21/04 – Thứ Hai tuần BÁT NHẬT PHỤC SINH.

“Hãy đi nói với anh em đến Galilêa mà gặp Ta ở đó”.

Lời Chúa: Mt 28, 8-15

Khi ấy, các bà vội ra khỏi mồ vừa sợ lại vừa hớn hở vui mừng, chạy báo tin cho các môn đệ Chúa. Và này Chúa Giêsu đón gặp các bà, Người nói: “Chào các bà”. Các bà liền lại gần ôm chân Người và phục lạy. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo: “Các bà đừng sợ. Hãy đi báo tin cho các anh em Ta phải trở về Galilêa, rồi ở đó họ sẽ gặp Ta”.

Đang khi các bà lên đường, thì mấy người lính canh vào thành báo tin cho các thượng tế biết tất cả những gì đã xảy ra. Các thượng tế liền họp với các kỳ lão, và sau khi đã bàn định, họ cho lính một số tiền lớn và bảo rằng: “Các anh hãy nói rằng: Ban đêm khi chúng tôi đang ngủ, thì môn đệ ông đến lấy trộm xác ông. Nếu việc này đến tai tổng trấn, chúng tôi sẽ thương lượng với ông, không để các anh phải phiền hà đâu”.

Bọn lính canh nhận tiền và đã làm y như họ căn dặn chúng. Bởi thế, lời đó được phao truyền nơi người Do-thái cho đến ngày nay.

Suy niệm: Người ta nói rằng phụ nữ mau miệng, dễ tin, nên ta phải dè chừng những gì họ loan đi. Thời Chúa Giê-su, lời chứng của phụ nữ không có giá trị pháp lý nào cả, lời chứng phải là của hai người, mà là hai người đàn ông! Thế nhưng, với Chúa Phục Sinh thì khác, Ngài không ngần ngại giao phó cho các chị sứ mạng loan báo Tin Mừng vĩ đại Ngài đã sống lại. Ngài dám tin tưởng như vậy vì cảm nhận lòng yêu mến đặc biệt của các chị dành cho mình: can đảm đứng dưới chân thập giá giữa rừng người cổ võ bản án tử hình và nhục mạ Ngài, vượt lên nỗi sợ đến mồ từ sáng sớm tinh mơ, để làm nghĩa cử cuối cùng với người đã khuất là xức thêm thuốc thơm cho thi thể Ngài. Ngài để cho các chị “ôm chân và bái lạy Ngài,” một sự tưởng thưởng bất ngờ với các chị, tiếp theo sẽ là món quà loan báo Tin Mừng sống lại cho chính các môn đệ thân tín của Ngài.

Mời Bạn: Đàn ông thường phán đoán theo lý trí, đang khi phụ nữ theo tình cảm. Cần kết hợp cả hai trong đời sống đức tin, chẳng hạn: trong việc thực hành đức bác ái, quá lý luận sẽ khiến bạn dễ thành lãnh đạm, vô cảm trước nỗi khổ của tha nhân; quá tình cảm làm người khác dễ lợi dụng bạn. Thờ phượng Chúa không chỉ theo sự hướng dẫn của lý trí, nhưng lắm lúc cũng cần sự sốt sắng, nhiệt tâm của trái tim.

Sống Lời Chúa: Tôi nhớ sứ mạng loan báo Tin Mừng Chúa sống lại, thực thi với lòng yêu mến của con tim, cũng như với tất cả sáng kiến của trí óc.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con luôn mau mắn loan báo Tin Mừng Nước Trời, không so đo, tính toán hơn thiệt, vì đó là sứ mạng Chúa trao cho con.

20/04 – CHÚA NHẬT PHỤC SINH năm C.

“Người phải sống lại từ cõi chết”.

Lời Chúa: Ga 20, 1-9

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Ngày đầu tuần, Maria Mađalêna đi ra mồ từ sáng sớm khi trời còn tối và bà thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mồ, bà liền chạy về tìm Simon-Phêrô và người môn đệ kia được Chúa Giêsu yêu mến, bà nói với các ông rằng: “Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu”.

Phêrô và môn đệ kia ra đi đến mồ. Cả hai cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô, và đến mồ trước. Ông cúi mình xuống thấy những khăn liệm để đó, nhưng ông không vào trong.

Vậy Simon-Phêrô theo sau cũng tới nơi, ông vào trong mồ và thấy những dây băng nhỏ để đó, và khăn liệm che đầu Người trước đây, khăn này không để lẫn với dây băng, nhưng cuộn lại để riêng một chỗ. Bấy giờ môn đệ kia mới vào, dù ông đã tới mồ trước.

Ông thấy và ông tin, vì chưng các ông còn chưa hiểu rằng, theo Kinh Thánh, thì Người phải sống lại từ cõi chết.

Suy niệm: “Những gì thiết yếu quan trọng trong cuộc sống, chúng ta không thể nhìn thấy bằng đôi mắt thường, nhưng nhìn thấy bằng con tim” (Nhà văn St. Exupéry). Đôi mắt thường của Gio-an chỉ nhìn thấy ngôi mộ trống, các đồ khâm liệm không bị vứt bừa bãi, nhưng đều nằm y nguyên tại chỗ: những băng vải nằm đó, khăn che đầu cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Thế là đã đủ cho Gio-an tin Thầy mình đã phục sinh. Ông đã không nhìn bằng đôi mắt thường, nhưng nhìn thấy bằng quả tim của “người môn đệ Đức Giê-su thương mến,” cũng như bằng con tim của người môn đệ thương mến Thầy mãnh liệt. Tình yêu đã giúp cho đôi mắt Gio-an thấy và đọc được các dấu hiệu, tâm trí ông đã hiểu và ông đã tin.

Mời Bạn: Gio-an là người môn đệ đầu tiên tin Thầy mình sống lại. Tô-ma cứng cỏi hoài nghi như Tào Tháo rồi cũng trở thành người tin; các tông đồ trước đây ích kỷ khép kín bây giờ quảng đại dấn thân cho Nước Trời. Cái gì đã tạo nên sự thay đổi thần kỳ ấy? Thưa, những lần Đức Giê-su hiện ra với các ông, củng cố niềm tin phục sinh của các ông, khiến các ông luôn xác quyết đã gặp Đấng Phục Sinh. Bạn nghĩ sao về những người dám sống dám chết cho lời chứng của mình?

Sống Lời Chúa: Tôi sẽ nỗ lực sống như người có niềm tin phục sinh qua việc siêng năng phụng thờ Thiên Chúa, vui vẻ thực hiện Tám Mối Phúc Thật.

Cầu nguyện: Lạy Đấng Phục Sinh, xin cho niềm tin phục sinh chi phối mọi sinh hoạt trong cuộc đời chúng con. Xin cho chúng con nhận ra Chúa đang đồng hành với chúng con. Allêluia!

19/04 – THỨ BẢY TUẦN THÁNH. ĐÊM THÁNH VỌNG CHÚA PHỤC SINH.

“Tại sao các bà tìm người sống nơi những kẻ chết?”

Lời Chúa: Lc 24, 1-12

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Ngày thứ nhất trong tuần, vừa tảng sáng, các bà đi ra mồ mang theo những thuốc thơm đã dọn sẵn. Thấy hòn đá đã lăn ra khỏi mồ, nhưng bước vào, các bà không thấy xác Chúa Giêsu.

Đang khi các bà còn ngơ ngác không hiểu việc đó, thì có hai người đứng gần các bà, y phục sáng chói. Các bà kinh hãi cắm mặt xuống đất, thì hai người lên tiếng bảo: “Tại sao các bà tìm người sống nơi những kẻ chết? Người không còn ở đây. Người đã sống lại, các bà hãy nhớ lại Người đã nói với các bà thế nào khi Người còn ở xứ Galilêa. Người đã nói: Con Người phải bị nộp vào tay những kẻ tội lỗi, bị đóng đinh vào thập giá và ngày thứ ba sẽ sống lại”. Và các bà nhớ lại những lời Người đã nói.

Bỏ mồ đi về, các bà tường thuật lại tất cả sự việc cho mười một Tông đồ và các người khác. Các bà đó là Maria Mađalêna, Gioanna, Maria mẹ Giacôbê; và những người nữ khác cùng đi với họ cũng nói như vậy với các tông đồ. Nhưng những lời đó, các ông cho là truyện vớ vẩn, nên các ông không tin.

Dầu vậy Phêrô cũng đứng dậy chạy ra mồ, nhưng khi cúi xuống nhìn, ông chỉ thấy những khăn liệm nằm đó và ông trở về nhà, rất đỗi ngạc nhiên về sự đã xảy ra.

Mời Bạn vận dụng một chút tưởng tượng mà hình dung mình đang đứng cạnh các môn đệ sau khi đẩy tảng đá lấp kín mộ Chúa. Phải chăng thế là hết thật rồi? Ước mơ ngày nào được ngồi hai bên tả hữu Chúa, giờ đây đã tan theo mây khói. Còn đâu nữa phép lạ ngoạn mục Thầy Giê-su hoá bánh ra nhiều? Còn đâu nữa danh tiếng Thầy vang dội khi hô một tiếng, anh La-da-rô, chết chôn đã ba ngày, tung cửa mồ bước ra? Còn đâu nữa Thầy tỏ mình vinh quang sáng ngời trên núi? Phải chăng tất cả đều trở nên vô nghĩa? Thế còn lời Thầy dặn dò “Đừng nói gì cho đến khi Thầy từ trong cõi chết sống lại” (Mt 17,9) nghĩa là gì? Những vấn nạn đó chỉ có lời giải đáp nếu Đức Ki-tô thực sự có sống lại. Quả thật, không có phép lạ nào quan trọng bằng chính việc Đức Giê-su phục sinh như thánh Phao-lô tuyên bố : “Nếu Chúa Ki-tô không sống lại thì lòng tin của anh em thật hão huyền” (1Cr 15,17). Chúa Giê-su phục sinh là cốt lõi niềm tin của chúng ta. Niềm tin này kéo theo nhiều niềm tin khác: niềm tin cứu chuộc, niềm tin thân xác sống lại… Lời chứng của các tông đồ không phải là một niềm tin nhảm nhí hay ảo tưởng nhưng có bằng chứng xác thực dựa vào Kinh Thánh và lòng tin của Giáo Hội suốt hai mươi thế kỷ qua.

Sống Lời Chúa: Chúa Ki-tô đã phục sinh nhưng Ngài vẫn ẩn mình. Bạn dành ít phút thinh lặng hồi tâm để sống tâm tình của các tông đồ bên mộ Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho chúng con cảm nghiệm niềm hy vọng sống lại để từng ngày sống của con trở nên một sứ điệp mang lại niềm vui và lòng tin cho mọi người. Amen.

18/04 – THỨ SÁU TUẦN THÁNH. KỶ NIỆM CUỘC KHỔ NẠN CỦA CHÚA.

“Sự Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”.

Lời Chúa: Ga 18, 1 – 19, 42

C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn. J: Chúa Giêsu

C. Bài Thương Khó Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu đi với môn đệ sang qua suối Xêrông, ở đó có một khu vườn, Người vào đó cùng với các môn đệ. Giuđa, tên phản bội, đã biết rõ nơi đó, vì Chúa Giêsu thường đến đấy với các môn đệ. Nên Giuđa dẫn tới một toán quân cùng với vệ binh do các thượng tế và biệt phái cấp cho, nó đến đây với đèn đuốc và khí giới. Chúa Giêsu đã biết mọi sự sẽ xảy đến cho Mình, nên Người tiến ra và hỏi chúng: J. “Các ngươi tìm ai?” C. Chúng thưa lại: S. “Giêsu Nadarét”. C. Chúa Giêsu bảo: “Ta đây”. C. Giuđa là kẻ định nộp Người cũng đứng đó với bọn chúng. Nhưng khi Người vừa nói “Ta đây”, bọn chúng giật lùi lại và ngã xuống đất. Người lại hỏi chúng: J. “Các ngươi tìm ai?” C. Chúng thưa: S. “Giêsu Nadarét”. C. Chúa Giêsu đáp lại: “Ta đã bảo các ngươi rằng Ta đây! Vậy nếu các ngươi tìm bắt Ta, thì hãy để cho những người này đi”. C. Như thế là trọn lời đã nói: “Con chẳng để mất người nào trong những kẻ Cha đã trao phó cho Con”. Bấy giờ Simon Phêrô có sẵn thanh gươm, liền rút ra đánh tên đầy tớ vị thượng tế, chém đứt tai bên phải. Đầy tớ ấy tên là Mancô. Nhưng Chúa Giêsu bảo Phêrô rằng: J. “Hãy xỏ gươm vào bao. Chén Cha Ta đã trao lẽ nào Ta không uống!” C. Bấy giờ, toán quân, trưởng toán và vệ binh của người Do-thái bắt Chúa Giêsu trói lại, và điệu Người đến nhà ông Anna trước, vì ông là nhạc phụ của Caipha đương làm thượng tế năm ấy. Chính Caipha là người đã giúp ý kiến này cho người Do-thái: để một người chết thay cho cả dân thì lợi hơn. Còn Phêrô và môn đệ kia vẫn theo Chúa Giêsu. Môn đệ sau này quen vị thượng tế nên cùng với Chúa Giêsu vào trong sân vị thượng tế, còn Phêrô đứng lại ngoài cửa. Vì thế, môn đệ kia là người quen với vị thượng tế, nên đi ra nói với người giữ cửa và dẫn Phêrô vào. Cô nữ tì gác cửa liền bảo Phêrô: S. “Có phải ông cũng là môn đệ của người đó không?” C. Ông đáp: S. “Tôi không phải đâu”.

C. Đám thủ hạ và vệ binh có nhóm một đống lửa và đứng đó mà sưởi vì trời lạnh, Phêrô cũng đứng sưởi với họ. Vị thượng tế hỏi Chúa Giêsu về môn đệ và giáo lý của Người. Chúa Giêsu đáp: J. “Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ, Tôi thường giảng dạy tại hội đường và trong đền thờ, nơi mà các người Do-thái thường tụ họp, Tôi không nói chi thầm lén cả. Tại sao ông lại hỏi Tôi? Ông cứ hỏi những người đã nghe Tôi về những điều Tôi đã giảng dạy. Họ đã quá rõ điều Tôi nói”. C. Nghe vậy, một tên vệ binh đứng đó vả mặt Chúa Giêsu mà nói: S. “Anh trả lời vị thượng tế như thế ư”. C. Chúa Giêsu đáp: J. “Nếu Ta nói sai, hãy chứng minh điều sai đó; mà nếu Ta nói phải, thì tại sao anh lại đánh Ta?” C. Rồi Anna cho giải Người vẫn bị trói đến cùng vị thượng tế Caipha. Lúc ấy Phêrô đang đứng sưởi. Họ bảo ông: S. “Có phải ông cũng là môn đệ người đó không?” C. Ông chối và nói: S. “Tôi không phải đâu”. C. Một tên thủ hạ của vị thượng tế, có họ với người bị Phêrô chém đứt tai, cãi lại rằng: S. “Tôi đã chẳng thấy ông ở trong vườn cùng với người đó sao?” C. Phêrô lại chối nữa, và ngay lúc đó gà liền gáy.

Bấy giờ họ điệu Chúa Giêsu từ nhà Caipha đến pháp đình. Lúc đó tảng sáng và họ không vào pháp đình để khỏi bị nhơ bẩn và để có thể ăn Lễ Vượt Qua. Lúc ấy Philatô ra ngoài để gặp họ và nói: S. “Các ngươi tố cáo người này về điều gì”. C. Họ đáp: S. “Nếu hắn không phải là tay gian ác, chúng tôi đã không nộp cho quan”. C. Philatô bảo họ: S. “Các ông cứ bắt và xét xử theo luật của các ông”. C. Nhưng người Do-thái đáp lại: S. “Chúng tôi chẳng có quyền giết ai cả”. C. Thế mới ứng nghiệm lời Chúa Giêsu đã nói trước: Người sẽ phải chết cách nào. Bấy giờ Philatô trở vào pháp đình gọi Chúa Giêsu đến mà hỏi: S. “Ông có phải là Vua dân Do-thái không?” C. Chúa Giêsu đáp: J. “Quan tự ý nói thế, hay là có người khác nói với quan về tôi?” C. Philatô đáp: S. “Ta đâu phải là người Do-thái. Nhân dân ông cùng các thượng tế đã trao nộp ông cho ta. Ông đã làm gì?” C. Chúa Giêsu đáp: J. “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái, nhưng nước tôi không thuộc chốn này”. C. Philatô hỏi lại: S. “Vậy ông là Vua ư?” C. Chúa Giêsu đáp: J. “Quan nói đúng: Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng tôi”. C. Philatô bảo Người: S. “Chân lý là cái gì?” C. Nói lời này xong, ông lại ra gặp người Do-thái và bảo họ: S. “Ta không thấy nơi người này có lý do để khép án. Nhưng theo tục lệ các ngươi, ta sẽ phóng thích cho các ngươi một tù nhân vào dịp Lễ Vượt Qua. Vậy các ngươi có muốn ta phóng thích Vua Do-thái cho các ngươi chăng?” C. Họ liền la lên: S. “Không phải tên đó, nhưng là Baraba”. C. Baraba là một tên cướp. Bấy giờ Philatô truyền đem Chúa Giêsu đi mà đánh đòn Người. Binh sĩ kết một triều thiên bằng gai nhọn đội lên đầu Người và nói: S. “Tâu Vua Do-thái!” C. Và vả mặt Người. Philatô lại ra ngoài và nói: S. “Đây ta cho dẫn người ấy ra ngoài cho các ngươi để các ngươi biết rằng ta không thấy nơi người ấy một lý do để kết án”. C. Bấy giờ Chúa Giêsu đi ra, đội mão gai và khoác áo đỏ. Philatô bảo họ: S. “Này là Người”. C. Vừa thấy Người, các thượng tế và vệ binh liền la to: S. “Đóng đinh nó vào thập giá! Đóng đinh nó vào thập giá!” C. Philatô bảo họ: S. “Đấy các ngươi cứ bắt và đóng đinh ông vào thập giá, phần ta, ta không thấy lý do nào kết tội ông”. C. Người Do-thái đáp lại: S. “Chúng tôi đã có luật, và theo luật đó nó phải chết, vì nó tự xưng là Con Thiên Chúa”. C. Nghe lời đó Philatô càng hoảng sợ hơn. Ông trở vào pháp đình và nói với Chúa Giêsu: S. “Ông ở đâu đến?”

C. Nhưng Chúa Giêsu không đáp lại câu nào. Bấy giờ Philatô bảo Người: S. “Ông không nói với ta ư? Ông không biết rằng ta có quyền đóng đinh ông vào thập giá và cũng có quyền tha ông sao?” C. Chúa Giêsu đáp: J. “Quan chẳng có quyền gì trên tôi, nếu từ trên không ban xuống cho, vì thế nên kẻ nộp tôi cho quan, mắc tội nặng hơn”. C. Từ lúc đó Philatô tìm cách tha Người. Nhưng người Do-thái la lên: S. “Nếu quan tha cho nó, quan không phải là trung thần của Xêsa, vì ai xưng mình là vua, kẻ đó chống lại Xêsa”. C. Philatô vừa nghe lời đó, liền cho điệu Chúa Giêsu ra ngoài rồi ông lên ngồi toà xử, nơi gọi là Nền đá, tiếng Do-thái gọi là Gabbatha. Lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu ngày chuẩn bị Lễ Vượt Qua. Philatô bảo dân: S. “Đây là vua các ngươi”. C. Nhưng họ càng la to: S. “Giết đi! Giết đi! Đóng đinh nó đi!” C. Philatô nói: S. “Ta đóng đinh vua các ngươi ư?” C. Các thượng tế đáp: S. “Chúng tôi không có vua nào khác ngoài Xêsa”. C. Bấy giờ quan giao Người cho họ đem đóng đinh.

Vậy họ điệu Chúa Giêsu đi. Và chính Người vác thập giá đến nơi kia gọi là Núi Sọ, tiếng Do-thái gọi là Golgotha. Ở đó họ đóng đinh Người trên thập giá cùng với hai người khác nữa: mỗi người một bên, còn Chúa Giêsu thì ở giữa. Philatô cũng viết một tấm bảng và sai đóng trên thập giá. Bảng mang những hàng chữ này: “Giêsu, Nadarét, vua dân Do-thái”. Nhiều người Do-thái đọc được bảng đó, vì nơi Chúa Giêsu chịu đóng đinh thì gần thành phố, mà bảng viết thì bằng tiếng Do-thái, Hy-lạp và La-tinh. Vì thế các thượng tế đến thưa với Philatô:

S. Xin đừng viết “Vua dân Do Thái”, nhưng nên viết: “Người này đã nói: ‘Ta là vua dân Do-thái'”. C. Philatô đáp: S. “Điều ta đã viết là đã viết”. C. Khi quân lính đã đóng đinh Chúa Giêsu trên thập giá rồi thì họ lấy áo Người chia làm bốn phần cho mỗi người một phần, còn cái áo dài là áo không có đường khâu, đan liền từ trên xuống dưới. Họ bảo nhau: S. “Chúng ta đừng xé áo này, nhưng hãy rút thăm xem ai được thì lấy”. C. Hầu ứng nghiệm lời Kinh Thánh: “Chúng đã chia nhau các áo Ta và đã rút thăm áo dài của Ta”. Chính quân lính đã làm điều đó.

Đứng gần thập giá Chúa Giêsu, lúc đó có Mẹ Người, cùng với chị Mẹ Người là Maria, vợ ông Clopas và Maria Mađalêna. Khi thấy Mẹ và bên cạnh có môn đệ Người yêu, Chúa Giêsu thưa cùng Mẹ rằng: J. “Hỡi Bà, này là con Bà”. C. Rồi Người lại nói với môn đệ: J. “Này là Mẹ con”. C. Và từ giờ đó môn đệ đã lãnh nhận Bà về nhà mình. Sau đó, vì biết rằng mọi sự đã hoàn tất, để lời Kinh Thánh được ứng nghiệm, Chúa Giêsu nói: J. “Ta khát!” C. Ở đó có một bình đầy dấm. Họ liền lấy miếng bông biển thấm đầy dấm cắm vào đầu ngành cây hương thảo đưa lên miệng Người. Khi đã nếm dấm rồi, Chúa Giêsu nói: J. “Mọi sự đã hoàn tất”. C. Và Người gục đầu xuống trút hơi thở cuối cùng.

 

(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)

Hôm đó là ngày chuẩn bị lễ: để tội nhân khỏi treo trên thập giá trong ngày Sabbat, vì ngày Sabbat là ngày đại lễ, nên người Do-thái xin Philatô cho đánh dập ống chân tội nhân và cho cất xác xuống. Quân lính đến đánh dập ống chân của người thứ nhất và người thứ hai cùng chịu treo trên thập giá với Người. Nhưng lúc họ đến gần Chúa Giêsu, họ thấy Người đã chết, nên không đánh dập ống chân Người nữa, tuy nhiên một tên lính lấy giáo đâm cạnh sườn Người; tức thì máu cùng nước chảy ra. Kẻ đã xem thấy thì đã minh chứng, mà lời chứng của người đó chân thật, và người đó biết rằng mình nói thật để cho các người cũng tin nữa. Những sự việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh: “Người ta sẽ không đánh dập một cái xương nào của Người”. Lời Kinh Thánh khác rằng: “Họ sẽ nhìn xem Đấng họ đã đâm thâu qua”.

Sau đó, Giuse người xứ Arimathia, môn đệ Chúa Giêsu, nhưng thầm kín vì sợ người Do-thái, xin Philatô cho phép cất xác Chúa Giêsu. Philatô cho phép. Và ông đến cất xác Chúa Giêsu. Nicôđêmô cũng đến, ông là người trước kia đã đến gặp Chúa Giêsu ban đêm. Ông đem theo chừng một trăm cân mộc dược trộn lẫn với trầm hương. Họ lấy xác Chúa Giêsu và lấy khăn bọc lại cùng với thuốc thơm theo tục khâm liệm người Do-thái. Ở nơi Chúa chịu đóng đinh có cái vườn và trong vườn có một ngôi mộ mới, chưa chôn cất ai. Vì là ngày chuẩn bị lễ của người Do-thái và ngôi mộ lại rất gần, nên họ đã mai táng Chúa Giêsu trong mộ đó.

Suy niệm: Một cô bé tuổi mười lăm thắc mắc hỏi cha mình: ‘Cha ơi sao Chúa không chọn cách khác để cứu độ nhân loại, có nhiều cách mà phải không cha?’ Đúng là Chúa có nhiều cách cứu độ nhưng Ngài lại chọn cứu độ nhân loại bằng cách chịu đóng đinh trên thập giá, cách mà “người Do-thái coi là ô nhục, và dân ngoại coi là điên rồ” (1Cr 1,23), cách mà cả người môn đệ thân tín là Phê-rô cũng lên tiếng can ngăn Chúa (x. Mt 16,22). Chúng ta có thể hỏi nhiều câu hỏi tại sao như thế. Nhưng sẽ chỉ có một câu trả lời: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu” (Ga 15,13).

Mời Bạn: Tình yêu luôn có nhiều sáng kiến. Tình yêu Thiên Chúa thì vô biên, nên sáng kiến của tình yêu của Ngài cũng hết sức cao vời vượt quá điều chúng ta có thể tưởng nghĩ tới. Chương trình cứu độ bằng thập giá chính là sáng kiến tuyệt hảo nhất của Thiên Chúa để mặc khải tình yêu của Ngài cho chúng ta. Vì thế, tưởng niệm cuộc Thương Khó của Chúa không chỉ là than khóc vì những nỗi thống khổ, đau đớn Ngài phải chịu. Trái lại chúng ta suy tôn sáng kiến tình yêu của Thiên Chúa cho Con Một Ngài hiến thân chịu đóng đinh, chịu chết để cứu độ chúng ta. Và chúng ta đồng cảm với Chúa, cùng vác thánh giá với Ngài thay vì tiếp tục đóng đinh Chúa bằng những tội lỗi của chúng ta.

Sống Lời Chúa: Mỗi lần xưng tội, bạn quyết tâm dứt khoát chừa bỏ tội lỗi và đền bù bằng đời sống bác ái.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, đã chịu đóng đinh thập giá để cứu độ chúng con. Xin cho con vác thập giá mình đi theo Chúa để đáp đền tình yêu ấy. Amen.

17/04 – THỨ NĂM TUẦN THÁNH. THÁNH LỄ TIỆC LY.

“Ngài yêu thương họ đến cùng”.

Lời Chúa: Ga 13, 1-15

Trước ngày Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết đã đến giờ Mình phải bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha, Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến cùng. Sau bữa ăn tối, ma quỷ gieo vào lòng Giuđa Iscariô, con Simon, ý định nộp Người. Người biết rằng Chúa Cha đã trao phó mọi sự trong tay mình, và vì Người bởi Thiên Chúa mà đến và sẽ trở về cùng Thiên Chúa.

Người chỗi dậy, cởi áo, lấy khăn thắt lưng, rồi đổ nước vào chậu; Người liền rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. Vậy Người đến chỗ Simon Phêrô, ông này thưa Người rằng: “Lạy Thầy, Thầy định rửa chân cho con ư?” Chúa Giêsu đáp: “Việc Thầy làm bây giờ con chưa hiểu, nhưng sau sẽ hiểu”. Phêrô thưa lại: “Không đời nào Thầy sẽ rửa chân cho con”. Chúa Giêsu bảo: “Nếu Thầy không rửa chân cho con, con sẽ không được dự phần với Thầy”. Phêrô liền thưa: “Vậy xin Thầy hãy rửa không những chân con, mà cả tay và đầu nữa”. Chúa Giêsu nói: “Kẻ mới tắm rồi chỉ cần rửa chân, vì cả mình đã sạch. Tuy các con đã sạch, nhưng không phải hết thảy đâu”. Vì Người biết ai sẽ nộp Người nên mới nói: “Không phải tất cả các con đều sạch đâu”.

Sau khi đã rửa chân cho các ông, Người mặc áo lại, và khi đã trở về chỗ cũ, Người nói: “Các con có hiểu biết việc Thầy vừa làm cho các con chăng? Các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm, vì đúng thật Thầy như vậy. Vậy nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau. Vì Thầy đã làm gương cho các con để các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con”.

Suy niệm: Ở miền Cận Đông thời Chúa Giê-su, tại các bữa tiệc, người ta nằm nghiêng trên các ‘giường tiệc’ để vừa với bàn tiệc rất thấp. Tư thế đó khiến đôi chân lộ rõ trên giường ăn. Chính vì thế, buộc phải rửa chân cho sạch những bụi bặm dính vào khi đi đường. Nhưng rửa chân là công việc của đầy tớ, của nô lệ. Thế nên các môn đệ hết sức sững sờ khi Đức Giê-su cúi xuống rửa chân cho họ. Dù Phê-rô vẫn cố phản kháng, không để Thầy rửa chân mình, nhưng Chúa cho biết đó là điều kiện để được “dự phần” với Chúa; điều kiện đó lại kéo theo một yêu cầu: các môn đệ của Ngài cũng phải noi gương Thầy mà phục vụ lẫn nhau: “Anh em cũng phải rửa chân cho nhau”.

Bạn thân mến, Thầy Giê-su đã làm một hành vi thật ấn tượng và lại kèm theo một lệnh truyền không thể hiểu khác: “Anh em cũng phải rửa chân cho nhau”. Phải chăng chúng ta một khi đã nhận mình là môn đệ của Chúa thì nhất định phải “rửa chân” nghĩa là phải phục vụ anh em? Địa vị của bạn trong xã hội hay cộng đoàn càng cao thì càng phải đặt mình trong tư thế tôi tớ khiêm tốn, để phục vụ cả trong những việc nhỏ bé, âm thầm, tầm thường nhất. Rửa chân cho nhau cũng là quan tâm chia sẻ, không từ nan trước khó khăn, đau khổ của người khác. Bạn nhớ “khiêm nhường phục vụ không làm mình hèn kém, mà giúp mình trở nên giống Chúa hơn.”

Sống Lời Chúa: Mỗi ngày làm ít là một việc phục vụ nhỏ bé, âm thầm, dù người khác có biết hay không.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, chúng con cảm tạ Chúa vì tình yêu khiêm nhường của Chúa. Xin giúp chúng con biết yêu thương và khiêm nhường phục vụ người khác như Chúa đã dạy. Amen.

 

16/04 – THỨ TƯ TUẦN THÁNH.

“Con Người ra đi như đã được ghi chép sẵn từ trước, nhưng khốn thay cho kẻ sẽ làm cho Ngài bị phản nộp”.

Lời Chúa: Mt 26, 14-25

Khi ấy, một trong nhóm Mười Hai tên là Giuđa Iscariô, đi gặp các thượng tế và thưa với họ: “Các ông cho tôi bao nhiêu, tôi nộp Người cho các ông?” Họ liền ấn định cho ba mươi đồng bạc. Và từ đó, hắn tìm dịp thuận tiện để nộp Người.

Ngày thứ nhất trong tuần lễ ăn Bánh không men, các môn đệ đến thưa Chúa Giêsu rằng: “Thầy muốn chúng con sửa soạn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua ở đâu?” Chúa Giêsu đáp: “Các con hãy vào thành đến với một người kia, và nói rằng: Thầy bảo, giờ Ta đã gần, Ta sẽ mừng Lễ Vượt Qua với các môn đệ tại nhà ông”. Các môn đệ làm như Chúa Giêsu đã truyền và sửa soạn Lễ Vượt Qua.

Chiều đến, Người ngồi bàn ăn với mười hai môn đệ. Và khi các ông đang ăn, Người nói: “Thầy nói thật với các con: có một người trong các con sẽ nộp Thầy”. Môn đệ rất buồn rầu và từng người bắt đầu hỏi Người: “Thưa Thầy, có phải con không?” Người trả lời: “Kẻ giơ tay cùng chấm vào đĩa với Thầy, đó chính là kẻ sẽ nộp Thầy. Thật ra, Con Người sẽ ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nộp Con Người, thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn!”

Giuđa kẻ phản bội cũng thưa Người rằng: “Thưa Thầy, có phải con chăng?” Chúa đáp: “Ðúng như con nói”.

Suy niệm: Có người thắc mắc tại sao Chúa biết trước Giu-đa sẽ phản bội mà không ngăn cản để ông khỏi phạm tội ác. Tin Mừng Mát-thêu hôm nay cho biết khi Giu-đa giả ngây cố tỏ vẻ vô tội hỏi Chúa: “Chẳng lẽ con sao?” Ngài đã nói không thể rõ hơn để cảnh tỉnh ông: “Chính con nói đó.” Chúa nhẹ nhàng kín đáo tỏ cho Giu-đa biết Ngài thấu suốt âm mưu phản bội của ông để mở cho ông cơ hội hoán cải. Chúa vẫn rửa chân cho ông như một cử chỉ yêu thương tột cùng, đánh động tâm hồn, hối thúc ông từ bỏ ý định đen tối. Đến giây phút cuối cùng trong vườn Cây Dầu, Chúa vẫn nhẹ nhàng: “Giu-đa ơi! Anh dùng cái hôn mà nộp Con Người sao?” (Lc 22,48). Chúa vẫn bao dung và nhẫn nại ngay cả khi đối diện sự phản bội đau đớn nhất; Ngài cho biết đối với Ngài, sám hối trở về không bao giờ là quá muộn.

Mời Bạn: Chúa Giê-su cho thấy Ngài luôn yêu thương con người, ngay cả khi họ phản bội Ngài. Như người cha nhân hậu, Chúa luôn mở rộng đôi tay ôm lấy người con sám hối trở về. Giu-đa vẫn được Chúa yêu thương tha thứ nếu ông thực lòng thống hối ăn năn. Điều này nhắc nhở chúng ta rằng, dù có phạm tội thế nào, chỉ cần biết quay về, lòng thương xót Chúa vẫn chờ đón chúng ta.

Sống Lời Chúa: Bạn cầu nguyện cho những người đang sống trong tội lỗi, thất vọng về bản thân, mất lòng trông cậy nơi Chúa được ơn sám hối trở về. Và bạn luôn sẵn sàng, quảng đại tha thứ cho anh chị em xúc phạm tới mình.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin dạy chúng con biết yêu thương như Chúa, là yêu cả kẻ thù, là yêu đến mức dám hiến thân mình vì anh em. Amen.

15/04 – THỨ BA TUẦN THÁNH.

“Một người trong các con sẽ nộp Thầy… Trước khi gà gáy con đã chối Thầy ba lần”.

Lời Chúa: Ga 13, 21-33. 36-38

Khi ấy, (Chúa Giêsu đang ngồi ăn với các môn đệ), tâm hồn Người bị xao xuyến, nên Người tuyên bố: “Thật, Thầy nói thật cho các con biết, một người trong các con sẽ nộp Thầy”.

Các môn đệ nhìn nhau phân vân không biết Người nói về ai. Có một môn đệ được Chúa Giêsu yêu quý, đang ở bàn ăn gần lòng Chúa Giêsu. Vậy Phêrô làm hiệu cho môn đệ ấy và nói: “Hỏi xem Thầy nói về ai đó”. Môn đệ ấy nghiêng mình sát ngực Chúa Giêsu và hỏi Người: “Thưa Thầy, ai vậy?”

Chúa Giêsu trả lời: “Thầy chấm miếng bánh trao cho ai là người đó”. Và Người chấm một miếng bánh trao cho Giuđa, con Simon Iscariô. Ăn miếng bánh rồi, Satan nhập vào hắn. Chúa Giêsu nói với hắn: “Con tính làm gì thì làm mau đi”. Nhưng những người đang ngồi ăn không một ai hiểu được vì sao Người lại nói với hắn như vậy. Có nhiều người tưởng tại Giuđa giữ túi tiền, nên Chúa Giêsu bảo hắn: Hãy mua những gì chúng ta cần dùng trong dịp lễ, hoặc Người bảo hắn bố thí cho người nghèo. Vậy sau khi nhận miếng bánh đó, Giuđa liền đi ra. Bấy giờ là đêm tối.

Khi Giuđa đi rồi, Chúa Giêsu phán: “Bây giờ Con Người được vinh hiển, và Thiên Chúa đã được vinh hiển nơi Người. Nếu Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người, thì Thiên Chúa lại cho Người được vinh hiển nơi chính Mình, và Thiên Chúa sẽ cho Người được vinh hiển! Các con yêu quý, Thầy chỉ còn ở với các con một ít nữa. Các con sẽ tìm Thầy, và như Thầy đã nói với người Do-thái: “Nơi Ta đi, các ngươi không thể đến được”, nay Thầy cũng nói với các con như vậy”.

Simon Phêrô hỏi Người: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu?” Chúa Giêsu trả lời: “Nơi Thầy đi, nay con chưa thể theo tới đó được, nhưng sau này con sẽ theo Thầy”.

Phêrô thưa lại: “Tại sao con lại không theo Thầy ngay bây giờ được! Con sẽ liều mạng sống con vì Thầy”. Chúa Giêsu nói: “Con liều mạng sống vì Thầy ư? Thật, Thầy nói thật cho con biết: trước khi gà gáy, con đã chối Thầy ba lần”.

Suy niệm: Có những thí sinh được tôn vinh nhờ đạt được kết quả xuất sắc trong kỳ thi. Cũng có những vận động viên được tôn vinh khi đăng quang ngôi vô địch trong các cuộc thi đấu. Tổ quốc cũng tôn vinh những chiến sĩ lập được những chiến công anh hùng. Nhiều người muốn tôn Đức Giê-su làm vua sau khi Ngài phép lạ hoá bánh ra nhiều. Chí ít họ cũng có dịp tung hô Chúa là vua khi Ngài công khai tiến vào thành thánh Giê-ru-sa-lem ít ngày trước lễ Vượt Qua (Ga 12,12-14). Nhưng với Đức Ki-tô, lúc Ngài được tôn vinh thực sự và Thiên Chúa, Cha của Ngài cũng được tôn vinh chính là lúc Giu-đa rời phòng Tiệc Ly đi cấu kết với người Do Thái để nộp Ngài, lúc đó Chúa nói: “Giờ đây, Con Người được tôn vinh”. Giờ Chúa được tôn vinh là lúc cuộc Thương Khó, cuộc chiến cuối cùng, bắt đầu.

Mời Bạn: Được tôn vinh, theo Chúa Giê-su, không phải là lập được thành tích xuất sắc, được số đông thán phục, mà là được Chúa Cha tôn vinh vì đã hoàn thành chương trình cứu độ của Ngài trong yêu mến vâng phục. Là môn đệ Chúa, chúng ta được mời gọi trở nên chứng nhân của tình yêu, để Thiên Chúa được tôn vinh, và nhờ đó, chúng ta cũng được Thiên Chúa tôn vinh.

Sống Lời Chúa: Dâng một việc hy sinh để cầu nguyện cho những ai không có thiện cảm về mình.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã hạ mình, chịu đóng đinh, chịu chết để cứu độ chúng con. Xin cho chúng con biết khiêm nhường phục vụ tha nhân để mai ngày, chúng con được chung hưởng vinh quang phục sinh với Chúa. Amen.

14/04 – THỨ HAI TUẦN THÁNH.

“Hãy để mặc cô ấy làm công việc chỉ về ngày táng xác Ta”.

Lời Chúa: Ga 12, 1-11

Sáu ngày trước Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu đến làng Bêtania, nơi Ladarô đã chết được Người cho sống lại. Tại đây người ta dọn bữa cho Người ăn. Martha hầu bàn. Còn Ladarô cũng là một trong những kẻ đồng bàn với Người. Bấy giờ Maria lấy một cân dầu thơm, dầu cam tùng hảo hạng, và xức chân Chúa Giêsu, rồi lấy tóc mình mà lau. Hương thơm toả đầy nhà.

Một môn đệ là Giuđa Iscariô, kẻ sẽ phản nộp Người, liền nói: “Sao không bán dầu thơm đó lấy ba trăm đồng mà cho người nghèo khó?” Hắn nói thế không phải vì lo lắng cho người nghèo khó đâu, mà vì hắn là tên trộm cắp, lại được giữ túi tiền, nên bớt xén các khoản tiền người ta bỏ vào đó. Vậy Chúa Giêsu nói: “Hãy để mặc cô ấy làm công việc chỉ về ngày táng xác Ta. Vì các ngươi sẽ có người nghèo luôn bên cạnh các ngươi, còn Ta, các ngươi sẽ không gặp Ta mãi đâu”.

Có đám đông người Do-thái biết Người đang ở đó, nên tuôn đến, không những vì Chúa Giêsu, mà còn để thấy Ladarô, kẻ đã chết được Người cho sống lại.

Thế là các Thượng tế quyết định giết luôn cả Ladarô, vì tại ông mà nhiều người Do-thái đã bỏ họ và tin theo Chúa Giêsu.

Suy niệm: Sáu ngày trước lễ Vượt Qua, Chúa Giê-su đến nhà ba chị em Mác-ta, Ma-ri-a và La-da-rô tại Bê-ta-ni-a. Giữa bầu khí thù địch khi mà giới chức lãnh đạo Do Thái đang tìm giết Ngài, gia đình cô Mác-ta lại đón tiếp Chúa thật trọng hậu và trân quý. Hơn thế nữa, trong bữa ăn, cô Ma-ri-a quỳ xuống, dùng một bình dầu thơm hảo hạng chỉ để xức chân Chúa, rồi lấy tóc mình lau chân Ngài. Nghĩa cử cực kỳ hào phóng khi cô hiến dâng cho Chúa những gì là quý giá nhất đó, không chỉ nói lên lòng kính mến vô bờ cô dành cho Ngài, mà Chúa còn cho biết, đó chính là hành vi mang tính ngôn sứ, “dành cho ngày mai táng Chúa”, hành vi suy tôn cuộc khổ nạn Ngài sắp chịu để cứu độ trần gian.

Mời Bạn: Với trào lưu tục hoá và não trạng ‘có thực mới vực được đạo’, nhiều Ki-tô hữu coi những việc đạo đức như cầu nguyện, thờ phượng… là vô bổ và tốn thời gian, họ chỉ ‘giữ đạo’ ở mức tối thiểu. Trong mùa Chay, có rất nhiều thực hành đạo đức như ăn chay, kiêng thịt, gẫm Đàng Thánh Giá, ngắm 15 Sự Thương Khó (Lễ Đèn)… cùng với những cử hành trọng thể như Đêm Thánh Vượt Qua. Tham dự những cử hành đó cách quảng đại với lòng sốt sắng kính mến Chúa chính là để đồng cảm và thông phần cuộc khổ nạn cứu độ với Ngài.

Sống Lời Chúa: Tôi cố gắng thu xếp công việc để tham dự đầy đủ các cử hành Tuần Thánh tại giáo xứ.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su. Xin cho con cảm nhận được tình yêu Chúa dành cho con trong cuộc Thương khó để con sẵn sàng đón nhận đau khổ và cùng thông phần khổ nạn với Chúa. Amen.

 

13/04 – CHÚA NHẬT LỄ LÁ Năm C.

“Sự Thương Khó Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”.

Bài Thương Khó: Lc 22,14-23,56 (bài dài)

“Sự Thương Khó Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”.

C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn. J: Chúa Giêsu

C. Bài Thương Khó Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Luca.

Đến giờ, Chúa Giêsu vào bàn ăn với mười hai tông đồ và bảo các ông: J. “Thầy đã tha thiết ước ao ăn Lễ Vượt Qua này với các con trước khi chịu khổ nạn. Thầy bảo các con, Thầy sẽ chẳng bao giờ ăn lễ này nữa, cho đến khi lễ này được thực hiện trong nước Thiên Chúa”. C. Rồi Người cầm chén, tạ ơn và phán: J. “Các con hãy lãnh nhận chén này mà chia cho nhau: Thầy bảo cho các con biết: Thầy sẽ không uống thứ nho này nữa cho đến khi nước Thiên Chúa đến!” C. Đoạn Người cầm bánh và tạ ơn, bẻ ra và trao cho các ông mà phán: J. “Này là Mình Ta hiến ban vì các con, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta”. C. Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén mà phán: J. “Chén này là Tân ước trong Máu Ta sẽ đổ ra vì các con. Vả lại này tay kẻ nộp Ta đang ở gần Ta, ngay trên bàn này. Đành rằng Con Người sẽ ra đi như đã được ấn định, nhưng vô phúc cho kẻ nộp Người!” C. Bấy giờ các ông bắt đầu hỏi nhau xem ai trong nhóm họ là kẻ làm điều đó. Giữa các ông cũng xảy ra một cuộc tranh giành xem ai trong họ được coi là cao trọng hơn hết. Nhưng Người bảo: J. “Vua chúa các dân ngoại thì thống trị dân, và những kẻ có quyền hành trên dân thì bắt dân gọi mình là ân nhân. Phần các con, thì không như thế, vì ai cao trọng hơn các con thì hãy trở thành như người nhỏ nhất, và kẻ làm đầu, hãy trở thành như người hầu bàn. Vì người ngồi ăn và kẻ hầu hạ, ai trọng hơn, nào chẳng phải là người ngồi ăn ư? Thế mà Thầy, Thầy ở giữa các con như người hầu hạ. Còn các con, các con đã kiên trì với Thầy trong các cơn gian nan của Thầy, và Thầy xếp đặt nước trời cho các con như Cha Thầy đã xếp đặt cho Thầy, để các con sẽ được ăn uống đồng bàn trong nước Thầy, và được ngồi trên toà xét xử mười hai chi tộc Israel!” C. Rồi Chúa nói: J. “Simon, Simon, này ma quỷ đã đòi sàng các con như sàng gạo, nhưng Ta đã cầu nguyện để con khỏi mất đức tin. Và phần con, khi đã trở lại, con hãy làm cho anh em con vững tin”. C. Ông thưa Người: S. “Lạy Thầy, con sẵn sàng theo Thầy, dù vào tù hay đi chịu chết”. C. Nhưng Người đáp: J. “Phêrô, Thầy bảo cho con biết: hôm nay khi gà chưa gáy, con đã chối rằng không biết Thầy”. C. Và Người bảo các ông: J. “Khi Thầy sai các con đi không mang theo túi tiền, không bị, không giày dép, nào các con có thiếu thốn sự gì không?” C. Các ông thưa: S. “Không thiếu gì cả”. C. Vậy Người nói: J. “Nhưng bây giờ ai có túi tiền, hãy cầm lấy, ai có bị, cũng hãy làm như vậy, và ai không có gươm, thì hãy bán áo choàng mình mà mua lấy gươm. Vì Thầy bảo các con hay: còn điều này chép về Thầy cũng cần phải được ứng nghiệm: “Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác”. Vì mọi điều đã chép về Thầy phải được hoàn tất”. C. Các ông thưa Người: S. “Thưa Thầy, này có hai thanh gươm đây”. C. Và Người bảo: J. “Đủ rồi”. C. Đoạn Người ra đi lên núi cây ôliu như thường lệ. Các môn đệ cũng đi theo Người. Đến nơi, Người bảo các ông: J. “Các con hãy cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ”. C. Rồi Người đi xa các ông một quãng bằng ném một hòn đá và quỳ gối cầu nguyện rằng: J. “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin Cha cất chén này xa con. Nhưng xin đừng theo ý con muốn, một theo ý Cha”. C. Bấy giờ có thiên thần từ trời hiện ra an ủi Người. Và lâm cơn hấp hối, Người cầu nguyện thiết tha hơn, và mồ hôi Người chảy ra như những giọt máu rơi xuống đất. Cầu nguyện xong, Người đứng dậy, trở lại chỗ các môn đệ, và thấy các ông còn đang ngủ vì buồn sầu. Người liền bảo: J. “Các con ngủ ư? Hãy dậy và cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ”. C. Người còn đang nói, thì này đây một lũ đông, và một người trong nhóm Mười Hai là Giuđa dẫn đầu. Hắn lại gần Chúa Giêsu để hôn Người. Chúa Giêsu bảo hắn: J. “Giuđa, ngươi lấy cái hôn để nộp Con Người ư?” C. Thấy các sự sắp xảy ra, những kẻ đứng chung quanh Người liền hỏi: S. “Thưa Thầy, chúng con có nên dùng gươm mà chém không?” C. Và một người trong các ông chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt tai phải. Nhưng Chúa Giêsu lên tiếng bảo: J. “Thôi, đủ rồi”. C. Và Người sờ vào tai người đầy tớ ấy mà chữa cho y lành lại. Rồi Chúa Giêsu bảo các kẻ đến bắt Người gồm các thượng tế, trưởng vệ binh đền thờ và kỳ lão rằng: J. “Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp ư? Hằng ngày Ta ngồi trong đền thờ giữa các ngươi mà các ngươi không bắt Ta. Nhưng đây là giờ của các ngươi và của quyền lực tối tăm”. C. Chúng liền bắt Người và điệu tới nhà thầy thượng tế. Còn Phêrô đi theo xa xa. Họ đốt lửa ngay giữa sân và ngồi vòng quanh, Phêrô cũng ngồi lẫn với họ. Một đứa đầy tớ gái thấy ông ngồi gần lửa, thì nhìn kỹ ông và bảo: S. “Cả ông này cũng theo hắn”. C. Nhưng ông chối và nói: S. “Này chị, tôi đâu quen biết người ấy”. C. Một lát sau, có người khác nhìn ông và nói: S. “Chính ông cũng là người trong bọn đó”. C. Nhưng Phêrô đáp: S. “Này anh, đâu có phải tôi”. C. Chừng một giờ sau, một người khác lại quả quyết rằng: S. “Đúng ông này cũng theo người ấy: vì ông ta cũng là người xứ Galilêa”. C. Phêrô đáp: S. “Này anh, tôi không biết anh muốn nói gì?” C. Khi ông còn đang nói, thì lập tức gà liền gáy. Chúa Giêsu quay lại nhìn Phêrô. Bấy giờ Phêrô mới sực nhớ lời Chúa đã bảo ông trước: Khi gà gáy, con đã chối Thầy ba lần. Phêrô liền ra ngoài và khóc lóc thảm thiết. Những kẻ canh giữ người, nhạo cười và đánh đập Người. Chúng che mặt Người, vả mặt mà hỏi Người rằng: S. “Hãy đoán xem ai đánh ngươi đó”. C. Và chúng còn thốt ra nhiều lời khác nhục mạ Người. Vừa sáng ngày, các kỳ lão trong dân, các thượng tế và các luật sĩ hội lại và cho điệu Người ra trước công nghị mà nói: S. “Nếu ông là Đấng Kitô, hãy nói cho chúng tôi hay”. C. Người trả lời: J. “Tôi có nói, các ông cũng chẳng tin tôi, và nếu tôi có hỏi, các ông cũng chẳng trả lời và cũng chẳng tha tôi. Nhưng từ giờ đây, Con Người sẽ ngự bên hữu Thiên Chúa toàn năng”. C. Mọi người đều hỏi lại: S. “Vậy ông là Con Thiên Chúa ư?” C. Người đáp: J. “Các ông nói đúng, Ta là Con Thiên Chúa”. C. Bấy giờ họ nói: S. “Chúng ta còn cần chứng cớ chi nữa? Vì chính chúng ta cũng nghe y nói”. C. Đoạn tất cả bọn họ đứng dậy và giải Người đến Philatô. Họ bắt đầu tố cáo Người rằng: S. “Chúng tôi đã thấy người này xúi giục dân nổi loạn, ngăn cản nộp thuế cho Cêsarê, và còn tự xưng là Kitô Vua”. C. Philatô bảo các thượng tế và đám đông rằng: S. “Ta không thấy người này có tội gì”. C. Nhưng họ cố nài rằng: S. “Người này đã làm náo động dân chúng, giảng dạy khắp xứ Giuđêa, bắt đầu từ Galilêa đến đây”. C. Philatô vừa nghe nói đến Galilêa, liền hỏi cho biết có phải đương sự là người xứ Galilêa không. Và khi đã biết Người thuộc thẩm quyền Hêrôđê, quan liền sai giải Người cho Hêrôđê cũng có mặt tại Giêrusalem trong những ngày ấy. Hêrôđê thấy Chúa Giêsu thì mừng rỡ lắm, vì từ lâu, ông ao ước thấy Người, bởi đã nghe nói về Người rất nhiều, và hy vọng xem Người làm một vài phép lạ. Nhà vua hỏi Người rất nhiều lời, nhưng Người không đáp gì hết. Trong khi ấy, các thượng tế và luật sĩ ở đó tố cáo Người dữ dội. Còn Hêrôđê cùng các quan lính thì khinh dể và nhạo báng Người, đoạn khoác cho Người một cái áo choàng trắng và gởi trả Người cho Philatô. Chính ngày đó, Hêrôđê và Philatô trở thành bạn hữu, vì trước kia họ là thù địch với nhau. Bấy giờ Philatô triệu tập các thượng tế, các thủ lãnh và dân chúng lại, rồi bảo họ: S. “Các ngươi đã nộp cho ta người này như một kẻ xúi giục dân làm loạn, nhưng đây ta đã tra xét trước mặt các ngươi, và ta không thấy người này phạm tội nào trong những tội các ngươi tố cáo. Cả vua Hêrôđê cũng thấy như vậy, vì ta đã cử các ngươi đến nhà vua và nhà vua cũng không thấy có chi đáng tội chết cả. Vậy ta sẽ cho sửa phạt, rồi tha đi”.

C. Mỗi dịp lễ, quan tổng trấn phải phóng thích cho họ một người tù. Vậy toàn dân đồng thanh kêu lên: S. “Hãy giết người này, và tha Baraba cho chúng tôi”. C. Tên này vì dấy loạn trong thành và giết người, nên đã bị tống ngục. Nhưng Philatô muốn tha Chúa Giêsu, nên lại nói với dân chúng. Nhưng chúng càng la to hơn và nói: S. “Hãy đóng đinh nó, hãy đóng đinh nó vào thập giá!” C. Lần thứ ba, quan lại nói với dân chúng: S. “Người này đã làm gì xấu? Ta không thấy nơi ông ấy có lý do để lên án tử hình. Vậy ta sẽ trừng phạt, rồi tha đi”. C. Chúng lại la lớn tiếng, nhất định đòi đóng đinh Người vào thập giá, và tiếng la hét của chúng càng dữ dội hơn. Philatô liền tuyên án theo lời chúng yêu cầu. Vậy quan phóng thích tên đã bị cầm tù vì dấy loạn và giết người, là kẻ mà chúng đã xin tha, còn Chúa Giêsu thì quan trao phó để mặc ý chúng.

Khi điệu Người đi, chúng bắt một người xứ Xyrênê, tên Simon, ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác thập giá theo sau Chúa Giêsu. Đám đông dân chúng theo Người, có cả mấy người phụ nữ khóc thương Người. Nhưng Chúa Giêsu ngoảnh mặt lại bảo họ rằng: J. “Hỡi con gái Giêrusalem, đừng khóc thương Ta, hãy khóc thương chính các ngươi và con cái các ngươi. Vì này, sắp đến ngày người ta sẽ than rằng: “Phúc cho người son sẻ, phúc cho những lòng không sinh nở và những vú không nuôi con”. Bấy giờ người ta sẽ lên tiếng với núi non rằng: “Hãy đổ xuống đè chúng tôi”, và nói với các gò nổng rằng: “Hãy che lấp chúng tôi đi”. Vì nếu cây tươi còn bị xử như vậy, thì gỗ khô sẽ ra sao?” C. Cùng với Người, chúng còn điệu hai tên gian ác nữa đi xử tử. Khi đã đến nơi gọi là Núi Sọ, chúng đóng đinh Người vào thập giá cùng với hai tên trộm cướp, một đứa bên hữu và một đứa bên tả Người. Bấy giờ Chúa Giêsu than thở rằng: J. “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”. C. Rồi chúng rút thăm mà chia nhau áo Người. Dân chúng đứng đó nhìn xem, và các thủ lãnh thì cười nhạo Người mà rằng: S. “Nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi, nếu nó thật là Đấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn”. C. Quân lính đều chế diễu Người và đưa dấm cho Người uống và nói: S. “Nếu ông là vua dân Do-thái, ông hãy tự cứu mình đi”.

C. Phía trên đầu Người có tấm bảng đề chữ Hy-lạp, La-tinh và Do-thái như sau: “Người này là vua dân Do-thái”. Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục Người rằng: S. “Nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa”. C. Đối lại, tên kia mắng nó rằng: S. “Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao. Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã làm, còn Ông này, Ông có làm gì xấu đâu?” C. Và anh ta thưa Chúa Giêsu rằng: S. “Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi”. C. Chúa Giêsu đáp: J. “Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”. C. Lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu, tối tăm liền bao trùm cả mặt đất cho đến giờ thứ chín. Mặt trời trở nên u ám, màn trong đền thờ xé ra làm đôi ngay chính giữa. Lúc đó Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng: J. “Lạy Cha, Con phó linh hồn Con trong tay Cha”. C. Nói đoạn, Người trút hơi thở.

(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)

Thấy sự việc xảy ra, viên sĩ quan ca tụng Thiên Chúa rằng: S. “Ông này quả thật là người công chính”. C. Và tất cả dân chúng có mặt thấy cảnh tượng đó, và chứng kiến những sự việc xảy ra, liền đấm ngực trở về.

Đứng xa xa, có những kẻ quen biết Người, và mấy phụ nữ đi theo Người từ xứ Galilêa, họ cũng chứng kiến. Tuy nhiên, có một công nghị viên tên là Giuse, người tốt lành và công chính. Ông này đã không đồng ý với mưu toan và hành động của các công nghị viên khác, ông quê ở thành Arimathia trong xứ Giuđêa, chính ông cũng trông đợi nước Chúa. Ông đến gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Đoạn ông hạ xác Người xuống, liệm trong khăn và táng trong mồ đã đục sẵn, nơi chưa táng xác ai. Hôm đó là ngày chuẩn bị và sắp bước sang ngày Sabbat. Trong khi đó, những người phụ nữ đã đi với Người từ xứ Galilêa, cũng theo đến xem mồ và xác Người được táng như thế nào. Rồi các bà về sửa soạn thuốc thơm và dầu thơm. Nhưng trong ngày Sabbat, các bà nghỉ theo đúng luật.

Suy niệm: Trong cuốn “Cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su theo nhà phẫu thuật”, bác sĩ Barbet đã mô tả chi tiết những đau khổ thể lý của Chúa Giê-su và kết thúc bằng câu: “Thưa bạn độc giả, ta hãy cám ơn Chúa đã cho tôi có sức viết đến chữ cuối cùng, trong chan hoà nước mắt”. Nhà phẫu thuật nổi tiếng xúc động sâu sắc trước những đau đớn trên thân xác Chúa Giê-su: đổ mồ hôi máu, chịu đánh đòn, đội mão gai, vác thập giá, chịu đóng đinh, bị ngạt thở… Tuy nhiên, đừng quên rằng Ngài còn phải chịu nhiều nỗi đau nơi tâm hồn: bị Giu-đa phản bội, Phêrô chối bỏ, bị vu khống, chê cười, hạ nhục, thách thức… Thế nhưng, đối diện với lửa thù hừng hực, với phản bội chối từ, Ngài vẫn toả ra ánh sáng của lòng thương xót: chữa tai người lính, nhìn Phê-rô giúp ông sám hối, xin Chúa Cha tha cho kẻ giết hại mình, hứa thiên đàng cho người trộm hối cải… Không đau khổ nào có thể làm thay đổi lòng nhân hậu nơi Ngài.

Mời Bạn: Hãy chậm rãi đi với Chúa Giê-su trên từng chặng đường Khổ nạn, từ Vườn Dầu đến Núi Sọ, từ những khổ đau thể lý đến những nỗi đau sâu kín nơi quả tim Con Thiên Chúa, và mặc lấy tâm tình nhân hậu của Ngài.

Sống Lời Chúa: Trong Tuần Thánh này, tôi sẽ dâng những hy sinh hãm mình qua thái độ cư xử dịu dàng, hiền hoà với người chung quanh.

Cầu nguyện: Quỳ gối sốt sắng đọc kinh Lạy hồn Chúa Giê-su: Lạy hồn Chúa Ki-tô, xin thánh hóa con. Lạy xác thánh Chúa Ki-tô, xin cứu độ con. Lạy máu thánh Chúa Ki-tô, xin cho con say mến. Lạy nước bởi cạnh sườn Chúa Ki-tô, xin thêm sức cho con. Amen.