Tag Archive for: Ga

12/04 – Thứ Sáu tuần 2 Phục Sinh.

“Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích”.

Lời Chúa: Ga 6, 1-15

Khi ấy, Chúa Giêsu đi sang bên kia biển Galilêa, cũng gọi là Tibêria. Có đám đông dân chúng theo Người, vì họ đã thấy những phép lạ Người làm cho những kẻ bệnh tật. Chúa Giêsu lên núi và ngồi đó với các môn đệ. Lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do-thái đã gần tới. Chúa Giêsu ngước mắt lên và thấy đám rất đông dân chúng đến với Người. Người hỏi Philipphê: “Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?” Người hỏi như vậy có ý thử ông, vì chính Người đã biết việc Người sắp làm. Philipphê thưa: “Hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút”.

Một trong những môn đệ, tên là Anrê, em ông Simon Phêrô, thưa cùng Người rằng: “Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người”. Chúa Giêsu nói: “Cứ bảo người ta ngồi xuống”. Nơi đó có nhiều cỏ, người ta ngồi xuống, số đàn ông độ năm ngàn. Bấy giờ Chúa Giêsu cầm lấy bánh và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, và cá cũng phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích. Khi họ đã no nê, Người bảo các môn đệ: “Hãy thu lấy những miếng còn lại, kẻo phí đi”. Họ thu lại mười hai thúng đầy bánh vụn do năm chiếc bánh lúa mạch người ta đã ăn mà còn dư.

Thấy phép lạ Chúa Giêsu đã làm, người ta đều nói rằng: “Thật ông này là Đấng Tiên tri phải đến trong thế gian”. Vì Chúa Giêsu biết rằng người ta sẽ đến bắt Người để tôn làm vua, nên Người lại trốn lên núi một mình.

Suy niệm: Phúc Âm Gio-an không chỉ dùng dụ ngôn mà còn tường thuật phép lạ hoá bánh ra nhiều để khởi dẫn cho những giáo huấn của Chúa Giê-su về bí tích Thánh Thể. Trước khi lấy thân mình làm lương thực nuôi linh hồn, Ngài đã hoá bánh ra nhiều để thết đãi những người đang đói Lời Chúa một bữa ăn no nê. Miếng cơm tấm bánh vật chất có liên quan mật thiết với Thánh Thể Chúa biết bao! Một mặt không thể rao giảng Tình yêu Thánh Thể mà lại nhắm mắt làm ngơ trước những nhu cầu cơm ăn áo mặc hằng ngày của anh chị em mình; mặt khác cũng không được mải mê tìm kiếm của ăn vật chất trong khi xao nhãng việc bồi dưỡng linh hồn bằng “lương thực thường tồn, đem lại phúc trường sinh” (Ga 6,27).

Mời Bạn: Dù bạn có ‘của ăn của để’ hay chỉ có “năm chiếc bánh và hai con cá” thôi, bạn cũng đừng lo ngại rằng nếu chia sẻ mình sẽ nghèo đi. Ngay cả khi bạn nghèo ‘khố rách áo ôm’ đi nữa, bạn cũng có thể ‘cắn đôi hạt muối’ để chia sẻ cho anh chị em mình. Nếu không biết chia sẻ, ta chưa thực sự sống mầu nhiệm Thánh Thể.

Chia sẻ: Lòng ham mê của cải khiến tâm hồn con người bị bóp nghẹt, không còn chỗ cho tha nhân và cho Thiên Chúa. Bạn có nhận thấy điều đó không?

Sống Lời Chúa: Cắt giảm một khoản chi tiêu nào đó của mình để dành vào việc chia sẻ.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su Phục Sinh, xin giúp con mặc lấy tâm tình của Chúa, biết hiến thân mình để phục vụ tha nhân. Amen.

11/04 – Thứ Năm tuần 2 Phục Sinh.

“Đức Chúa Cha thương mến Con Ngài, nên ban toàn quyền trong tay Con Ngài”.

Lời Chúa: Ga 3, 31-36

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: “Đấng từ trên cao mà đến thì vượt trên hết mọi người. Kẻ bởi đất mà ra, thì thuộc về đất và nói những sự thuộc về đất. Đấng từ trời mà đến thì vượt trên hết mọi người. Điều gì Người thấy và nghe, thì Người làm chứng về điều đó. Nhưng lời chứng của Người không ai chấp nhận. Ai chấp nhận lời chứng của Người, thì quả quyết Thiên Chúa là Đấng chân thật.

Đấng được Thiên Chúa sai đến thì nói lời của Thiên Chúa, vì được Chúa ban cho thần linh khôn lường. Cha yêu mến Con, nên đã ban mọi sự trong tay Con. Ai tin vào Con thì có sự sống đời đời. Còn ai không tin vào Con, thì sẽ không được thấy sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên người ấy”.

Suy niệm: Trên đây là lời chứng cuối cùng của Gio-an Tẩy Giả được tác giả Tin Mừng thứ tư ghi lại với mục đích minh giáo, nghĩa là muốn nêu bật địa vị trổi vượt của Chúa Giê-su trên ông Gio-an. Lời chứng này là câu trả lời rõ ràng cho một số tín hữu tiên khởi (và cho các nhóm môn đệ của Gio-an Tẩy Giả nữa) đang phân vân về vai trò và địa vị của Gio-an Tẩy Giả đối chiếu với Chúa Giê-su. Nhưng nội dung của lời chứng cho thấy đây không chỉ là chuyện Chúa Giê-su trổi vượt trên Gio-an, mà còn hơn thế nữa: Chúa Giê-su trổi vượt trên tất cả; và tất cả thuộc về Người. Chúa Cha đã giao mọi sự trong tay Chúa Giê-su! Và ai tin vào Chúa Giê-su thì được cứu độ!

Mời Bạn: Bạn xác quyết địa vị trung tâm và tối thượng của Chúa Giê-su trong đời sống đức tin, điều đó không sai. Bất cứ sự sùng mộ nào trong Ki-tô giáo (tôn sùng các thánh, kể cả việc tôn sùng Đức Ma-ri-a…) cũng đều phải qui về Chúa Giê-su; nếu không vậy, thì đó là những sự sùng mộ đáng ngờ. Khỏi nói đến những niềm tin tưởng kỳ quặc, rõ ràng có tính mê tín dị đoan… Tuy nhiên, cũng sẽ không thích đáng nếu ta giữ thái độ ‘độc chiếm Đức Ki-tô’, nghĩa là phủ nhận mọi dấu vết hoạt động của Thánh Thần Đức Ki-tô ở ngoài Giáo Hội hữu hình (chẳng hạn, nơi các nền văn hóa, nơi các tôn giáo lớn của Á Châu này…).

Sống Lời Chúa: Trong giờ cầu nguyện, bạn suy gẫm để nhận ra hoạt động của “Thần Khí vô ngần vô hạn” của Đức Ki-tô bên ngoài phạm vi của Giáo Hội hữu hình.

Cầu nguyện: Đọc kinh Lạy Cha để xin cho “Nước Cha trị đến”.

10/04 – Thứ Tư tuần 2 Phục Sinh.

“Thiên Chúa đã sai Chúa Con đến để thế gian nhờ Người mà được cứu độ”.

Lời Chúa: Ga 3, 16-21

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người để tất cả những ai tin ở Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ.

Ai tin Người Con ấy, thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào danh Con Một Thiên Chúa và đây là án luận phạt: là sự sáng đã đến thế gian và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu xa. Thật vậy, ai hành động xấu xa thì ghét sự sáng, và không đến cùng sự sáng, sợ những việc làm của mình bị khiển trách, nhưng ai hành động trong sự thật, thì đến cùng sự sáng, để hành động của họ được sáng tỏ, là họ đã hành động trong Thiên Chúa.

Suy niệm: Những người ở lâu trong bóng tối có thể không thích ánh sáng, bởi vì nó làm họ chói mắt. Tệ hơn nữa, ánh sáng phơi trần tất cả những sự bề bộn dơ nhớp mà họ muốn trong bóng tối để không ai nhìn thấy. Thánh Gio-an rất ưa dùng chủ đề cặp đối kháng “ánh sáng-bóng tối” để nói lên sự đối nghịch không đội trời chung giữa Thiên Chúa và ma quỉ, giữa thiện và ác, ân sủng và tội lỗi. Ở đâu có ánh sáng soi chiếu tới, ở đó bóng tối lập tức lui xa, không thể tồn tại được. Chúng ta có thể tiếp tục quảng diễn cặp đối kháng đó: Ở đâu có Đức Ki-tô là ánh sáng thì ở đó tội lỗi không thể có chỗ dung thân. Vì thế, ai hành động xấu thì thích bóng tối và ghét ánh sáng…

Mời Bạn: “Thà thắp lên một ngọn nến còn hơn ngồi nguyền rủa bóng tối.” Nếu bạn đang sống trong tội lỗi, thì điều tốt nhất là cấp kỳ dùng ánh sáng của ân sủng trong bí tích giao hoà để đẩy lui chúng khỏi tâm hồn bạn. Còn bạn, đang được tắm gội trong ánh sáng của Đức Ki-tô phục sinh, bạn hãy tiếp tục duy trì tình trạng ân phúc ấy bằng việc luôn kết hiệp với Chúa Giê-su Thánh Thể.

Chia sẻ: Những bóng tối nào đang bao phủ đời bạn hoặc cộng đoàn của bạn? Bạn có chiến thuật nào để đẩy lui bóng tối đó?

Sống Lời Chúa: Nỗ lực đẩy lui bóng tối trong đời bạn: mỗi ngày làm một việc sửa chữa tính xấu và một việc thiện giúp ích tha nhân.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Ki-tô phục sinh, xin cho ánh sáng của Chúa rọi chiếu trong tâm hồn chúng con. Và cho con luôn biết đón nhận ánh sáng, hầu xua tan bóng đen tội lỗi vây kín tâm hồn con.

09/04 – Thứ Ba tuần 2 Phục Sinh.

“Không ai lên trời được, ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời”.

Lời Chúa: Ga 3, 7-15

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: “Thật, Tôi bảo cho ông biết: Ông đừng ngạc nhiên vì nghe Tôi nói rằng: Các ngươi phải tái sinh bởi trời. Gió muốn thổi đâu thì thổi, ông nghe tiếng gió, nhưng chẳng biết gió từ đâu đến và đi đâu: mọi kẻ sinh bởi Thần Linh cũng vậy”.

Nicôđêmô hỏi lại rằng: “Việc ấy xảy ra thế nào được?” Chúa Giêsu đáp: “Ông là bậc thầy trong dân Israel mà ông không biết điều ấy sao? Thật, tôi bảo thật cho ông biết: Điều chúng tôi biết thì chúng tôi nói; điều chúng tôi thấy thì chúng tôi minh chứng. Nhưng các ông lại không nhận lời chứng của chúng tôi. Nếu khi Tôi nói về những sự dưới đất mà các ông không tin, khi Tôi nói những sự trên trời, các ông tin thế nào được? Không ai lên trời được, ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời. Cũng như Môsê treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời”.

Suy niệm: Loài rắn theo chu kỳ, tự động lột lớp da. Bộ da của rắn giống như bộ quần áo sau một thời gian sử dụng trở nên vừa chật hẹp vừa dơ bẩn, cũ nát, nếu không lột bỏ thì chẳng những rắn không thể tăng trưởng mà còn có thể bị nguy hiểm tính mạng vì các loài ký sinh trùng phát triển nơi lớp vảy của da rắn. Thật là sai lầm nếu nghĩ rằng rắn chỉ lột bỏ lớp vảy đã già cỗi bên ngoài mà thôi. Trước khi xé bỏ lớp vỏ cũ để trườn ra ngoài chúng đã phải “đổi mới” từ bên trong. Để có thể vào Nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu dạy chúng ta phải sinh ra một lần nữa. Trong lĩnh vực tâm linh “lột xác” càng không phải là vấn đề xé bỏ quần áo cũ để may mặc y phục mới, mà là cởi bỏ nếp sống cũ để mặc lấy con người mới tốt lành, thánh thiện. Bí tích Thánh Tẩy giúp ta thực hiện cuộc “lột xác” ấy: nhờ sự chết và sống lại của Chúa Kitô, chúng ta chết đi cho tội và tiếp nhận sự sống phục sinh từ nơi Ngài.

Mời Bạn: Chúng ta khó lột bỏ những tính hư tật xấu của mình do xu hướng thường tình “tốt khoe, xấu che” của chúng ta. Hoặc có khi chúng ta muốn lột bỏ chúng lắm nhưng lực bất tòng tâm. Việc chừa bỏ tội lỗi không thể chỉ do sức riêng mà còn phải nhờ ơn của Chúa Thánh Thần. Chỉ có những ai sinh bởi Thần Khí thì mới được vào Nước Trời. Bạn hãy sẵn sàng mở lòng ra cho Chúa Thánh Thần để lột bỏ tội lỗi mới mong được sống muôn đời.

Sống Lời Chúa: Quyết tâm chừa bỏ một thói xấu dai dẳng nơi bạn.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho chúng con can đảm  lột bỏ những thói hư tật xấu, và biết cởi mở lòng mình ra để Thánh Thần Chúa làm cho con người con ra mới, tinh tuyền và thánh thiện.

05/04 – Thứ Sáu tuần BÁT NHẬT PHỤC SINH.

“Chúa Giêsu đến, cầm bánh và cá trao cho họ ăn”.

Lời Chúa: Ga 21, 1-14

Khi ấy, lúc các môn đệ đang ở bờ biển Tibêria, Chúa Giêsu lại hiện đến. Công việc đã xảy ra như sau: Simon Phêrô, Tôma cũng gọi là Điđymô, Nathanael quê tại Cana xứ Galilêa, các con ông Giêbêđê, và hai môn đệ nữa đang ở với nhau. Simon Phêrô bảo: “Tôi đi đánh cá đây”. Các ông kia nói rằng: “Chúng tôi cùng đi với ông”. Mọi người ra đi xuống thuyền. Nhưng đêm ấy các ông không bắt được con cá nào.

Lúc rạng đông, Chúa Giêsu hiện đến trên bờ biển, nhưng các môn đệ không biết là Chúa Giêsu. Người liền hỏi: “Này các con, có gì ăn không?” Họ đồng thanh đáp: “Thưa không”. Chúa Giêsu bảo: “Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được”. Các ông liền thả lưới và hầu không kéo nổi lưới lên, vì đầy cá. Người môn đệ Chúa Giêsu yêu, liền nói với Phêrô: “Chính Chúa đó”. Simon Phêrô nghe nói là Chúa, liền khoác áo vào, vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. Các môn đệ khác chèo thuyền vào và kéo lưới đầy cá theo, vì không còn xa đất bao nhiêu, chỉ độ hai trăm thước tay.

Khi các ông lên bờ, thấy có sẵn lửa than, trên để cá và bánh. Chúa Giêsu bảo: “Các con hãy mang cá mới bắt được lại đây”. Simon Phêrô xuống thuyền kéo lưới lên bờ. Lưới đầy toàn cá lớn; tất cả được một trăm năm mươi ba con. Dầu cá nhiều đến thế, nhưng lưới không rách. Chúa Giêsu bảo rằng: “Các con hãy lại ăn”. Không ai trong đám ngồi ăn dám hỏi: “Ông là ai?” Vì mọi người đã biết là Chúa. Chúa Giêsu lại gần, lấy bánh trao cho các môn đệ; Người cũng cho cá như thế.

Đây là lần thứ ba, Chúa Giêsu đã hiện ra với môn đệ khi Người từ cõi chết sống lại.

Suy niệm: Cái cách mà Phê-rô phản ứng khi biết nhân vật đang đứng trên bờ Biển Hồ là “Chúa đó” như thể tái hiện khoảnh khắc ông bỏ chài lưới, bỏ thuyền, bỏ hết mọi sự để trở thành môn đệ của Chúa. Hai tiếng “Chúa đó” như một ngòi nổ kích nổ lòng khao khát Đức Ki-tô vẫn âm ỉ trong tâm hồn Phê-rô từ những ngày Chúa chịu khổ nạn cho tới khi ông cùng với Gio-an chứng kiến ngôi mộ trống khi Thầy đã phục sinh. Chính vì lẽ đó, ông đã “nhảy xuống biển”, nhảy khỏi sự phụ thuộc, khỏi mọi chỗ dựa của thế gian này vì giờ đây Chúa Phục Sinh mới là tất cả cuộc sống của ông.

Mời Bạn: Phản ứng của Phê-rô cũng là kinh nghiệm của không biết bao nhiêu vị thánh trong lịch sử giáo hội. Khi các ngài nhận ra “Chúa đó” ở trong cuộc đời mình thì các ngài sẵn sàng bỏ mọi sự, kể cả mạng sống mình, để đến với Người. Không xa chúng ta, chân phước An-rê Phú Yên tái hiện thái độ Phê-rô nhận ra “Chúa đó!” qua lời cuối của ngài trối lại cho chúng ta: “Hãy giữ nghĩa cùng Chúa cho đến hết hơi cho đến trọn đời.” Bạn cũng có thể nhận ra Chúa Phục Sinh vẫn luôn hiện diện đó trong cuộc đời chúng ta, qua bí tích Thánh thể, qua Lời Chúa và qua anh chị em xung quanh: Chúa vẫn ở đó chờ đợi chúng ta chạy đến với Người.

Sống Lời Chúa: Hãy chạy đến với Chúa Ki-tô bằng một cử chỉ thờ phượng Ngài nơi Thánh Thể hay bằng một hành động phục vụ đến với tha nhân.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Ki-tô Phục sinh, xin cho con biết nhận ra sự hiện diện gần gũi của Chúa trong mỗi giây phút đời con. Amen.

02/04 – Thứ Ba tuần BÁT NHẬT PHỤC SINH.

“Tôi đã trông thấy và Người đã phán với tôi những điều ấy”.

Lời Chúa: Ga 20, 11-18

Khi ấy, bà Maria đang còn đứng gần mồ Chúa mà than khóc. Nhìn vào trong mồ, bà thấy hai thiên thần mặc áo trắng đang ngồi nơi đã đặt xác Chúa Giêsu, một vị ngồi phía đàng đầu, một vị ngồi phía đàng chân. Hai vị hỏi: “Tại sao bà khóc?” Bà trả lời: “Người ta đã lấy mất xác Chúa tôi và tôi không biết người ta đã để Người ở đâu?”

Vừa nói xong, bà quay mặt lại, thì thấy Chúa Giêsu đã đứng đó, nhưng bà chưa biết là Chúa Giêsu. Chúa Giêsu hỏi: “Bà kia, sao mà khóc, bà tìm ai?” Tưởng là người giữ vườn, Maria thưa: “Thưa ông, nếu ông đã mang xác Người đi, thì xin cho tôi biết ông đã đặt Người ở đâu, để tôi đến lấy xác Người”. Chúa Giêsu gọi: “Maria”. Quay mặt lại, bà thưa Người: “Rabboni!” (nghĩa là “Lạy Thầy!”). Chúa Giêsu bảo bà: “Đừng động đến Ta, vì Ta chưa về cùng Cha Ta. Nhưng hãy đi báo tin cho các anh em Ta hay và bảo họ rằng: Ta về cùng Cha Ta, cũng là Cha các con; về cùng Thiên Chúa Ta, cũng là Thiên Chúa các con”.

Maria Mađalêna đi báo tin cho các môn đệ rằng: “Tôi đã trông thấy Chúa và Chúa đã phán với tôi những điều ấy”.

Suy niệm: Lạ một điều là khi Đức Ki-tô phục sinh hiện ra cho những người thân, rất thân nữa là đàng khác, họ lại không nhận ra Ngài! Ngài mà bà Ma-ri-a tưởng là người làm vườn; hai môn đệ Em-mau nghĩ là khách bộ hành; các môn đệ trên Biển Hồ lầm là khách đi dạo trên biển. Ngài quá thay đổi hay mắt họ có vấn đề? Thật ra, từ nay Đức Ki-tô phục sinh mang chiều kích của cả vũ trụ, không còn bị hạn chế nơi một thân xác thể lý. Ngài hiện diện nơi mọi người, mang lấy khuôn mặt của từng người. Ma-ri-a chỉ nhận ra khi được Ngài gọi đích danh; hai môn đệ nhận ra khi Ngài bẻ bánh; trên Biển Hồ, các môn đệ chỉ khám phá ra Ngài sau mẻ cá lạ. Vậy thì để có thể nhận ra Đức Ki-tô, phải có kinh nghiệm gặp gỡ Ngài, có tương quan cá nhân với Ngài.

Mời Bạn: Hãy nhận ra Đức Ki-tô phục sinh đang hiện diện nơi những người thân trong gia đình, nơi bạn bè, thậm chí nơi những kẻ bạn không ưa thích. Bạn có cách nào để dễ nhận diện ra Ngài không?

Sống Lời Chúa: Tôi sẽ cư xử thân ái, với mọi người tôi gặp gỡ để nhận ra Đức Kitô phục sinh hiện diện nơi họ.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su phục sinh, xin cho chúng con sự sống của Chúa, sự sống làm đời chúng con mãi xanh tươi. Xin cho chúng con bình an của Chúa, bình an làm chúng con vững tâm giữa sóng gió cuộc đời. Xin cho chúng con niềm vui của Chúa, niềm vui làm khuôn mặt chúng con tươi tắn. Xin cho chúng con nhận ra Chúa nơi mọi người. (Rabbouni)

31/03 – CHÚA NHẬT PHỤC SINH năm B.

“Người phải sống lại từ cõi chết”.

Lời Chúa: Ga 20, 1-9

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Ngày đầu tuần, Maria Mađalêna đi ra mồ từ sáng sớm khi trời còn tối và bà thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mồ, bà liền chạy về tìm Simon-Phêrô và người môn đệ kia được Chúa Giêsu yêu mến, bà nói với các ông rằng: “Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu”.

Phêrô và môn đệ kia ra đi đến mồ. Cả hai cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô, và đến mồ trước. Ông cúi mình xuống thấy những khăn liệm để đó, nhưng ông không vào trong.

Vậy Simon-Phêrô theo sau cũng tới nơi, ông vào trong mồ và thấy những dây băng nhỏ để đó, và khăn liệm che đầu Người trước đây, khăn này không để lẫn với dây băng, nhưng cuộn lại để riêng một chỗ.

Bấy giờ môn đệ kia mới vào, dù ông đã tới mồ trước. Ông thấy và ông tin, vì chưng các ông còn chưa hiểu rằng, theo Kinh Thánh, thì Người phải sống lại từ cõi chết.

Suy niệm: Trực giác hay giác quan thứ sáu là khả năng nhận biết, hiểu thấu một vấn đề mà không cần qua lý thuyết hoặc quá trình suy nghĩ. Trực giác giúp ta đưa ra những phán đoán nhanh, và thường là những quyết định thay đổi cuộc đời. Vào sáng sớm Chúa nhật Phục sinh đầu tiên ấy, người môn đệ Chúa yêu, đã nhờ trực giác, để có thể đưa ra một xác tín sinh tử: đã thấy và đã tin. Thấy gì và tin gì? Ông thấy ngôi mộ trống, băng vải quấn xác để ở đó, khăn che đầu được cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Điều ông thấy đủ để ông tin chưa? Thưa, chưa. Điều ông thấy + trực giác của một người yêu mến Thầy đưa ông đến chỗ tuyên xưng: Thầy mình đã sống lại. Ông tự xưng mình là người môn đệ Chúa yêu và hẳn cũng phải yêu mến Chúa lắm, là Tông đồ duy nhất đứng dưới chân thập giá, được Ngài trao phó Đức Mẹ cho mình chăm nom.

Mời Bạn: “Trực giác là một điều vô cùng mạnh mẽ, theo ý tôi, còn mạnh mẽ hơn cả trí tuệ” (S. Job). Người có trực giác về kinh doanh, khoa học… dễ đạt được thành công nhờ những đột phá quý giá về lãnh vực chuyên môn của mình. Là môn đệ Đức Ki-tô, bạn được mời gọi rèn luyện trực giác yêu thương: yêu mến Chúa và tha nhân hơn. Lắng nghe tiếng Chúa trong khi cầu nguyện, khi đọc Lời Chúa, sống chậm lại, và thỉnh thoảng cũng nên đặt câu hỏi cần làm gì để tình yêu mến ấy tăng trưởng trong đời mình.

Sống Lời Chúa: Chọn một phương cách rèn luyện trực giác trên đây để có thể yêu mến Chúa và người lân cận tốt hơn.

Cầu nguyện: Lạy Đấng Phục sinh, con tin Chúa đang hiện diện, đồng hành với con mọi giây phút trong cuộc đời. Amen.

29/03 – THỨ SÁU TUẦN THÁNH. KỶ NIỆM CUỘC KHỔ NẠN CỦA CHÚA.

“Sự Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”.

Lời Chúa: Ga 18, 1 – 19, 42

C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn. J: Chúa Giêsu

C. Bài Thương Khó Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu đi với môn đệ sang qua suối Xêrông, ở đó có một khu vườn, Người vào đó cùng với các môn đệ. Giuđa, tên phản bội, đã biết rõ nơi đó, vì Chúa Giêsu thường đến đấy với các môn đệ. Nên Giuđa dẫn tới một toán quân cùng với vệ binh do các thượng tế và biệt phái cấp cho, nó đến đây với đèn đuốc và khí giới. Chúa Giêsu đã biết mọi sự sẽ xảy đến cho Mình, nên Người tiến ra và hỏi chúng: J. “Các ngươi tìm ai?” C. Chúng thưa lại: S. “Giêsu Nadarét”. C. Chúa Giêsu bảo: “Ta đây”. C. Giuđa là kẻ định nộp Người cũng đứng đó với bọn chúng. Nhưng khi Người vừa nói “Ta đây”, bọn chúng giật lùi lại và ngã xuống đất. Người lại hỏi chúng: J. “Các ngươi tìm ai?” C. Chúng thưa: S. “Giêsu Nadarét”. C. Chúa Giêsu đáp lại: “Ta đã bảo các ngươi rằng Ta đây! Vậy nếu các ngươi tìm bắt Ta, thì hãy để cho những người này đi”. C. Như thế là trọn lời đã nói: “Con chẳng để mất người nào trong những kẻ Cha đã trao phó cho Con”. Bấy giờ Simon Phêrô có sẵn thanh gươm, liền rút ra đánh tên đầy tớ vị thượng tế, chém đứt tai bên phải. Đầy tớ ấy tên là Mancô. Nhưng Chúa Giêsu bảo Phêrô rằng: J. “Hãy xỏ gươm vào bao. Chén Cha Ta đã trao lẽ nào Ta không uống!” C. Bấy giờ, toán quân, trưởng toán và vệ binh của người Do-thái bắt Chúa Giêsu trói lại, và điệu Người đến nhà ông Anna trước, vì ông là nhạc phụ của Caipha đương làm thượng tế năm ấy. Chính Caipha là người đã giúp ý kiến này cho người Do-thái: để một người chết thay cho cả dân thì lợi hơn. Còn Phêrô và môn đệ kia vẫn theo Chúa Giêsu. Môn đệ sau này quen vị thượng tế nên cùng với Chúa Giêsu vào trong sân vị thượng tế, còn Phêrô đứng lại ngoài cửa. Vì thế, môn đệ kia là người quen với vị thượng tế, nên đi ra nói với người giữ cửa và dẫn Phêrô vào. Cô nữ tì gác cửa liền bảo Phêrô: S. “Có phải ông cũng là môn đệ của người đó không?” C. Ông đáp: S. “Tôi không phải đâu”.

C. Đám thủ hạ và vệ binh có nhóm một đống lửa và đứng đó mà sưởi vì trời lạnh, Phêrô cũng đứng sưởi với họ. Vị thượng tế hỏi Chúa Giêsu về môn đệ và giáo lý của Người. Chúa Giêsu đáp: J. “Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ, Tôi thường giảng dạy tại hội đường và trong đền thờ, nơi mà các người Do-thái thường tụ họp, Tôi không nói chi thầm lén cả. Tại sao ông lại hỏi Tôi? Ông cứ hỏi những người đã nghe Tôi về những điều Tôi đã giảng dạy. Họ đã quá rõ điều Tôi nói”. C. Nghe vậy, một tên vệ binh đứng đó vả mặt Chúa Giêsu mà nói: S. “Anh trả lời vị thượng tế như thế ư”. C. Chúa Giêsu đáp: J. “Nếu Ta nói sai, hãy chứng minh điều sai đó; mà nếu Ta nói phải, thì tại sao anh lại đánh Ta?” C. Rồi Anna cho giải Người vẫn bị trói đến cùng vị thượng tế Caipha. Lúc ấy Phêrô đang đứng sưởi. Họ bảo ông: S. “Có phải ông cũng là môn đệ người đó không?” C. Ông chối và nói: S. “Tôi không phải đâu”. C. Một tên thủ hạ của vị thượng tế, có họ với người bị Phêrô chém đứt tai, cãi lại rằng: S. “Tôi đã chẳng thấy ông ở trong vườn cùng với người đó sao?” C. Phêrô lại chối nữa, và ngay lúc đó gà liền gáy.

Bấy giờ họ điệu Chúa Giêsu từ nhà Caipha đến pháp đình. Lúc đó tảng sáng và họ không vào pháp đình để khỏi bị nhơ bẩn và để có thể ăn Lễ Vượt Qua. Lúc ấy Philatô ra ngoài để gặp họ và nói: S. “Các ngươi tố cáo người này về điều gì”. C. Họ đáp: S. “Nếu hắn không phải là tay gian ác, chúng tôi đã không nộp cho quan”. C. Philatô bảo họ: S. “Các ông cứ bắt và xét xử theo luật của các ông”. C. Nhưng người Do-thái đáp lại: S. “Chúng tôi chẳng có quyền giết ai cả”. C. Thế mới ứng nghiệm lời Chúa Giêsu đã nói trước: Người sẽ phải chết cách nào. Bấy giờ Philatô trở vào pháp đình gọi Chúa Giêsu đến mà hỏi: S. “Ông có phải là Vua dân Do-thái không?” C. Chúa Giêsu đáp: J. “Quan tự ý nói thế, hay là có người khác nói với quan về tôi?” C. Philatô đáp: S. “Ta đâu phải là người Do-thái. Nhân dân ông cùng các thượng tế đã trao nộp ông cho ta. Ông đã làm gì?” C. Chúa Giêsu đáp: J. “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái, nhưng nước tôi không thuộc chốn này”. C. Philatô hỏi lại: S. “Vậy ông là Vua ư?” C. Chúa Giêsu đáp: J. “Quan nói đúng: Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng tôi”. C. Philatô bảo Người: S. “Chân lý là cái gì?” C. Nói lời này xong, ông lại ra gặp người Do-thái và bảo họ: S. “Ta không thấy nơi người này có lý do để khép án. Nhưng theo tục lệ các ngươi, ta sẽ phóng thích cho các ngươi một tù nhân vào dịp Lễ Vượt Qua. Vậy các ngươi có muốn ta phóng thích Vua Do-thái cho các ngươi chăng?” C. Họ liền la lên: S. “Không phải tên đó, nhưng là Baraba”. C. Baraba là một tên cướp. Bấy giờ Philatô truyền đem Chúa Giêsu đi mà đánh đòn Người. Binh sĩ kết một triều thiên bằng gai nhọn đội lên đầu Người và nói: S. “Tâu Vua Do-thái!” C. Và vả mặt Người. Philatô lại ra ngoài và nói: S. “Đây ta cho dẫn người ấy ra ngoài cho các ngươi để các ngươi biết rằng ta không thấy nơi người ấy một lý do để kết án”. C. Bấy giờ Chúa Giêsu đi ra, đội mão gai và khoác áo đỏ. Philatô bảo họ: S. “Này là Người”. C. Vừa thấy Người, các thượng tế và vệ binh liền la to: S. “Đóng đinh nó vào thập giá! Đóng đinh nó vào thập giá!” C. Philatô bảo họ: S. “Đấy các ngươi cứ bắt và đóng đinh ông vào thập giá, phần ta, ta không thấy lý do nào kết tội ông”. C. Người Do-thái đáp lại: S. “Chúng tôi đã có luật, và theo luật đó nó phải chết, vì nó tự xưng là Con Thiên Chúa”. C. Nghe lời đó Philatô càng hoảng sợ hơn. Ông trở vào pháp đình và nói với Chúa Giêsu: S. “Ông ở đâu đến?”

C. Nhưng Chúa Giêsu không đáp lại câu nào. Bấy giờ Philatô bảo Người: S. “Ông không nói với ta ư? Ông không biết rằng ta có quyền đóng đinh ông vào thập giá và cũng có quyền tha ông sao?” C. Chúa Giêsu đáp: J. “Quan chẳng có quyền gì trên tôi, nếu từ trên không ban xuống cho, vì thế nên kẻ nộp tôi cho quan, mắc tội nặng hơn”. C. Từ lúc đó Philatô tìm cách tha Người. Nhưng người Do-thái la lên: S. “Nếu quan tha cho nó, quan không phải là trung thần của Xêsa, vì ai xưng mình là vua, kẻ đó chống lại Xêsa”. C. Philatô vừa nghe lời đó, liền cho điệu Chúa Giêsu ra ngoài rồi ông lên ngồi toà xử, nơi gọi là Nền đá, tiếng Do-thái gọi là Gabbatha. Lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu ngày chuẩn bị Lễ Vượt Qua. Philatô bảo dân: S. “Đây là vua các ngươi”. C. Nhưng họ càng la to: S. “Giết đi! Giết đi! Đóng đinh nó đi!” C. Philatô nói: S. “Ta đóng đinh vua các ngươi ư?” C. Các thượng tế đáp: S. “Chúng tôi không có vua nào khác ngoài Xêsa”. C. Bấy giờ quan giao Người cho họ đem đóng đinh.

Vậy họ điệu Chúa Giêsu đi. Và chính Người vác thập giá đến nơi kia gọi là Núi Sọ, tiếng Do-thái gọi là Golgotha. Ở đó họ đóng đinh Người trên thập giá cùng với hai người khác nữa: mỗi người một bên, còn Chúa Giêsu thì ở giữa. Philatô cũng viết một tấm bảng và sai đóng trên thập giá. Bảng mang những hàng chữ này: “Giêsu, Nadarét, vua dân Do-thái”. Nhiều người Do-thái đọc được bảng đó, vì nơi Chúa Giêsu chịu đóng đinh thì gần thành phố, mà bảng viết thì bằng tiếng Do-thái, Hy-lạp và La-tinh. Vì thế các thượng tế đến thưa với Philatô:

S. Xin đừng viết “Vua dân Do Thái”, nhưng nên viết: “Người này đã nói: ‘Ta là vua dân Do-thái'”. C. Philatô đáp: S. “Điều ta đã viết là đã viết”. C. Khi quân lính đã đóng đinh Chúa Giêsu trên thập giá rồi thì họ lấy áo Người chia làm bốn phần cho mỗi người một phần, còn cái áo dài là áo không có đường khâu, đan liền từ trên xuống dưới. Họ bảo nhau: S. “Chúng ta đừng xé áo này, nhưng hãy rút thăm xem ai được thì lấy”. C. Hầu ứng nghiệm lời Kinh Thánh: “Chúng đã chia nhau các áo Ta và đã rút thăm áo dài của Ta”. Chính quân lính đã làm điều đó.

Đứng gần thập giá Chúa Giêsu, lúc đó có Mẹ Người, cùng với chị Mẹ Người là Maria, vợ ông Clopas và Maria Mađalêna. Khi thấy Mẹ và bên cạnh có môn đệ Người yêu, Chúa Giêsu thưa cùng Mẹ rằng: J. “Hỡi Bà, này là con Bà”. C. Rồi Người lại nói với môn đệ: J. “Này là Mẹ con”. C. Và từ giờ đó môn đệ đã lãnh nhận Bà về nhà mình. Sau đó, vì biết rằng mọi sự đã hoàn tất, để lời Kinh Thánh được ứng nghiệm, Chúa Giêsu nói: J. “Ta khát!” C. Ở đó có một bình đầy dấm. Họ liền lấy miếng bông biển thấm đầy dấm cắm vào đầu ngành cây hương thảo đưa lên miệng Người. Khi đã nếm dấm rồi, Chúa Giêsu nói: J. “Mọi sự đã hoàn tất”. C. Và Người gục đầu xuống trút hơi thở cuối cùng.

(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)

Hôm đó là ngày chuẩn bị lễ: để tội nhân khỏi treo trên thập giá trong ngày Sabbat, vì ngày Sabbat là ngày đại lễ, nên người Do-thái xin Philatô cho đánh dập ống chân tội nhân và cho cất xác xuống. Quân lính đến đánh dập ống chân của người thứ nhất và người thứ hai cùng chịu treo trên thập giá với Người. Nhưng lúc họ đến gần Chúa Giêsu, họ thấy Người đã chết, nên không đánh dập ống chân Người nữa, tuy nhiên một tên lính lấy giáo đâm cạnh sườn Người; tức thì máu cùng nước chảy ra. Kẻ đã xem thấy thì đã minh chứng, mà lời chứng của người đó chân thật, và người đó biết rằng mình nói thật để cho các người cũng tin nữa. Những sự việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh: “Người ta sẽ không đánh dập một cái xương nào của Người”. Lời Kinh Thánh khác rằng: “Họ sẽ nhìn xem Đấng họ đã đâm thâu qua”.

Sau đó, Giuse người xứ Arimathia, môn đệ Chúa Giêsu, nhưng thầm kín vì sợ người Do-thái, xin Philatô cho phép cất xác Chúa Giêsu. Philatô cho phép. Và ông đến cất xác Chúa Giêsu. Nicôđêmô cũng đến, ông là người trước kia đã đến gặp Chúa Giêsu ban đêm. Ông đem theo chừng một trăm cân mộc dược trộn lẫn với trầm hương. Họ lấy xác Chúa Giêsu và lấy khăn bọc lại cùng với thuốc thơm theo tục khâm liệm người Do-thái. Ở nơi Chúa chịu đóng đinh có cái vườn và trong vườn có một ngôi mộ mới, chưa chôn cất ai. Vì là ngày chuẩn bị lễ của người Do-thái và ngôi mộ lại rất gần, nên họ đã mai táng Chúa Giêsu trong mộ đó.

Suy niệm: Sau một chuyến hành hương Thánh Địa, ba người bạn của Thống Đốc George Briggs (Massachusetts) tặng ông một cây gậy làm từ nhánh cây trên đồi Can-vê. Họ nói: “Chúng tôi muốn ngài biết cho rằng, khi đứng trên đỉnh đồi Can-vê, chúng tôi đã nghĩ tới ngài.” Ông cám ơn họ và nói thêm: “Nhưng thưa các bạn, tôi còn nghĩ xa hơn: ở đó, có một Đấng khác cũng đã nghĩ đến tôi.” Vì nghĩ đến mọi người, Đức Giê-su đã sẵn sàng đón nhận cuộc Khổ Nạn, kết thúc với cái chết đau đớn. Nghe đọc bài Thương Khó, hẳn ta dễ dàng nhận ra thái độ anh hùng, tự nguyện chịu chết của Ngài. Chết trên thập giá là cái chết khủng khiếp, tàn ác, và nhục nhã hơn cả vào thời ấy. Thế nhưng, trên thập giá Ngài có thể gục đầu an nghỉ, cảm nếm niềm vui chiến thắng, hoàn tất chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa.

Mời Bạn: Những ngày này, bạn nhận ra tột đỉnh của tình yêu Chúa, cũng như có thể dễ dàng nhận thấy khuôn mặt mình qua những nhân vật phụ xuất hiện trong cuộc Thương Khó: bỏ chạy như các môn đệ, hèn nhát như Phi-la-tô, độc ác như các binh sĩ, tàn nhẫn như giới lãnh đạo, dửng dưng như dân chúng, gắn bó như các bà dưới chân thập giá?

Chia sẻ: Nói lên một cảm nghiệm khi tham dự cuộc Khổ Nạn của Đức Giê-su.

Sống Lời Chúa: Tôi sẽ tham dự đầy đủ các nghi thức của hai ngày thánh này và dành thời gian chiêm niệm cuộc Khổ Nạn của Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã chết cho con được sống; Chúa đã bị treo lên để con cũng được kéo lên với Chúa. Xin cho con luôn trung thành với ơn gọi người môn đệ, qua việc sẵn sàng vác thánh giá hằng ngày theo Chúa.

28/03 – THỨ NĂM TUẦN THÁNH. THÁNH LỄ TIỆC LY.

“Ngài yêu thương họ đến cùng”.

Lời Chúa: Ga 13, 1-15

Trước ngày Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết đã đến giờ Mình phải bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha, Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến cùng. Sau bữa ăn tối, ma quỷ gieo vào lòng Giuđa Iscariô, con Simon, ý định nộp Người. Người biết rằng Chúa Cha đã trao phó mọi sự trong tay mình, và vì Người bởi Thiên Chúa mà đến và sẽ trở về cùng Thiên Chúa.

Người chỗi dậy, cởi áo, lấy khăn thắt lưng, rồi đổ nước vào chậu; Người liền rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. Vậy Người đến chỗ Simon Phêrô, ông này thưa Người rằng: “Lạy Thầy, Thầy định rửa chân cho con ư?” Chúa Giêsu đáp: “Việc Thầy làm bây giờ con chưa hiểu, nhưng sau sẽ hiểu”. Phêrô thưa lại: “Không đời nào Thầy sẽ rửa chân cho con”. Chúa Giêsu bảo: “Nếu Thầy không rửa chân cho con, con sẽ không được dự phần với Thầy”. Phêrô liền thưa: “Vậy xin Thầy hãy rửa không những chân con, mà cả tay và đầu nữa”. Chúa Giêsu nói: “Kẻ mới tắm rồi chỉ cần rửa chân, vì cả mình đã sạch. Tuy các con đã sạch, nhưng không phải hết thảy đâu”. Vì Người biết ai sẽ nộp Người nên mới nói: “Không phải tất cả các con đều sạch đâu”.

Sau khi đã rửa chân cho các ông, Người mặc áo lại, và khi đã trở về chỗ cũ, Người nói: “Các con có hiểu biết việc Thầy vừa làm cho các con chăng? Các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm, vì đúng thật Thầy như vậy. Vậy nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau. Vì Thầy đã làm gương cho các con để các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con”.

Suy niệm: Yêu ai nửa vời thì ta giữ lại cho mình thật nhiều, mình phải được hơn là mất. Trái lại, yêu ai đến cùng, ta không còn dè giữ nữa, mà cho đi tất cả. Yêu nhân loại đến cùng, Đức Giê-su cho đi những gì quý giá nhất, làm điều gì tốt đẹp nhất mà một vị Thiên Chúa làm người có thể thực hiện được. Ngài đã làm bốn điều sau đây để cho ta thấy thế nào là yêu đến cùng: rửa chân cho các môn đệ, lập Bí tích Thánh Thể, chết trên thập giá, và sống lại hiển vinh. Rửa chân cho môn đệ là hạ mình, đặt người yêu mến lên trên mình, chi phối cuộc đời mình. Lập Bí tích Thánh Thể để ở lại với con người mọi ngày cho đến tận thế một cách gần gũi, thân thiết, hữu hình. Chết trên thập giá minh chứng cho tình yêu hy sinh, tự hiến sự sống cho người mình yêu thương. Sống lại để đưa con người lên địa vị cao sang, thừa hưởng gia nghiệp Nước Trời.

Mời Bạn: Chiêm ngắm từng cử chỉ của Chúa chúng ta khi Ngài hạ mình xuống rửa chân cho các môn đệ: cởi áo choàng, lấy khăn mà thắt lưng, đổ nước vào chậu, rửa chân cho các ông, lấy khăn mà lau… để bạn cảm nghiệm được thế nào là tình Ngài yêu thương đến độ trút bỏ cả vinh quang lẫn địa vị của một vị Thiên Chúa để hiến thân cho chúng ta.

Sống Lời Chúa: Suy gẫm bốn điều Thiên Chúa vì yêu đến cùng đã làm cho mình, tôi nỗ lực đáp trả lại bằng việc dành nhiều thời gian cho Chúa hơn trong đời thường của mình.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, con cảm nghiệm thế nào là yêu đến cùng của Chúa với nhân loại, và riêng với con. Xin giúp con biết cách đáp trả với cả con tim.