vâng! Con thực sự rất muốn biết. – Chàng trai quả quyết trả lời
– Được! – vị hiền triết đáp. – Ngươi hãy tự tìm cho mình câu trả lời qua câu chuyện ta kể sau đây: “Thuở xưa có một chàng thanh niên ở đất nước Hy Lạp mắc bệnh hiểm nghèo. Biết mình không còn sống được bao lâu nữa, anh xung phong gia nhập quân đội lúc đó đang bước vào trận chiến khốc liệt với kẻ thù. Với hy vọng được hy sinh anh dũng trên chiến trường, anh đã chiến đấu hết mình, không ngại phơi mình trước làn tên mũi đạn của kẻ thù và không mảy may lo cho mạng sống của mình. Cuối cùng, khi kẻ thù bị đánh bại, anh vẫn còn sống! Vô cùng cảm phục trước lòng dũng cảm, can trường của người lính nọ vì đã góp phần không nhỏ tạo nên chiến thắng ấy, vị tướng quyết định thăng chức và trao tặng cho anh huân chương danh dự cao quý nhất cho lòng dũng cảm.

Song, lạ thay đến ngày được trao huân chương, trông anh rất u buồn. Ngạc nhiên, vị tướng hỏi lý do thì được biết anh đang phải gánh chịu một căn bệnh nguy hiểm. Làm sao ông lại có thể để cho người lính dũng cảm của mình phải chết! Vị tướng đã cho tìm vị lương y giỏi nhất nước về trị bệnh cho anh. Căn bệnh chết người cuối cùng đã được chữa khỏi.

Nhưng từ đó trở đi người ta thấy người lính can-trường-một-thời đã không còn xuất hiện nơi tuyến đầu vất vả hiểm nguy nữa! Anh luôn né tránh mọi khó khăn và cố gắng bằng mọi cách để bảo vệ mạng sống của mình thay vì đương đầu với thử thách.

Về sau có dịp gặp lại, vị tướng đã nói với người lính nọ một câu: “Giờ đây anh mới thực là người đã chết hoàn toàn.” (First news – Theo Internet)

Chúng ta hãy nhớ lại có lần Chúa đã dạy: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không thối đi, nó sẽ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối đi nó sẽ sinh nhiều bông hạt”(Ga 12,24). Chúa đã chấp nhận con đường tự hủy để cứu chuộc loài người. Và những ai  muốn làm môn đệ của Chúa cũng phải làm như vậy.

2. Lý do thứ hai qua cuộc biến hình trên núi Chúa muốn dạy các môn đệ cũng như mọi người rằng: Chẳng có vinh quang nào mà không phải trả giá. Vinh quang càng cao, cái giá phải trả càng lớn. Vinh quang trần thế và vinh quang Thiên quốc cũng như nhau.

Mẹ Têrêsa Calcutta nói: “Thánh thiện không tùy thuộc những việc phi thường nhưng chính yếu là đón nhận với nụ cười những gì Chúa Giêsu gửi tới. Trọng tâm của đời thánh thiện là chấp nhận và sống theo ý Thiên Chúa”.

Có một nhà vua kia, một hôm cho triệu tập các cận thần lại. Vua đưa cho quan Tể Tướng một viên ngọc trai lóng lánh và hỏi:
– Ông hãy nói viên ngọc này đáng giá bao nhiêu?
– Muôn tâu, nó đáng giá còn hơn số lượng vàng khối mà 100 con lừa có thể chở.
– Ông hãy đẫp vỡ nó ra cho ta!
– Muôn tâu Bệ Hạ, làm sao hạ thần có thể đang tâm phung phí phá đi một báu vật như thế ạ !

Nhà vua thưởng cho quan Tể Tướng một chiếc áo danh dự và lấy lại viên ngọc.

Kế đó vua đưa viên ngọc cho quan Thị Vệ, và cũng hỏi:
– Theo ông, nó đáng giá bao nhiêu ?
– Bằng nửa vương quốc.
– Hãy đập vỡ nó vỡ ra cho ta!
– Đập vỡ viên ngọc này ư? Muôn tâu Bệ Hạ, tay thần không thể nào làm được việc đó.

Nhà vua cũng thưởng cho ông này một chiếc áo danh dự, lại còn tăng lương cho ông.

Sau cùng nhà vua đưa viên ngọc cho Abdul một tên cận vệ tầm thường.
– Ngươi có biết viên ngọc này đẹp đến mức nào không?
– Muôn tâu, đẹp không thể nói được.
– Hãy đập nát nó ra cho ta.

Lập tức Abdul lấy hai viên đá đập vỡ viên ngọc ra và nghiền nó thành bụi. Quần thần thét lên sợ hãi vì sự táo bạo của Abdul.

Họ hỏi :
– Tại sao nhà ngươi dám làm thế chứ ?
Abdul bình tỉnh đáp :
– Lệnh của Hoàng Thượng đáng giá hơn bất kỳ viên ngọc quý nào. Tôi tôn kính Hoàng Thượng chứ không tôn kính viên ngọc.

Nhà vua khen ngợi thái độ của Abdul và thưởng chàng trọng hậu hơn cả hai vị quan kia.

Cha nhắc lại lời của Mẹ Têrêsa Calcutta vừa nói ở trên: “Thánh thiện không tùy thuộc những việc phi thường nhưng chính yếu là đón nhận với nụ cười những gì Chúa Giêsu gửi tới. Trọng tâm của đời thánh thiện là chấp nhận và sống theo ý Thiên Chúa”. Chấp nhận và sống theo ý Thiên Chúa và chúng ta trở thành con yêu dấu của Chúa ở đời này và cả đời sau nữa. Amen.

Cám dỗ là chuyện xưa như trái đất. Cám dỗ xuất hiện cùng với sự có mặt của con người. Hẳn chúng ta không thể quên được chuyện hai ông bà nguyên tổ sa chước cám dỗ của ma quỉ. Dân Do thái, khi bị nô lệ dưới ách người Ai cập thì muốn được tự do, nhưng khi lang thang 40 năm trong sa mạc, phải chịu đói khát, lại bị cám dỗ muốn quay trở lại Ai cập để đươc no ấm.

A. Có thể nói, 3 cơn cám dỗ mà Đức Giê-su phải đương đầu hôm nay gồm tóm tất cả mọi thứ cám dỗ mà con người thường gặp.

Cơn cám dỗ thứ nhất : thoả mãn tức khắc mọi nhu cầu.  

Sau khi Đức Giê-su ăn chay 40 đêm ngày, Chúa càm thấy đói. Đói là một hiện tượng sinh lý rất thường tình khi con người nhịn ăn nhịn uống lâu. Ma quỉ thấy vậy liền đề nghị Chúa biến đá thành bánh mà ăn.

Thật là một đề nghị hợp lý. Đói thì phải ăn. Muốn ăn phải có bánh. Nhưng có bánh bằng cách nào mới là vấn đề. Không phải cứ có nhu cầu là phải thoả mãn ngay. Và nhất là không được dùng những cách không hợp đạo lý để thoả mãn những nhu cầu của mình.

Cơm bánh tượng trưng cho những nhu cầu thiết yếu của con người. Nhu cầu của con người thì có rất nhiều và xem chừng có khuynh hướng ngày càng gia tăng và cũng vì thế mà cơn cám dỗ thoả mãn nhu cầu ngày càng lớn.

Cơn cám dỗ thứ hai: muốn có quyền lực thống trị. 

Ma quỉ biết Đức Giê-su muốn cứu độ loài người, nên đề nghị tặng Người tất cả các nước trên trần gian. Có lẽ nhiều người nghĩ rằng đề nghị của ma quỉ là hợp lý. Cứ có quyền thống trị trên hết mọi dân nước rồi nói gì người ta chẳng nghe. Chúa sẽ không phải mất công chịu đau khổ và chịu chết. Chỉ cần quì xuống thờ lạy ma quỉ, vua quan, dân chúng các nước sẽ răm rắp tuân theo.

Thật là tiện lợi. Quyền lực là một cơn cám dỗ muôn đời của nhân loại. Từ ngàn xưa, vua chúa các nước đã không ngừng gây chiến để tranh giành quyền lực. Ngày nay, trong các cuộc chiến mới, người ta không còn giết nhau bằng gươm đao, súng đạn, nhưng bằng quyền lực kinh tế, khoa học, kỹ thuật. Tuy êm đềm nhưng cuộc chiến vô cùng khốc liệt. Cơn cám dỗ về quyền lực để thống trị không những không suy giảm mà còn mãnh liệt hơn.

Cơn cám dỗ thứ ba : tìm những điều kỳ lạ. 

Muốn những chuyện thần kỳ. Muốn làm được những việc kinh thiên động địa. Muốn có những thành công lẫy lừng. Cơn cám dỗ này thúc đẩy người ta đổ xô đi tìm phép lạ. Cơn cám dỗ xây tháp Ba-ben từ ngàn xưa vẫn còn tiếp diễn.

B. Xuyên qua những cơn cám dỗ ấy ta thấy ma quỉ thật vô cùng tinh khôn và hiểm độc.

Với cơn cám dỗ thứ nhất, ma quỉ muốn xô đẩy con người vào chỗ làm nô lệ cho dục vọng.  Xúi giục con người chỉ tìm thoả mãn những bản năng thấp hèn. Giới hạn con người vào sự sống xác thịt.

Đức Giê-su đã vạch trần âm mưu của ma quỉ khi Người cho biết con người không chỉ có đời sống thể lý mà còn có đời sống tâm linh. Khi quyết tâm chống lại cơn cám dỗ thoả mãn những nhu cầu thân xác để chăm lo cho sự sống tâm linh Chúa đã nâng cao phẩm giá con người lên.

Với cơn cám dỗ thứ hai, ma quỉ muốn biến con người thành nô lệ cho tham vọng, nô lệ cho ma quỉ. Vì ham hố chức quyền, vì mưu cầu danh vọng mà con người đánh mất tự do của mình, cam tâm làm nô lệ cho ma quỉ và vì tham danh vọng mà đánh mất cả chính mình.

Đức Giê-su đã vạch trần âm mưu đen tối của ma quỉ khi cương quyết chối từ danh vọng quyền thế. Chúa còn chỉ cho ta con đường duy nhất phải theo đó là thờ phượng Thiên chúa. Chỉ có thờ phượng Thiên chúa mới đem đến cho con người tự do đích thực, tự do trong tâm hồn, không bị nô lệ một tham vọng nào.

Với cơn cám dỗ thứ ba, ma quỉ đẩy con người vào sự nô lệ cho cuồng vọng, điên cuồng …đến chống lại cả Thiên Chúa, dùng Thiên chúa để phục vụ cho những ước vọng ngông cuồng của mình. không còn đến với Thiên Chúa trong tâm tình của người con thảo đối với Cha hiền nữa.

Đức Giê-su đã vạch trần âm mưu của ma quỉ khi Người chỉ cho ta con đường của người con hiếu thảo. Người con hiếu thảo là người luôn tin cậy phó thác và luôn làm theo ý Cha, chứ không bao giờ dám thách thức Cha. Người con hiếu thảo là người luôn vâng lệnh Cha sai bảo chứ không bao giờ dám sai bảo Cha.

Cám dỗ của ma quỉ hiểm độc vì nó tiến từng bước : Từ hạ thấp phẩm giá con người khi khiến con người làm nô lệ cho dục vọng đến cướp mất tự do của con người khi xui giục con người nô lệ cho ma quỉ và sau cùng đi đến chỗ tận cùng là chối bỏ Thiên chúa, không coi Thiên chúa là cha. Cám dỗ càng hiểm độc hơn vì ma quỉ đã khéo léo bọc những âm mưu thâm hiểm trong lớp vỏ nhung lụa, êm ái, hợp lý và đầy quyến rũ của những nhu cầu, quyền lực và uy tín.

Ngày xưa là như thế. Ngày nay cũng như vậy. Những cơn cám dỗ của ma quỉ vẫn như những chiếc bẫy giăng ra để trói buộc con người trong vòng nô lệ. Cám dỗ càng ngày càng tinh vi và càng ngọt ngào hơn nên càng hiểm độc hơn. Muốn chống trả được những cơn cám dỗ, ta phải bắt chước Đức Giê-su dùng những vũ khí sắc bén, đó là ăn chay cầu nguyện, thấm nhuần Lời Chúa và nói “KHÔNG” ngay với những mời mọc ngọt ngào của ma quỉ dưới mọi hình thức.

Trong cuộc chiến một mất một còn này không có chỗ cho thái độ chần trừ, bàng quang, ngoại cuộc, thỏa hiệp ảo tưởng. Với sự tự do được ban cho, con người phải  lựa chọn dứt khoát để nói lên thái độ của mình. Ở đây câu phúc âm “Không ai có thể làm tôi hai chủ” đòi hỏi một thái độ dứt khoát tuyệt đối trong nghĩa gốc cũng như trong nghĩa loại suy,
Trong kho chuyện ngụ ngôn của người Tây Phương có câu chuyện này: Có một ông già kia vì thân phận cô thân cô thế nên quanh năm ngày tháng chỉ biết vui với hoa cỏ, không có ai để bày tỏ sự tình. Một hôm kia ông đi ra khỏi chốn quạnh hiu của mình, mong tìm được một ai đó cho có bạn.

Rất may ông gặp được một con gấu. Thân phận nó cũng cô đơn không kém gì ông. Thế là ông già bằng lòng rước nó về nhà cùng nhau sớm hôm sum vầy. Gấu hết lòng trung hậu, hằng ngày ra công giúp đỡ làm cho ông già đẹp dạ vui lòng.

Một hôm, ông già ngủ trưa. Gấu ta ngồi một bên đuổi ruồi đập muỗi. Có một con ruồi cứ bay đi bay lại rồi đậu trên mũi ông già. Gấu ta đuổi đi nhưng nó lại bay trở lại và đậu trên đó nữa. Gấu hết sức giận, thấy bên cạnh có một viên đá bèn bê nó lên rồi rình mà ném một cái để giết con ruồi chết đi. Thế nhưng đâu có dè là…Con ruồi đã không hề hấn gì vì nó đã vội bay đi trước và hòn đá kết thúc cuộc đời của ông già trước sự ngỡ ngàng của gấu!

Chơi dao có ngày đứt tay, đùa với lửa có ngày gây nên hỏa hoạn: Con người biết rất rõ đó là những bài học và đã có biết bao thí dụ “xương máu” để chứng minh, thế nhưng vẫn còn không ít người sạ lầy ngay trên bánh xe của người đi trước.

Lạy Chúa, trong khi báo trước cho chúng con rằng “Ma quỉ muốn sàng sảy chúng con như người ta sàng gạo”, và “hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ, vì tinh thần thì mau mắn nhưng xác thịt vốn yếu đuối”, Chúa muốn chúng cơn ý thức rõ cuộc chiến dai dẳng và khó khăn đang chờ đợi chúng con. Đồng thời, Chúa cũng cho chúng con biết, trong cuộc chiến đấu này, chúng con không chiến đấu một mình.

Xin cho chúng con khi được củng cố bằng niềm tin mạnh mẽ để khi buớc vào cuộc chiến đấu với chính mình, một cuộc chiến gay go và nguy hiểm nhất trên đời này chúng con sẽ không phải hoảng sợ vì Chúa luôn đồng hành với chúng con để giúp chúng con chiến đấu và chiến thắng.

Lạy Chúa, xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.

Lc 4,1-13
“Bấy giờ Ðức Giêsu đáp lại:
Ðã có lời rằng: Ngươi chớ thử thách Ðức Chúa
là Thiên Chúa của ngươi”
(Lc 4,12).
1. Thiếu nhi chúng con yêu quí,
Cha hỏi chúng con: Thánh lễ hôm nay các con thấy có gì đặc biệt không nào?
– Dạ thưa cha, Cha mặc áo lễ mầu tím.
– Phải rồi, cha mặc lễ phục màu tím, thầy cũng đeo dây tím, các bạn lễ sinh cũng mang khăn tím. Vậy là chúng biết chúng ta đã vào một mùa phụng vụ mới, mùa gì chúng con?
– Mùa chay. Đúng rồi, mùa chay. Hôm nay là Chúa nhật I mùa chay. Mùa chay là thời gian thuận tiện để chúng ta theo gương Đức Kitô tập luyện chiến đấu chống lại ma quỉ.Bài Tin Mừng hôm nay cho biết Chúa Giêsu bị ma quỉ cám dỗ ba lần và cả ba lần Chúa đều chiến thắng thật vẻ vang.

Lần thứ nhất, sau khi Chúa Giêsu ăn chay cầu nguyện, không ăn gì cả suốt 40 ngày, Ngài đói meo, lúc đó ma quỉ tới cám dỗ Ngài: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho hòn đá này biến thành bánh đi”. Ma quỉ muốn Ngài dùng quyền phép để dễ dãi thoả mãn cơn đói của riêng mình, chẳng cần phải vất vả làm việc. Chúa Giêsu phản công làm sao? Người đã dùng một câu trong sách thánh: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh”.

Lần thứ hai, quỉ cho Chúa Giêsu thấy tất cả các nước trên thế gian, mọi thú vui và giàu sang phú quí, rồi nó dám lếu láo nói với Chúa: “Nếu ông thờ lạy tôi, tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị các nước đó”. Sức mấy mà Chúa Giêsu chịu thờ lạy nó, Người quả quyết: “Ngươi phải thờ lạy Thiên Chúa và chỉ phụng thờ một mình Người”. Đây cũng lại là một câu trích trong sách thánh.

Lần thứ ba, quỉ đưa Chúa Giêsu lên nóc đền thờ Giêrusalem, nó dụ dỗ Chúa Giêsu: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống đi… vì Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ gìn giữ ông”. Ma quỉ cám dỗ Chúa Giêsu thử thách Thiên Chúa, đồng thời biểu diễn phép lạ để mọi người thấy phải lác mắt thán phục. Chúa Giêsu mắng nó:
– Ngươi chớ thử thách Thiên Chúa là Chúa của ngươi.

Lại một lần nữa Chúa chiến thắng ma quỉ bằng một câu trích trong sách thánh. Cả ba lần ma quỉ đều thua, thế là chúng phải rút lui.

2. Các con thấy đó, Chúa Giêsu mà còn bị ma quỉ cám dỗ huống hồ gì là chúng ta. Mọi người chúng ta đều bị ma quỉ cám dỗ. Các con bị cám dỗ, cha cũng bị cám dỗ và chính cha mẹ các con cũng bị cám dỗ nữa.

Vậy theo các con cám dỗ là gì?
– Cám dỗ là những lời rủ rê chúng ta làm điều xấu, xúi giục chúng ta phạm tội.
– Giỏi lắm.
Cha hỏi chúng con ma quỉ cám dỗ chúng ta bằng cách nào? Phải chăng nó hiện hình thành một thằng quỉ đen thùi lùi, có đuôi dài, trên đầu có hai cái sừng để cám dỗ chúng ta? Không đâu!

Trước hết nó có thể cám dỗ chúng ta qua những người khác. Người đó có thể là những bạn xấu, khi họ rủ rê ta làm điều sai trái. Cũng có thể là những người xấu khi họ muốn lợi dụng chúng ta, làm hại chúng ta. Cha nghe nói, có những bọn xấu, chúng đến tận các cổng trường, cho các em học sinh tiền bạc bánh kẹo, dụ dỗ các em học sinh hút thuốc hay dùng thuốc gây nghiện để rồi biến những em học sinh thành những kẻ nghiện ma tuý, phải mua hàng của chúng.

Trong những trường hợp như thế này, các con phải làm gì? Phải chạy à? Đúng rồi, khi có người đề nghị các con điều gì các con không biết đúng hay sai, các con hãy chạy ngay lại thầy cô, cha mẹ để hỏi xem có được làm như thế hay không. Bọn xấu nghe nói các con đi hỏi cha mẹ thầy cô thì nó lỉnh đi chỗ khác liền.

Ngoài ra ma quỉ cũng có thể trực tiếp cám dỗ chúng con, nó bảo nhỏ vào tai chúng con, nó xúi giục trong tâm trí chúng con, nên chúng con rất khó nhận ra chúng. Chẳng hạn bạn Rong, trên đường đi lễ, ngang qua chỗ trò chơi điện tử, ma quỉ nói nhỏ vào tai:
– Còn sớm mà, vào đây coi một tí rồi ra ngay. Thế rồi Rong bước vào, nó lại rủ rê: chơi 15 phút thôi. Rong mê mải chơi và quên mất thời gian, thế là không đi lễ. Về nhà má hỏi đi đâu về trễ. Nghe ma quỉ xúi giục Rong lại nói dối má: con đi lễ và học giáo lý mới về.

Đức Chúa Arthur Tone có thuật lại một câu truyện thật đau lòng như sau. Trong ngôi nhà tù nổi tiếng có tên là Sing Sing ở New York, một tù nhân bị đem ra hành hình vì tội đã giết một cảnh sát viên. Trước khi chết, người ta cho anh ta được nói những lời cuối cùng. Với một giọng đau đớn đến cực độ anh ta thét lớn lên
– Tất cả đã bắt đầu khi tôi ăn cắp đồng năm xu trong túi của mẹ tôi…..Rồi tôi ăn cắp hai đồng năm xu…sau đó tôi ăn cắp đồ vật ở trường học, ở tiệm tạp hóa, ở tiệm thuốc. Hai đứa bạn và tôi bắt đầu tập luyện… Chúng tôi kiếm được mỗi ngày mỗi nhiều hơn. Sau đó chúng tôi quyết định cướp Ngân hàng và lần đó tôi đã bắn gục viên cảnh sát. Đó, tất cả bắt đầu từ một đồng năm xu.

Chúng ta không thể lường trước được.
Ma quỉ rất khôn khéo và xảo quyệt.
Từ đồng năm xu đi đến chỗ giết người. Con đường tưởng như xa nhưng lại rất gần
Từ một ngụm rượu cho đến tật say sưa…con đường cũng tương tự như thế.

Có ai ngờ được rằng chỉ vì một lần hút thử mà rồi rơi vào cơn nghiện ngập lúc nào không hay. Con đường tưởng xa mà hóa ra lại rất gần.

Vậy muốn thắng được ma quỉ các con phải năng tham dự thánh lễ, lãnh nhận Mình Thánh Chúa. Ước chi trong Mùa Chay này, các con biết luôn tin tưởng bám chặt vào Chúa, được vậy ma quỉ sẽ chẳng thể làm gì hại các con, bởi vì Chúa sẽ luôn trợ giúp và bảo vệ các con như lời Kinh Thánh mà thánh Phaolô lập lại trong bài đọc 2 hôm nay: “Ai đặt niềm tin vào Chúa, sẽ không phải thất vọng” và “Ai kêu cầu danh Chúa, sẽ được cứu thoát”.

Kính thưa anh chị em.
Chúng ta đang học hỏi về lối sống yêu thương của Chúa. Tuần trước chúng ta đã nói với nhau về một trong những khía cạnh của lối sống đó. Chúng ta đã nói về sự tha thứ. Hôm nay qua lời dạy bằng dụ ngôn rất dễ hiểu, Chúa cũng muốn nói với chúng ta về lối sống này qua hai lời khuyên.

1. Lời khuyên thứ nhất: Yêu thương là phải làm cho người khác trở nên tốt lành hơn. Muốn thế chúng ta phải tự học để làm cho mình trở nên tốt lành trước.

Lý do: “Mù mà lại dắt mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố? Học trò không hơn thầy, có học hết chữ cũng chỉ bằng thầy mà thôi. Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới? Sao anh lại có thể nói với người anh em: “Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra”, trong khi chính mình lại không

thấy cái xà trong con mắt của mình? Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em!(Lc 6,40-42)
Có lẽ ít có lời hướng dẫn nào cụ thể và thực tế hơn thế. Quy luật muôn đời vẫn còn đó. Không ai có thể cho cái mình không có. Vậy muốn làm cho những anh em của chúng ta trở nên tốt thì chính mỗi người chúng ta phải tự huấn luyện mình nên tốt. Có như thế chúng ta mới tránh được điều mà Chúa Giêsu gọi là giả hình, một thói xấu rất phổ biến của mọi thời đại xưa cũng như nay.

Nam tướng J. Eotvos, một nhà tư tưởng có tiếng của Hungari đã nói:
“Giá trị chân chính của con người không phải bởi năng trí, mà chỉ là bởi sức mạnh của chí khí. Những tài năng đối với người thiếu nghị lực chỉ làm cho họ hèn yếu: cái tư chất siêu việt của một người kém chí khí lại là người khốn nạn đáng khinh nhất”.
Một mùa xuân, anh nông dân đứng bên cạnh thửa ruộng, đưa mắt nhìn những luống cày thân yêu đang phơi mình dưới ánh sáng và tự hỏi:
– Năm nay, hỡi mảnh ruộng của ta, mi có đem lại cho ta cái gì chăng?
Những mảnh ruộng kia sẽ trả lời bằng một câu hỏi khác:
– Nhưng thưa ông, trước hết ông hãy cho tôi biết ông định cho tôi cái gì đã?
Đó, người bạn trẻ cũng dừng bước trước cánh cửa nhiệm mầu của đời sống:
– Hỡi đời sống, mi có dành cho ta cái gì không? Cái gì sẽ chờ đợi ta từ năm này sang năm khác?
Nhưng đời sống sẽ hỏi lại chàng trẻ tuổi:
“Hỡi anh, điều đó còn tùy ở những gì anh cho tôi, phần của anh sẽ được xứng với công việc của anh. Anh sẽ hái quả của hạt giống anh gieo.
Kinh nghiệm sẽ chỉ cho chúng ta biết rằng con đường đưa đến chí khí không phải dễ. Cần phải có một ý chí mạnh mẽ mới chống nổi được với những tật xấu nhỏ mọn, và không bao giờ sa ngã. Một ý chí không ngừng, và cần phải được chú trọng luôn.
Bạn có tự hỏi với mình rằng: tôi muốn! Tôi muốn!
– Và có phải bạn muốn đúng như thế chăng?
– Tôi muốn kiềm chế ngũ quan và tình cảm của tôi.
-Tôi muốn đặt cái lộn xộn của tư tưởng tôi vào thứ tự.
-Tôi muốn suy nghĩ trước khi nói.
-Tôi muốn cân nhắc mọi điều trước khi hành động.
-Tôi muốn lợi dụng ngay những kinh nghiệm của việc đã làm, tôi muốn nghĩ đến tương lại, vậy tôi muốn dùng ngay những quãng thời giờ hiện tại một cách đúng mực.
-Tôi muốn làm việc tận tâm, chịu đau khổ mà không phàn nàn, sống trong đạo hạnh, và sau hết chết bình yên, trong hy vọng được hưởng hạnh phúc đời đời.
Còn đời sống nào cao thượng hơn nữa không?

Đúng thế, muốn làm cho những người được mình yêu thương trở nên tốt lành thì chính mình phải học để trở nên tốt lành trước. Con đường làm cho mình được như thế không phải dễ. Cần phải có một ý chí mạnh mẽ. Làm được như thế là chúng ta trở thành một con người cao thượng và sẽ thành tấm gương sáng chói trước mặt mọi người

2. Lời khuyên thứ hai của Chúa: “Không có cây nào tốt mà lại sinh quả sâu, cũng chẳng có cây nào sâu mà lại sinh quả tốt.

Thật vậy, xem quả thì biết cây. Ở bụi gai, làm sao bẻ được vả, trong bụi rậm, làm gì hái được nho! Người tốt thì lấy ra cái tốt từ kho tàng tốt của lòng mình; kẻ xấu thì lấy ra cái xấu từ kho tàng xấu. Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra.” (Lc 6,43-45)
Nội dung lời khuyên này cũng không quá khó hiểu. Xem ra nó cũng chẳng khác với lời khuyên thư nhất là bao.

Ở bụi gai, làm sao bẻ được vả, trong bụi rậm, làm gì hái được nho!

Một em gái nhỏ vâng lời bà nội bảo đi quét nhà. Quét xong, bé đến thưa bà là mình đã quét sạch rồi. Bà nội hỏi lại : “Có thật quét xong chưa? Để bà xem lại.” Nói rồi bà cụ đứng dậy xem khắp nhà. Xem một lượt, bà nói với đứa cháu gái : “Nhà chưa sạch gì cả, chỗ nào cũng đầy bụi. Con quét lại đi !” Cô gái nhỏ vâng lời quét thêm một lần nữa, lần này bé quét thật kỹ. Quét xong liền đến trình cho bà nội. Cũng như lần trước, bà cụ xem qua một lượt rồi nói : “Nhà cũng chưa được sạch gì cả, chỗ nào cũng đầy bụi. Sao quét dối vậy? Quét lại đi! Cô gái nghĩ rằng mình còn nhỏ quét chưa sạch được, nên cố vâng lời nội đi quét lần nữa. quét xong, nó cũng đến trình cho nội. Lần này cũng như hai lần trước, bà cụ xem xong lại nói là nhà chưa sạch. Cô gái lấy làm lạ kỳ. Cuối cùng nó phát hiện ra là bà cụ mang cặp kính dính đầy bụi. Thì ra, vì vậy mà bà cụ nhìn đâu cũng thấy toàn là bụi cả.

Chỉ có cặp mắt trong sáng, tấm lòng trong sạch mới có thể nhìn thấy sự thực.

Câu 43-44: Nhắc nhở rằng chúng ta chỉ có thể nhận xét người khác qua việc làm của họ:

Để phân biệt cây tốt xấu phải căn cứ vào quả – công việc – chứ không phải lá – lời nói ” vì có nhiều người chỉ tìm thấy lá khi đến gần. Nào là lá to, lá rậm, lá bóng … lá, chỉ có lá, ngoài ra không có gì khác ! Nhiều người chạy đến chúng ta nói hy vọng tìm được giải khát, họ đang khát mong Thiên Chúa. Chúng ta đừng quên rằng chúng ta đang có trong tay tất cả những điều ấy. Chúng ta có đầy đủ giáo lý, với ơn Chúa, mặc dầu chúng ta không xứng đáng” (Escriva, Amis de Dieu, 51)

Có người đã nói với một giáo sư rằng : “Tôi không thể nghe lời ông nói vì đã được thấy con người của ông rồi. “Giảng và dạy, cả hai đều là sự thật qua nhân cách. Lời hay không bao giờ thay thế được việc tốt”.

Một nhà chế tạo làm được một con ong, cũng vỗ cánh bay được, cũng kêu vo vo, người đứng xem không tài nào biết được nó là ong giả cho tới khi có người hỏi rằng: “Nó có làm ra mật không?” Chỉ một sự thí nghiệm đơn sơ ấy cũng đủ phân biệt ong thật với ong giả. Cứ xem quả thì biết cây. Khi có ai khoe khoang về đời sống đạo của họ, chỉ cần hỏi như thánh Phao-lô: “Thế thì anh em được kết quả gì ?” (Rm 6,21) Con đường duy nhất để chứng tỏ Ki-tô giáo là đạo thật là chúng ta phải sống thế nào cho mọi người thấy Ki-tô giáo sản sinh ra những người tốt thật.

Chúa Giê-su nhắc nhở rằng xét cho cùng lời nói ở môi miệng chúng ta chỉ là sản phẩm của lòng chúng ta. Không ai có thể mở miệng nói về Thiên Chúa nếu Thánh Thần không ở trong lòng người ấy. Không có điều gì bộc lộ rõ tâm trạng của một người cho bằng chính lời nói của họ, khi họ không cầm giữ ý tứ khi nói năng, khi họ tự do phát ngôn, nghĩ sao nói vậy.
Trả lời cho một thanh niên mong ước được biết rõ về mình, một cụ già đã trả lời như sau: Ngày nọ ở một chân trời xa tắp, người ta thấy có hai bóng đen đang ôm nhau.
Một em bé ngây thơ buột miệng nói: hai bóng đen đó là ba má đang hôn nhau.

Một chàng thanh niên mơ mộng nói: đó là đôi tình nhân đang quấn quýt bên nhau.

Một người cô đơn nhận xét: hẳn họ phải là hai người bạn thân gặp nhau sau nhiều năm tháng xa cách.

Một kẻ tham tiền lại nghĩ khác: đó phải là hai thương gia vừa mới ký giao kèo làm ăn.

Một người đàn bà có trái tim trìu mến thì thào: đây là người cha mới từ trận chiến trở về ôm hôn đứa con gái mình.

Một tên sát nhân đứng gần đó góp ý: đây là hai người đàn ông đang vật lộn đáu đá nhau trong cuộc giao chiến sống còn.

Người đàn ông khác không màng chi tới việc chung quanh gắt: ai mà biết được họ đang ôm hôn hay cắn xé.

Cuối cùng, có một vị thánh đầy lòng yêu thương của Thiên Chúa giảng hòa: không gì đẹp bằng cảnh hai con người ôm nhau.
Kể xong câu chuyện, cụ già kết luận: mỗi một tư tưởng của bạn sẽ bộc lộ bạn là ai. Bạn nên tự vấn lương tâm xem bạn từng nghĩ về gì? Chính câu trả lời cho một câu hỏi bất ngờ có thể cho thấy tư tưởng của người đó thích tập chú vào đâu và những sở ước của họ đặt ở đâu. Lời nói của chúng ta phản ánh tâm địa của chúng ta.Amen.

Thiếu nhi chúng con yêu quí,
Lại một lần nữa Chúa Giêsu dạy chúng ta về cách sống ở đời.
Cha nhớ tuần trước Chúa dạy chúng ta về sự tha thứ.
Tuần này Chúa dạy chúng ta về sự cẩn trọng trong việc xét đoán nhất là xét đoán về người khác.

1. Chúng con đã có bao giờ xét đoán ai chưa?
Riêng cha, cha thấy nếu mình không cẩn trọng thì mình rất dễ rơi vào cái thói xấu ở đời là hay xét đoán người khác. Cha kể cho chúng con câu chuyện này. Đã lâu lắm rồi, một lần nọ cha bị bệnh mà phải đi nằm nhà thương. Nằm trong nhà thương cha thấy thời giờ ở trong đó sao mà chậm rãi quá. Cha nhờ một người thân ra ngoài sạp báo mua cho cha một tập truyện. Tên của tập truyện nhỏ đó: “Cái chuông điện” Trong tập truyện nhỏ này có nhiều nhưng cha nhớ mãi câu chuyện này.

Trong một gia đình kia có một ông bố có người con đang đi học.

Một hôm ông ấy thấy đứa con đang cầm cuốn sổ liên lạc trong tay. Nhìn thấy thế ông bỗng nhớ tới có lần đọc trong báo, ông thấy người ta khuyên không phải chỉ nhà trường mà cả các bậc phụ huynh cũng phải làm công tác vào công tác giáo dục con cái. Thế là ông quyết định thử bắt tay vào công tác giáo dục này. Ông nói với đứa con:

– Đưa bố xem nào!
Thế là ông lấy từ tay con trai ông cuốn sổ nhầu nát, bẩn thỉu, mất mấy trang. Những trang còn lại thì viết nhằng nhịt toàn chữ nguệch ngoạc đến phát sợ. Chỉ có nét chữ bằng mực đỏ của cô giáo thì còn đọc được. Ông sờ tay vào khoá thắt lưng chuẩn bị sẵn, rồi bắt đầu đọc: “Con trai của Ông bà ngủ gục trong giờ học – Con trai của Ông bà gây gỗ với bảo vệ”. Ông bắt đầu nóng tiết rồi tự nói thầm

A! cái thắng mất dạy! – Bằng ngần này tuổi mà đã gây gỗ với bảo vệ thì không hiểu sau này nó còn kiêng nể ai nữa. Thật đáng sợ! Riêng mấy nhận xét này thôi thì đã đáng cho nó một trận đón rồi! Và Ông bắt đầu cởi giây thắt lưng.

Ông cho một viên Valiđan – thuốc trợ tim- vào miệng rồi đọc tiếp: “Trong giờ vẽ, đáng lẽ phải vẽ con buớm thì lại đi vẽ mụ phù thủy cuỡi chổi – Ném đá làm vỡ Biển Thái bình dương – Yêu cầu mang ba rúp 70 cô pếch đến để bồi thường tiền sửa chữa quả địa cầu địa lý – Giờ toán ngồi săn cá Xê-lêt-ca.”Đọc tới dây ông thấy có gì hơi khác thường, ông tự nhủ: “Khoan khoan….- Hình như có một cái gì đó hơi lạ.” Rồi Ông tra hỏi đứa con của Ông:- Tại sao mày lại ăn cá Xê-lêt-ca trong giờ toán hả? .Con trai tôi đáp

-Cái gì ạ? Chính bố biết là con rất ghét món Xê-lết-ca. Với lại đây có phải là sổ liên lạc của con đâu. Con tìm thấy trong đống sách cũ của bố trên gác xếp đấy chứ ạ.
Nghe con nói thế, ông tự nhủ trong lòng: “Tôi xem lại cuốn sổ – Quả thật như vậy! Ngoài bìa có tên đề là tên của tôi. Trong cuốn sổ cũng quen quen. Thôi thì đích là cuốn sổ liên lạc của tôi rồi.- Chà định giáo dục con mà thành ra như thế này!” Rồi giọng ông dịu hẳn xuống

– Này, thế con đã đọc quyển sổ ấy chưa?

– Con chưa kịp xem – Con trai ông đáp.

Ông thở phào như trút được gánh nặng trong người. Biết giáo dục con kịp thời…may thế đấy! (Bactia: Cái chuông điện)

Đúng là cái rác trong con mắt của người anh em chúng ta thấy rất rõ nhưng cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới ?” (Lc 6,41)

Chúng ta rất dễ nổi quạu, phê bình, nói xấu anh em chúng ta và rất nhiều khi chúng ta quên rằng chính mình nhiều khi còn tệ hơn thế nữa. Chính bản thân chúng ta còn đầy những thói hư tật xấu. Nhưng khi lên án, chỉ trích anh em, chúng ta làm như thể mình vô tội. Thực ra đó chỉ là cái đà lớn che đi con người của tôi mà thôi.

Một hôm, có người chạy tới thì thầm với nhà thông thái Socrates:
– Này Socrates, tôi có tin này về người bạn của ông đây.
Socrates vội đáp:

– Khoan đã! Ông đã lọc cái tin ấy qua ba cái sàng chưa?
– Ba cái sàng à?
– Phải, ba cái sàng đấy ông ạ. Nào, bây giờ hãy xem điều ông muốn kể với tôi có lọt qua ba cái sàng ấy không. Cái sàng thứ nhất là sự thật. Ông có chắc chắn rằng điều ông sắp nói là sự thật không?

– Ờ, … thật ra tôi nghe qua người khác.
– Ra thế. Chúng ta tiếp tục qua cái sàng thứ hai nhé. Điều ông sắp nói đó là tốt chứ?
– Không hẳn vậy. Thực tình, nó ngược lại.
– Để lưu ý điều đó. Bây giờ hãy nói xem chuyện này có cần thiết không?
– Hầu như không.

– À, nếu điều ông muốn kể cho tôi nghe đã không thật, chẳng hay ho, cũng không cần thiết, vậy thì bỏ qua cho xong. (Christopher Notes)

2. Chúng ta hãy tập cho mình cái thói quen đừng vội nghĩ xấu về người khác. Hãy nhìn vào mình trước khi nhìn vào người khác.

Có như thế chúng ta sẽ tránh được cái thói xét đoán người như lòng Chúa mong ước. “Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới? Sao anh lại có thể nói với người anh em: “Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra”, trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình? (Lc 6,41-42)

Vào thời Vua Henry VII của Anh, ở Luân Đôn nạn trộm cắp thật nhiều. Quan Chương ấn Thomas More nhận thấy vị thẩm phán già hay khiển trách những người đến khiếu nại vì bị móc túi ngoài đường, ông quan tòa già quả quyết rằng nếu mấy nạn nhân đó cẩn thận giữ túi tiền của mình thì làm sao mà mất được.

Nhân một cuộc họp các thẩm phán, Thomas More bí mật cho gọi một tên móc túi chuyên nghiệp đang ở tù và dặn rằng:
-Ta sẽ thưởng cho nhà ngươi, nếu ngươi móc được túi tiền của ông quan tòa già kia.
Tên móc túi xin phép được tới nói chuyện với vị quan tòa già và đưa tay khéo léo móc được túi tiền của ông ta rồi hiên ngang về chỗ ngồi .
Thomas More bấy giờ mới lên tiếng xin các vị thẩm phán làm phúc bố thí cho một người nghèo ở đó. Vị nào cũng rờ túi tiền của mình. Vị quan tòa già kia giật mình vì không thấy túi tiền mình đâu nên la lớn:
– Bớ ăn cắp!  Có tên nào ăn cắp túi tiền của tôi rồi!
Thomas nói:
– Sao? Ông nói chúng tôi ở đây đã ăn cắp túi tiền của ông sao?
Ông quan tòa mặt đỏ bừng vì giận. Bấy giờ Thomas More mới gọi tên lưu manh kia và bảo trả lại túi tiền cho đương sự. Thomas nói với vị thẩm phán già:
– Tôi khuyên ông hãy bớt nghiêm khắc với những người đã bị móc túi ngoài đường phố, vì chính ông  cũng đã để cho người ta cuỗm mất túi tiền ngay giữa đại hội như thế!

3. Cha muốn kết thúc bằng lời khuyên của thánh Giacôbê “Thưa anh em, anh em đừng nói xấu nhau. Ai nói xấu hoặc xét đoán anh em mình là nói xấu và xét đoán Lề Luật. Nếu anh xét đoán Lề Luật, thì anh không còn là kẻ vâng giữ, mà là kẻ xét đoán Lề Luật.(Gc 4,11)

Chỉ có một Đấng ra Lề Luật và xét xử, đó là Đấng có quyền cứu thoát và tiêu diệt. Còn anh là ai mà dám xét đoán người thân cận? (Gc 4,12)
Chúa còn nói mạnh hơn “Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy; và anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em.”

Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con một tâm hồn
theo hình ảnh Tấm Bánh Thánh.
Một tâm hồn trong trắng,

cố tránh cả những ô uế nhỏ mọn
để luôn xứng đáng với Chúa.
Một tâm hồn khiêm hạ
tìm kiếm chỗ nhỏ bé,

nhưng luôn luôn muốn bày tỏ
một tình yêu lớn lao.
Một tâm hồn đơn sơ,
không biết đến phức tạp của ích kỷ,

và tìm hiến dâng mà không đòi lại.
Một tâm hồn lặng lẽ,
hạnh phúc khi thấy sự quảng đại của mình
không được người khác biết đến.

Một tâm hồn nghèo khó,
chỉ làm giàu cho mình
nhờ chiếm được chính Chúa.
Một tâm hồn luôn hướng về tha nhân,

quan tâm đến những nhu cầu
và ước muốn của họ.
Một tâm hồn luôn kết hiệp với Chúa,
và múc lấy nguồn sống từ nơi Chúa.

Bài Tin Mừng hôm nay là một trong những đoạn Tin Mừng đẹp nhất trong toàn bộ Tin Mừng. Xin được nói về vài nội dung:

1. Nội dung thứ nhất: Chúa muốn nói với chúng ta về những sắc thái mới mẻ của luật yêu thương.

a- Như anh chị em đã thấy cuộc sống của con người trên trần gian này bị nhiều thứ luật lệ chi phối. Trong số những lề luật đó có một thứ rất quen thuộc và hầu như nó chi phối thường xuyên cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Đó là luật Công bằng. Ngôn ngữ thông thường của chúng ta thường nói là luật có đi có lại – luật vay trả.

– Cựu ước đã diễn tả luật này thành một công thức tương đối cũng rất dễ hiểu. Đó là luật:”Răng thế răng, mắt đền mắt”
– Đây là luật có tính cách sòng phẳng.
Sống như thế theo cách nhìn của trần thế kể như là cũng đã tốt lắm rồi. Thế nhưng đối với Chúa thì chưa đủ. Sống như thế theo như Chúa Giêsu nói: “người tội lỗi, những người thu thuế và cả những người dân ngoại cũng làm được.”

b- Chính vì thế mà hôm nay Chúa đề nghị chúng ta phải vươn lên tới một cuộc sống được chi phối bởi một thứ luật cao hơn. Đó là luật Bác ái. Chúa diễn ta luật ấy bằng những lời lẽ rất cụ thể như thế này:
” Hãy yêu thương kẻ thù.
Hãy làm ơn cho những kẻ ghét anh em
Hãy chúc lành cho những kẻ nguyền rủa anh em.
Hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống cho anh em
– Như thế chúng ta thấy rõ ràng Chúa đã muốn những ai muốn theo Chúa phải vượt lên trên cái lẽ thường tình của cuộc đời làm người . Những đòi hỏi của Chúa không còn nằm trên bình diện “có đi có lại nữa”. Nó đã tiến xa hơn, xa tới mức “có đi mà không có lại:
” Ai xin thì hãy cho
Ai vả má bên này thì hãy giơ cả má bên kia nữa
Ai đoạt áo ngoài của anh em thì đừng cản nó lấy cả áo trong”
Thật không còn gì để có thể nghi ngờ. Rõ ràng là Chúa đòi hỏi những người theo Chúa phải sống một cuộc sống được chỉ đạo bằng một luật cao hơn luật Công bằng. Phải vươn lên đến luật bác ái yêu thương, yêu thương dường như không có bờ không có bến.

Và theo Chúa có sống một cuộc sống như thế thì mới xứng đáng là con Đấng Tối cao.
Đó là nội dung thứ nhất.

2. Nội dung thứ hai: Chúa chỉ cho những người làm con của Chúa cách thức thực hành để sống cuộc sống như Chúa mong muốn đó..

a- Qua những chỉ dẫn này chúng ta thấy Chúa là một người rất thực tế. Chúa không đòi hỏi những gì quá sức của con người. Chúa cũng không đòi hỏi những gì quá cao siêu, quá khó hiểu. Nguyên tắc Chúa đưa ra ở đây ai nghe cũng có thể hiểu.

Chỉ có một điều hơi lạ là ở trên thì chúng ta thấy Chúa đòi hỏi một mức độ thật cao nhưng khi đưa nguyên tắc áp dụng thì Chúa lại tỏ ra rất thông cảm với con người.
Đây  là nguyên tắc của Chúa :”Điều gì anh em muốn người ta làm cho mình thì cũng hãy làm cho người ta như vậy” Chỉ dẫn này rõ ràng là còn nằm trên bình diện công bằng. Thế nhưng thực hành được như Chúa nói cũng không phải là một điều dễ.

b- Tôi tự hỏi: Tôi muốn người ta làm gì cho tôi.
– Điều tôi không bao giờ muốn là người ta xử tệ với tôi, người ta lừa đảo tôi, người ta nói xấu tôi, người ta thù oán tôi, người ta xỉ nhục tôi vv và vv.
– Và điều mà tôi luôn muốn là tôi được sống an bình, tôi được tôn trọng, tôi được kính nể, tôi được yêu thương, tôi được tha thứ…

c- Vâng kính thưa anh chị em tất cả những điều ấy tôi tưởng có lẽ không có gì là khó hiểu. Rất dễ hiểu là đàng khác. Thế nhưng làm được như thế có phải là dễ không?.
Tôi nhớ lại một câu truyện nhỏ trong cuộc đời của thánh Gioan Don Bosco. Một hôm Ngài đang đi trên đường thì bị một nhóm trẻ “bụi đời” làm hàng rào cản lối không cho Ngài đi qua. Ngài thản nhiên dừng lại và bằng một cử chỉ rất lịch thiệp Ngài bỏ mũ xuống và nói:
“Xin các bạn cho phép tôi đi qua”
Nhóm trẻ ngỗ nghịch ấy lập tức im lặng. Chúng ngạc nhiên về cung cách lịch thiệp của Ngài và sau đó chỉ còn biết trả lời:
” Thưa Cha, xin cha cứ việc đi”
Pascal có nói một câu rất hay:”Biết làm khơi dậy sự kính trọng lẫn nhau đó là kết quả lớn lao của lòng yêu mến”
Đó là nội dung thứ hai.

3. Nội dung thứ ba: Mẫu mực và phần thưởng cho những ai dám sống đời sống yêu thương như Chúa mời gọi.

a- Mẫu mực. Đó chính là Thiên Chúa. Và phần thưởng sẽ rất lớn lao.

Chính Thiên Chúa là mẫu mực. Thánh Gioan gọi đã gọi tên Người là Tình yêu. Anh chị em thấy mấy dòng chữ mà chúng tôi gắn trên tấm bảng và treo ở dưới cuối nhà  thờ: “Thiên Chúa là Tình yêu”. Có lẽ không có tên gọi nào để gọi Thiên Chúa đẹp đến như thế. Thiên Chúa là Tình yêu.
Ở cuối bài Tin Mừng hôm nay, chỉ bằng một câu nói thật vắn gọn Chúa Giêsu cho chúng ta thấy Thiên Chúa thực hiện lòng yêu thương như thế nào: “Người nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác”.

Thật không còn gì có thể hồ nghi về ý muốn của Chúa. Chúa muốn chúng ta nên giống Người.
Dan Clark đã thuật lại một câu truyện rất cảm động như sau: Buổi tối hôm đó trời rất lạnh. Một em bé khoảng 6-7 tuổi đang đứng tần ngần trước một cửa hàng. Đứa bé rất nghèo. Nó không có giầy. Quần áo của nó chỉ là những miếng giẻ rách được khâu lại. Bỗng có một thiếu phụ đi qua. Trông thấy cậu bé, người thiếu phụ dừng lại. Bà dư sức hiểu được cậu bé đang thèm khát những gì qua cặp mắt xanh u uẩn của nó. Bà cầm tay cậu bé, dắt cậu vào trong tiệm. Bà mua cho cậu một đôi giầy mới và một bộ quần áo ấm.

Sau đó cả hai lại trở ra phố. Bà nhìn cậu bé một lần nữa và nói:
– Bây giờ cháu có thể về nhà và hưởng một ngày thật vui vẻ nhé.
Cậu bé ngạc nhiên đưa cặp mắt ngước nhìn lên người thiếu phụ và hỏi:
– Thưa bà, bà có phải là Chúa không?
Bà cúi xuống mỉm cuời với cậu và trả lời:
– Con ơi! Không phải đâu. Bà chỉ là một trong những đứa con của Ngài thôi.
Lúc đó cậu bé nói:
– Cháu biết ngay mà bà có họ hàng với Ngài mà.

Thiếu nhi chúng con yêu quí,

Chúng ta vừa được nghe một bài Tin Mừng hết sức độc đáo của Chúa Giêsu do thánh Luca ghi lại.

Đây là câu chuyện nói cho chúng ta biết về lối sống của Chúa Giêsu cách tuyệt với nhất.

Vậy thử hỏi Chúa đã sống như thế nào? Thưa Chúa đã sống trọn vẹn lý tưởng yêu thương mà Chúa luôn giảng dạy. Bài Tin mừng hôm nay là một minh chứng cụ thể.
Cha hỏi chúng con: sống yêu thương là sống như thế nào chúng con?
Có nhiều cách nhưng cách rõ rệt và cụ thể nhất đó đó là phải biết tha thứ cho nhau.
Cha hỏi tiếp:
– Tại sao phải tha thứ chúng con? Thưa vì hận thù sẽ làm cho cuộc sống này mất đi nhiều niềm vui và hạnh phúc.
Cha chắc chúng con còn nhớ lời của nhà văn Alfred D’Souza mà cha đã nói với chúng con tuần trước: Đời sống có hạnh phúc hay không là hoàn toàn phụ thuộc vào cách suy nghĩ và cách sống của mỗi người” Vậy thì muốn có hạnh phúc chúng ta không được nuôi dưỡng cưu mang hận thù trong lòng. Sẽ chẳng có hạnh phúc cho những ai cứ nuôi dưỡng cưu mang mãi trong lòng sự hận thù và đeo đuổi mãi sự báo thù trong cuộc sống của mình.

Chúng con hãy nghe câu chuyện này: Đây là câu chuyện do nhà Văn hào Nga Léon Tolstoi có kể. Câu chuyện như sau: có một người hành khất kia đến trước cửa nhà một người giàu có để xin bố thí. Mặc cho người khốn khổ van xin, người giàu có vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Đến một lúc không chịu được những lời van xin đó, thay vì bố thí, người giàu có đã lấy một hòn đá ném vào người hành khất

Con người khốn khổ ấy lặng lẽ nhặt lấy hòn đá cho vào bị rồi thì thầm trong miệng: “Ta mang hòn đá này cho đến ngày nhà ngươi sa cơ thất thế. Ta sẽ dùng nó để ném trả lại ngươi”.
Năm tháng trôi qua, lời chúc dữ của người hành khất đã thành sự thật. Vì biển lận, người giàu có bị tước đoạt tất cả tài sản và bị tống giam vào ngục. Ngày hôm đó người hành khất cũng chứng kiến cảnh người ta áp giải người giàu có vào ngục. Nỗi căm hờn sôi sục trong lòng, ông đi theo đoàn người áp tải, tay không rời hòn đá mà người giàu có đã ném vào người ông cách đây mười mấy năm. Ông muốn ném hòn đá đó vào người tù để rửa sạch mối nhục hằng đeo đẳng trong lòng ông.
Nhưng cuối cùng khi nhìn thấy gương mặt tiều tụy đáng thương của kẻ đang bị cùm tay, người hành khất thả nhẹ hòn đá xuống đất rồi tự nhủ: “Tại sao ta lại mang nặng hòn đá từ bao nhiêu năm qua? Con người này, giờ đây cũng chỉ là một kẻ khốn khổ đâu có hơn gì ta”.

Hận thù tai hại như thế đó chúng con.

Thánh Mahasma Gandhi nói: “Thế Giới đã mệt mỏi vì hận thù. Tôi cảm thấy không thể nào chất chứa trong lòng sự hận thù oán ghét đối với bất cứ một tạo vật nào. Nhờ sự huấn luyện lâu năm trong việc tự chủ và cầu nguyện, hơn 40 năm nay, tôi đã chấm dứt được sự giận ghét và oán thù bất cứ một người nào. Kẻ thù của bạn sẽ đầu hàng khi bạn làm cho họ kiệt sức, nhưng họ sẽ chịu thua khi tâm hồn bạn từ chối, không tiếp tục sử dụng bạo lực nữa. Một trái tim dù chai đá tới đâu cũng trở nên mềm mại trong lò lửa của Tình yêu”
Karl Menninger nói: “Tình yêu là liều thuốc kỳ diệu chữa trị mọi vết thương của cả người cho lẫn người nhận”.

Lev Tolstoy còn nói mạnh hơn “Tình yêu diệu kỳ. Ở đâu có tình yêu, ở đó có sự sống”.Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy điều đó.
Một hiệp sỹ dũng cảm tên là Hidebrand bị một bạn đồng nghiệp tên là Bruno nhục mạ nặng nề. Hidebrand thề sẽ trả thù đích đáng. Ông suy nghĩ và chuẩn bị kỹ lưỡng chương trình hành động. Cuối cùng, ông chọn địa điểm và thời giờ thuận lợi. Ông thức dậy giữa đêm, một mình võ trang đầy đủ đi đến nơi thanh vắng mà ông biết Bruno sẽ đi ngang qua. Trên đường đi ông gặp thấy một nhà nguyện mở cửa. Ông vào đó để chờ sáng, và trong khi chờ đợi ông tiêu khiển bằng cách nhìn các bức tranh trong nhà nguyện.
Bức tranh thứ nhất vẽ Chúa Giêsu mặc áo choàng đỏ, đầu đội mão gai, phía dưới có ghi bằng chữ Latinh câu này: “Bị lăng nhục, Ngài không đáp trả lại bằng lăng nhục”.
Bức thứ hai nhắc lại cảnh đau buồn khi Ngài bị đánh đòn, với hàng chữ “Khi chịu những khổ đau như thế, Ngài không hề đe dọa”.

Và cuối cùng bức thứ ba trình bày Chúa Giêsu trên Thập Giá, hàng chữ là: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm”. Nhìn liên tiếp ba bức tranh như thế, tâm hồn Hidebrand bị xúc động mạnh. Ông quỳ gối xuống và bắt đầu cầu nguyện. Dần dần cơn hận thù giảm đi, rồi biến mất. Ông còn ngồi lại đó chờ kẻ thù của ông đến, nhưng chờ để tha thứ tận tình và để làm hoà với nhau. (Góp nhặt)

Đọc trong lịch sử của các vĩ nhân trên thế giới, cha thấy Mục sư Martin Luther King là người đã biết đem tình yêu vào cuộc sống một cách rất tuyệt vời.
Lịch sử còn ghi lại: Ngày 4-4-1968 mục sư Luther King lãnh tụ da đen tranh đấu cho quyền bình đẳng của người Mỹ da đen bị bắn chết. Hằng triệu người da đen và những người da trắng hiểu biết đã thương tiếc ông.

Martin Luther King đã hy sinh cả cuộc đời mình để ôn hòa đấu tranh, chống cảnh kỳ thị chủng tộc mầu da. Cũng chính vì đã dám lên tiếng đòi cho mọi người được đối xử bình đẳng như nhau trong một đại gia  đình của Thiên Chúa mà ông đã bị bắn gục.

Những ai đã nghe nói về Martin Luther King đều không thể quên được tinh thần yêu thương tha thứ của ông với những bất công do nạn kỳ thị chủng tộc gây ra. Câu chuyện sau đây do ông kể lại là một bằng chứng:
Chú bé da đen tên là Tom, theo thói quen, vừa tan trường là chạy đi phân phát báo cho các trường để lấy tiền giúp đỡ gia đình. Hôm ây chú bé bất ngờ mót tiểu quá, thay vì chạy đến một gốc cây hay là bờ tường, nó chạy ngay vào nhà vệ sinh dành riêng cho người da trắng, vừa để tiểu và cũng vừa để cho biết một lần.

Được vào trong nhà vệ sinh sạch sẽ, mát mẻ, Tom thấy sung sướng. Bất ngờ Tom nghe có tiếng chân người bước nhanh đập trên nền nhà đi về hướng nhà vệ sinh mà em đang ở trong đó, chưa kịp phản ứng gì thì em đã bị người da trắng vừa mới ập tới, đánh Tom một cái làm em ngã dúi vào nhà vệ sinh. Kèm theo với cái đạp lên thân đó là những lời nguyền rủa thằng bé da đen đã dám vi phạm luật lệ của bang Alabana Mỹ. Theo đó thì người da đen bị cấm không được bén mảng đến những nơi dành cho người da trắng, kể cả nhà vệ sinh.
Được chứng kiến cảnh đau lòng trên, ông Martin Luther King khuyên chú bé Tom da đen:
– Cháu Tom bé nhỏ đáng thương ơi, cháu có thể lựa chọn giữa hai thái độ, hoặc là cháu nhanh chạy ra khỏi nhà vệ sinh kia nhặt những cục đá lên rồi liệng vào người da trắng đã hạ nhục cháu kia, rồi cháu chạy về khu vực của người da đen và đề nghị với những người da đen như thế này: Một ngày kia, chúng mình sẽ giết sạch những người da trắng.

Nhưng cũng còn một thái độ, một sự lựa chọn khác nữa cao thượng hơn thái độ trên đây nhiều, đó là cháu sẽ im lặng nhớ đến Chúa Giêsu ngày xưa, Ngài cũng đã bị người ta xô té mấy lần trên đường vác thập giá. Nhưng lần nào cũng thế, Ngài cũng chỉ im lặng, chỗi dậy để tiếp tục đi đến đồi Golgotha. Cháu hãy tha thứ cho người da trắng kia đã hạ nhục cháu. Cháu Tom ơi!  Trả thù là điều quá dễ, nhưng yêu thương mới là khó. Chúng ta là những người da đen Hoa- Kỳ, chúng ta muốn xây dựng ngày mai tươi sáng hơn nhưng chỉ có tình thương mới làm được việc đó!

Chúng ta hãy nhớ: “Tình yêu là liều thuốc kỳ diệu chữa trị mọi vết thương của cả người cho lẫn người nhận”.Amen.

Kính thưa anh chị em,

Chúng ta vừa nghe một bài Tin Mừng rất hay do Thánh Luca ghi lại. Đây là bài Tin Mừng hơi khó giải thích. Thế nhưng đây lại là bài Tin Mừng hết sức quan trọng vì nó đề cập đến một vấn đề cũng hết sức quan trọng trong cuộc sống của con người. Đó là vấn đề Hạnh Phúc.

Khi bàn về đời sống hạnh phúc, sách Giáo Lý chung ngay từ số đầu tiên (Số 1) đã có những diễn tả hết sức ấn tượng như sau:
“Thiên Chúa, tự bản thể là Đấng vô cùng hoàn hảo và hạnh phúc. Theo ý định hoàn toàn do lòng nhân hậu, Ngài đã tự ý tạo dựng con người, để cho họ được thông phần sự sống hạnh phúc của Ngài. Do đó, trong mọi thời và mọi nơi, Ngài đã đến gần với con người. Thiên Chúa kêu gọi con người, giúp họ tìm kiếm Ngài, nhận biết và đem hết tâm lực yêu mến Ngài. Thiên Chúa triệu tập mọi người, vốn đã bị phân tán vì tội lỗi, để hợp nhất thành gia đình của Ngài là Hội Thánh. Để thực hiện điều này, khi thời gian tới hồi viên mãn, Ngài đã sai Con Ngài đến làm Đấng Chuộc Tội và Cứu Độ. Trong và nhờ Người Con ấy, Thiên Chúa kêu gọi loài người để trong Chúa Thánh Thần, họ trở nên dưỡng tử của Ngài và do đó, được thừa hưởng sự sống hạnh phúc của Ngài.” (Số 1)

Chúng ta hãy nhắc lại một lần nữa để chúng ta thấy được tầm quan trọng của vấn để mà bài Tin Mừng hôm nay đề cập tới như thế nào: “Theo ý định hoàn toàn do lòng nhân hậu, Thiên Chúa đã tự ý tạo dựng con người, để cho họ được thông phần sự sống hạnh phúc của Ngài”+ “Thiên Chúa kêu gọi loài người để trong Chúa Thánh Thần, họ trở nên dưỡng tử của Ngài và do đó, được thừa hưởng sự sống hạnh phúc của Ngài.”

Đúng là Thiên Chúa muốn cho con người được sống hạnh phúc, thế nhưng làm sao con người có thể có được hạnh phúc theo lòng nhân hậu của Thiên Chúa đây?
Có một câu chuyện cổ phát xuất từ Ba Tư là nơi người ta bảo là cái nôi của sự khôn ngoan trên thế giới như sau.
Ngày xưa, tại quảng trường của thành phố nọ có một nhà hiền triết đã xuất hiện và tuyên bố sẽ giải đáp được mọi thắc mắc của bất cứ ai tới vấn kế. Một hôm, giữa lúc mọi người đang say mê lắng nghe lời của nhà hiền triết thì có một người mục tử trên núi cao đi xuống. Nghe tiếng về sự thông thái của nhà hiền triết nên anh muốn chứng kiến tận mắt và nghe tận tai, nhất là để hạ nhục nhà hiền triết giữa đám đông. Anh đến gần nhà hiền triết, trong tay bóp chắc một con chim nhỏ. Anh hỏi:
– Thưa ngài, tôi nghe đồn ngài là một người thông thái khôn ngoan, vì vậy ngài có thể nói cho tôi rõ con chim tôi đang cầm trong tay là con chim sống hay con chim đã chết được không?
Nhà hiền triết biết đây là một cái bẫy mà người mục tử đang giương, nếu ông bảo rằng nó còn sống thì tức khắc người mục tử sẽ bóp cho nó chết, trước khi anh ta mở bàn tay ra. Còn nếu như ông bảo con chim không còn sống thì người mục tử sẽ mở bàn tay để chim bay đi. Sau một hồi thinh lặng trước sự hồi hộp của đám đông, nhà hiền triết trả lời như sau:
– Con chim, mà ngươi đang cầm trong tay đó sống hay chết là tùy ở ngươi. Nếu ngươi muốn cho nó sống thì nó sống, nếu ngươi muốn cho nó chết thì nó sẽ chết.
Hạnh phúc cũng tương tự như thế. Hạnh phúc có được hay không là tuỳ ở mỗi người chúng ta.

Có nhiều người trong chúng ta tưởng hạnh phúc ở chỗ nọ chỗ kia nên đã dốc công đi tìm. Có người tìm ở nơi tiền bạc. Có kẻ đi tìm ở nơi lạc thú. Có kẻ khác đi tìm ở nơi danh vọng nhưng thử hỏi đã có ai thực sự tìm thấy hạnh phúc ở nơi tiền bạc, lạc thú, danh vọng hay chưa thì quả là chưa có ai dám can đảm quả quyết đã tìm thấy.
Hôm đó Đức Thích Ca vào thủ đô của vua Kaniska. Nhà vua đã thân hành ra đón chào Ngài. Nhà vua là bạn thân của thân phụ Đức Thích Ca. Đức Thích Ca nhìn sâu vào đôi mắt nhà vua và nói: “Xin Ngài hãy thành thực nói với tôi: Trong tất cả những thú vui mà Ngài đang có, Ngài có thực sự được một ngày hạnh phúc không?”
Vua Kaniska cúi nhìn xuống đất và giữ thinh lặng.

Nhà vua im lặng vì không có can đảm trả lời là có.

Ermann Coen được mệnh danh là thánh Augustinô của thời đại chúng ta. Ngài là một người Do thái rất giàu có, thời trai trẻ ngài chỉ biết ăn chơi và chạy theo thế gian. Sự nhàm chán cứ đè nặng trên vai ngài. Ngày kia ngài từ chối tất cả và xin vào tu viện. Trong buổi giảng mùa vọng tại đền thờ đức bà ở Balê, ngài nói:
– Tôi đã đi khắp cả mặt đất, tôi đã yêu thế gian. Tôi đã biết thế giới và tôi đã học được một điều: không có hạnh phúc ở trên thế gian này. Tôi đã tìm nó ở những nơi tôi tưởng có nó: ở những nụ cười, ở những cuộc giải trí, ở những ngày lễ, ở những nơi vàng bạc, ở nơi sắc đẹp… Ôi lạy Chúa, điều con mơ ước mọi giờ mọi ngày ở đâu? Và con chỉ tìm được nó trong Chúa và trong tình yêu Chúa mà thôi.
Vua Abder Rahman Đệ Tam Vị vua Hồi giáo nổi tiếng nhất của Tây Ban Nha , đã biến đất nước Tây Ban Nha thành trung tâm khoa học của Âu Châu vào thế kỷ thứ 10 vào cuối đời rằng Ông đã tuyên bố:
– Ta đã ngồi trên ngai vàng 50 năm, đã kinh nghiệm chiến thắng và hòa bình, được thần dân mến phục, kẻ thù sợ hãi, và đồng minh kính nể. Danh lợi, quyền quí và tất cả các thú vui trên trần gian ta đều có cả. Nhưng khi ngồi tính thật kỹ số ngày ta được hoàn toàn hạnh phúc, thì con số đó quá ít ỏi, chỉ vốn vẹn có 14 ngày.

Làm vua một nước lớn, có quyền thế, danh vọng, giàu sang trong tay suốt 50 năm, tức là 18.250 ngày, vậy mà chỉ hương được có 14 ngày hạnh phúc! Nhiều người ngày nay tương rằng danh vọng, giàu có, quyền thế là hạnh phúc, nhưng thật ra những thứ đó đều không thể hoàn toàn đem lại hạnh phúc. Những ngày hạnh phúc do các thứ ấy mang lại rất là ít ỏi.
Xét như vậy thì Hạnh Phúc không phải là thứ mà con người muốn có là có. Muốn có Hạnh Phúc con người phải tìm đến với một nguồn cội khác. Nguồn cội ấy là Thiên Chúa.

Khi hoàng đế Napoléon của Nước Pháp bị đày sang đảo Saint Hélène sau những thất bại thê thảm trên chiến trường và chính trường. Người viết tiểu sử vẫn theo sát bên cạnh ông để ghi lại từng chi tiết của cuộc đời một con người rất nổi tiếng, đã từng chinh phục một phần khổng lồ của lục địa Châu Âu.

Một hôm, biết ngày tận cùng của Napoléon đã đến gần, người viết tiểu sử mới hỏi ông
– Thưa hoàng đế, xin ngài cho biết trong suốt cuộc đời của ngài, ngày nào là ngày hạnh phúc nhất?
Vị cựu hoàng, lúc ấy đang nằm liệt giường, không vội trả lời ngay. Ông quay đầu ra cửa sổ, nhìn biển xanh thắm một lúc rồi quay lại, nói như một lời tâm sự cuối cùng:
– Ta nhớ, ta nhớ rất rõ, ngày hạnh phúc nhất trong đời ta đã diễn ra cách đây lâu lắm rồi, khi ta còn thơ bé. Đó chính là ngày ta được rước lễ lần đầu!
Đức Cha Fulton Sheen trong tác phẩm bàn về Hạnh Phúc đã có một xác tín rất hay khi Ngài nói: “Cho dầu thế giới này có xa cách Thiên Chúa đi nữa, thì con tim của mỗi người cũng không xa cách Ngài”.

Vâng! Đúng như vậy. Chỉ khi nào con người biết tin vào Chúa xót thương, để rồi cũng xót thương kẻ khác như Chúa xót thương mình, chúng ta mới có được hạnh phúc, một thứ hạnh phúc ngọt ngào, đầy bình an, vượt trên mọi thứ hạnh phúc, mà trần gian tôn vinh tìm kiếm, một thứ hạnh phúc vượt trên không gian và thời gian, hòa nhập vào hạnh phúc của Thiên Chúa Ba Ngôi.Amen.

Thiếu nhi chúng con yêu quí

1. Chúng ta vừa được nghe một bài Tin mừng được thánh sử Luca ghi lại. Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu, Chúa của chúng ta nói cho chúng ta và mọi người biết về một điều mà mọi người ai cũng mong ước trong cuộc sống ở trần gian.
Cha đố chúng con điều đó là điều gì?
– Thưa cha đó là hạnh phúc.
– Chúng con trả lời rất đúng.

Nếu chúng con để ý một chút, chúng con sẽ thấy: ở đời này những lời được nói nhiều nhất trong cuộc sống là lời Hạnh phúc; chữ được viết nhiều nhất là chữ Hạnh phúc, lời cầu mong lớn nhất là cầu mong Hạnh phúc. Những hiện tượng trên đây chứng tỏ Hạnh phúc là khát vọng mạnh nhất của con người. Con người luôn đi tìm Hạnh phúc cho mình.
Lúc 15 giờ ngày mồng hai tết vừa qua, cha vào Google nhập từ hạnh phúc thì trong vòng chỉ có 0,47 giây Google đã cho cha khoảng 96.900.000 kết quả.
Cha tò mò muốn biết xem những người ở Tây Phương quan tâm đến vấn đề hạnh phúc như thế nào, cha lại vào Google nhập từ “Happiness” (Hạnh Phúc) thì trong vòng khoảng 0,80 giây Google cho cha một kết quả không ngờ: 652.000.000 kết quả (0,80 giây) nhiều hơn gấp 6 lần chúng ta.

Cha hỏi chúng con: Tất cả những kết quả đó cho chúng ta thấy điều gì? Thưa, cho chúng ta thấy hạnh phúc là đều có thật. Hạnh phúc là điều mà con người hằng tìm kiếm. Người ta đã nói nhiều đến hạnh phúc, cầu chúc cho nhau có nhiều hạnh phúc, ước mong cho mình tìm được thật nhiều hạnh phúc trên đời. Hạnh phúc trở thành một ám ảnh chi phối toàn bộ cuộc sống của con người.

Thế nhưng nếu phải hỏi hạnh phúc là gì và ở đâu thì chằng ai có thể trả lời được.
Cha kể cho chúng con câu chuyện vui này:
Một con chó lớn đang quan sát một chú chó con loay hoay cố chụp bắt chiếc đuôi của chính nó.
– Chú mày làm gì thế?. Con chó lớn hỏi.
– Dạ, cháu đang tìm kiếm hạnh phúc. Chú chó con trả lời. Rồi nó nói tiếp: “Cháu nghe bảo rằng hạnh phúc nằm trong cái đuôi của cháu; nếu cháu chụp được cái đuôi mình, cháu sẽ có hạnh phúc”

Con chó lớn cười ồ. Nó nói rằng chính nó cũng từng nghe thiên hạ đồn như thế. Nhưng rồi nó đã khám phá ra rằng mỗi lần mình cố đuổi bắt chiếc đuôi thì chiếc đuôi luôn luôn vượt khỏi mình. Vì thế nó nói: “giờ đây tao chẳng cố sức vô ích như vậy nữa. Tao chỉ làm những công việc bình thường của một con chó và tao nhận thấy hạnh phúc tự kéo đến với tao”.
Có nhiều người trong chúng ta cũng tưởng hạnh phúc ở chỗ nọ chỗ kia nên đã dốc công đi tìm. Có người tìm ở nơi tiền bạc. Có kẻ đi tìm ở nơi lạc thú. Có kẻ khác đi tìm ở nơi danh vọng nhưng thử hỏi đã có ai thực sự tìm thấy hạnh phúc ở nơi tiền bạc, lạc thú, danh vọng hay chưa thì quả là chưa có ai dám can đảm quả quyết đã tìm thấy.

Hôm đó Đức Thích Ca vào thủ đô của vua Kaniska. Nhà vua đã thân hành ra đón chào Ngài. Nhà vua là bạn thân của thân phụ Đức Thích Ca. Đức Thích Ca nhìn sâu vào đôi mắt nhà vua và nói:
– Xin Ngài hãy thành thực nói với tôi: Trong tất cả những thú vui mà Ngài đang có, Ngài có thực sự được một ngày hạnh phúc không?
Vua Kaniska cúi nhìn xuống đất và giữ thinh lặng.
Nhà vua im lặng vì không có can đảm trả lời là có.

2. Chính vì thế mà trong bài Tin mừng hôm Chúa Giêsu hướng chúng ta về một bí quyết mới để chúng ta có thể có được hạnh phúc trong cuộc đời của chúng ta. Theo Chúa thì chẳng cần phải đi tìm hạnh phúc ở đâu xa bởi vì hạnh phúc ở ngay trong cuộc sống của mỗi người. Hạnh phúc không ở đâu xa, Hạnh phúc ở ngay trong cuộc sống của mỗi người.
Sống làm sao để có hạnh phúc. Đó là mơ ước của mọi người. Nhà văn Alfred D’Souza từng chia sẻ: “Trước đây, tôi thường cho rằng nếu tôi vượt qua hết những khó khăn trước mắt thì mọi thứ sẽ ổn hơn, tôi sẽ có thời gian cho chính mình và tận hưởng hạnh phúc. Nhưng cuối cùng, tôi nhận thấy cuộc sống có tốt đẹp, hạnh phúc hay không hoàn toàn phụ thuộc vào cách suy nghĩ và cách sống của chính tôi”.

Cha xin nhắc lại: Có hạnh phúc hay không là hoàn toàn phụ thuộc vào cách suy nghĩ và cách sống của chính tôi”. Chính cách suy nghĩ và cách sống của chúng ta đem lại hạnh phúc hay bất hạnh cho chúng ta.

Tôi phải có thái độ nào đối với những giá trị vật chất của trần gian và phải sống thế nào trong tương quan với mọi người. Suy nghĩ đúng và sống đúng, tôi sẽ có hạnh phúc. Ngược lại tôi sẽ trở thành người bất hạnh.

Đây là câu chuyện từ Internet: Như thường lệ, sáng nay, tôi đến phòng tập thể dục trước khi đến sở làm. Ớ đó, tôi có một người bạn già nhưng rất thân thiết. Tuy đã 79 tuổi nhưng ông vẫn giữ được thân thể tráng kiện và một tinh thần yêu đời đặc biệt. Khi gặp tôi, ông nhận ra ngay tâm trạng bất ổn của tôi. Sau đó hai bác cháu nói chuyện với nhau thật lâu.
– Trong cuộc đời bác, bác cảm thấy lúc nào mình hạnh phúc nhất?
Tôi hỏi và chợt nhận ra mình đã thay đổi câu hỏi. Lẽ ra tôi phải hỏi là có khi nào bác gặp phải cảm giác buồn chán như tôi bây giờ không.

Hồi bác còn nhỏ, cuộc sống thật khó khăn. – Ông bắt đầu kể. – Bố mẹ bác đi làm ở xa, cả ngày mới về. Thỉnh thoảng, mẹ mua quà về cho mấy anh chị em bác, khi thì những chiếc bánh, khi thì mấy viên kẹo. Những lúc đó, bác thực sự thấy mình là người hạnh phúc nhất.

Đến tuổi đi học, lần đầu tiên bác đánh vần và đọc được tên mình. Bác thấy tự hào vô cùng, chạy đi khoe khắp nơi, lúc đó là thời gian hạnh phúc nhất
Khi tốt nghiệp đại học, bác được nhận vào làm việc ở một công ty lớn. Cầm trên tay tháng lương đầu tiên, bác vui sướng biết bao.

Có lần bác bị tai nạn phải nằm bệnh viện khá lâu. Những ngày ở bệnh viện bác có giờ suy nghĩ được nhiều điều mà trước kia bác không nghĩ đến, được gặp lại bạn bè và người thân. Khoảng thời gian ấy thật là tuyệt vời.

Và giờ đây, ở tuổi bảy mươi chín, bác vẫn có thể đến đây tập thể dục hàng ngày. Bác thấy mình vẫn còn có ích cho mọi người xung quanh. Đây là thời khắc tuyệt vời nhất của bác.
Cháu hãy nghĩ một giai đoạn mới của cuộc đời cũng giống như một chương mới của quyển sách. Dù có đau khổ, buồn hay vui đều có giá trị cho quyển sách cuộc đời. Cháu cứ đọc rồi sẽ thấy.(Thảo Nguyên theo Internet)
Một sinh viên Nhật bản đến văn phòng của một linh mục ở Boston, nói:
– Thưa cha, con đang đi tìm một đời hạnh phúc tốt đẹp. Cha có thể chỉ cho con biết phải tìm ở đâu.
Linh mục đáp:
– Chắc anh muốn trao đổi về tôn giáo?
– Thưa không, con không muốn trao đổi lý thuyết. Việc đó con thấy nhan nhản rồi. Con cần thứ khác Cha biết không. Khi còn ở ký túc xá đại học Cambridge, con ở chung phòng với một anh thợ mộc. Anh có đời sống rất đẹp. Anh không bao giờ nghĩ về mình, mà luôn nghĩ về người khác. Sinh viên tụi con nhiều khi sống cẩu thả, chén dĩa lung tung, đồ ăn vứt bừa bãi. Thấy thế, anh không nói gì nhưng khi mọi người ra khỏi phòng ăn, một mình anh đi thu dọn, sắp xếp lại cho ngăn nắp.

Nghe thế, cha đưa cho anh cuốn Thánh Kinh và nói:
– Hãy cầm lấy. Nếu anh muốn tìm một đời hạnh phúc tốt đẹp anh hãy tìm trong dó.
Hai năm sau, anh đến gặp cha cười cười nói:
– Cha có nhận ra con không?
– Hình như tôi đã gặp anh ở đâu, nhưng không nhớ rõ.
Anh đưa cuốn Thánh Kinh ra và nói:
– Con đã tìm thấy đời sống hạnh phúc tốt đẹp rồi cha ạ. Con đã tìm thấy đời sống đó nơi Đức Kitô.

Như vậy chúng con thấy, hạnh phúc không phải là điều gì xa vời, khó tìm. Hạnh phúc có thể tìm thấy ngay ở trong cuộc sống. Vậy nếu cha hỏi đâu là cuộc sống mang lại cuộc sống cho con người thì câu chuyện chúng ta vừa nghe là câu trả lời: Sống như Chúa đã sống, sống như Chúa dạy đó là cách chúng ta sẽ tìm thấy hạnh phúc cho chúng ta trên đời.
Cha chúc mỗi thiếu nhi yêu quí của cha tìm được hạnh phúc khi chúng con biết sống như thế. Amen.