Chắc hẳn nhiều người đã có lần được nghe một bài hát rất quen thuộc. Đó là “Bài ca cây lúa”. Bài hát này có một câu rất hay. Câu ấy là“Ngày mai đang bắt đầu từ ngày hôm nay”. Trong ca dao, tục ngữ Việt Nam chúng ta cũng bắt gặp nhiều tư tưởng đề cao giá trị của thời phút hiện tại, cái “hôm nay” của cuộc sống. Đặc biệt trong các sách Tin Mừng Chúa Giêsu cũng đã nhiều lần dùng “thì hiện tại” trong các cuộc đối thoại của Ngài: “Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà quý vị vừa nghe” (Lc 4,21), “Hôm nay nhà này được ơn cứu độ” (Lc 19,9), “Hôm nay và ngày mai tôi trừ quỷ và chữa lành bệnh tật, ngày thứ ba tôi hoàn tất” (Lc 13,32). “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” (Lc 23,43). Vậy giá trị của cái hôm nay quan trọng như thế nào cho chúng ta?

Hôm qua là lịch sử, ngày mai thì bí ẩn chỉ có hôm nay là quà tặng, quà tặng của cuộc sống. Cuộc sống người Kitô hữu của chúng ta cũng thế, Chúa vẫn hằng đến với chúng ta hằng ngày và đặc biệt trong ngày hôm nay của cuộc sống. Trong bài Tin Mừng chúng ta nghe hôm nay, sau khi Chúa Giêsu đọc đoạn sách Tiên Tri Isaia thì Ngài nói “Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà quý vị vừa nghe” (Lc 4,21). Ứng nghiệm là ứng nghiệm cái gì? Thưa là ứng nghiệm lời tiên tri Isaia loan báo ngay chính lúc này, chính ngày hôm nay. Chúa Giêsu nhận mình là người mà Tiên Tri Isaia loan báo, là người được xức dầu, để loan báo Tin Mừng cho người nghèo hèn, công bố cho người bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức và công bố năm hồng ân của Thiên Chúa.

Đối với Thiên Chúa không có quá khứ cũng chẳng có tương lai mà mọi sự chỉ toàn là hiện tại. Qua mỗi trang Tin Mừng ta dễ thấy nếu ai biết nhận ra Chúa đến với họ và họ biết nhanh chóng đón Chúa, thì họ như được tất cả những điều Thiên Chúa ban cho, còn ai cứ ngập ngừng, thì Chúa kể như “Đồ ngốc” và họ sẽ bị vuột mất mọi thứ.

Đơn cử như trường hợp Giakêu, ông nghe biết Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrikhô thì ông đã phải vượt qua những rào cản hữu hình cũng như vô hình, từ những khiếm khuyết thể lý cho đến những khiếm khuyết luân lý. Ông vượt qua tất cả. Chúa Giêsu thấy sự nỗ lực của ông và Chúa đã đáp lại hơn cả những gì ông mong đợi. Chúa còn ban ơn cứu độ cho gia đình ông: “Hôm nay nhà này được ơn cứu độ…“(Lc 19,6).Về phía Giakêu sau khi đón nhận Chúa vào nhà mình, ông đã biến đổi: từ một con người coi tiền tài danh vọng là tất cả mọi sự, thì nay ông nhận ra Chúa và ơn cứu rỗi của Người mới là cùng đích đời, nên ông nói “Này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo, và nếu tôi cưỡng đoạt của ai cái gì, thì tôi xin đền gấp bốn” (Lc 19,8). Rõ ràng khi Giakêu thấy Chúa Giêsu thì ông không chần chừ, lần nữa mà ông đón Chúa vào nhà mình và ông nhận được ơn cứu rỗi.

Người giàu có trong dụ ngôn Tin Mừng Luca thì ngược lại. Sau khi thấy mình có đầy dư gạo thóc, ông định phá bỏ những kho lẫm cũ để xây dựng những kho lẫm mới lớn hơn và ông cho rằng lúc đó mình sẽ an tâm cho số phận của mình. Chúa bảo “Đồ ngốc vì đêm nay người ta sẽ đòi mạng ngươi” (Lc 12,20). Người nhà giàu này chần chừ lần nữa, tự lo cho chính mình, đợi kế hoạch của mình hoàn thành đã thì mới tính tiếp. Chúa không coi đó là cách thức khôn ngoan vì đối với Chúa mọi sự phải là hiện tại.

Mỗi người Kitô hữu chúng ta hãy biết sống “Ngày hôm nay” như là hồng ân của Chúa, Chúa đến với ta từng giây, từng phút trong cuộc đời, ta phải nhận ra Chúa qua từng biến cố, từng cảnh sống. Chính Chúa Giêsu cũng đã chấp nhận cuộc sống trần thế và Ngài đón nhận nó như là ân ban và Ngài đã thánh hoá đem lại ơn cứu độ cho những ai biết thánh hoá từng ngày sống của mình.

Đừng để cuộc đời bạn trôi qua một cách vô nghĩa khi mãi chìm đắm trong kỷ niệm hay nỗi đau trong quá khứ hoặc lo lắng quá về tương lai. Hãy sống trọn vẹn cho giây phút hiện tại bằng tất cả cảm nhận và nhiệt huyết của trái tim mình.

Xin được kết thúc bằng bài thơ của Kalidasa một kịch sĩ nổi tiếng của Ấn Độ
“Hãy chăm chú vào ngày hôm nay,
vì nó là đời sống, chính là sự sống của đời sống.
Nó tuy ngắn ngủi, nhưng chứa tất cả chân lý về cuộc đời của ta:

Sự sung sướng khi tiến phát
Sự vẻ vang của hành động
Sự rực rỡ của thành công
Vì hôm qua chỉ là một giấc mộng
Và ngày mai chỉ là một ảo tưởng
Nhưng hôm nay nếu biết sống đầy đủ, ta sẽ thấy
hôm qua là một giấc mộng êm đềm
và ngày mai là hình ảnh của hy vọng.
Vậy ta hãy chăm chú vào ngay hôm nay”. Amen.

Chúng con yêu quí,

Chúng con vừa được nghe một đoạn Tin Mừng do thánh sử Luca ghi lại.

1. Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh sử Luca tường thuật lại cho chúng ta việc Chúa Giêsu trở về quê hương Nagiareth của Ngài sau một thời gian vắn đi rao giảng Tin Mừng cho những nơi gần đó.

Thánh Luca thuật lại việc Chúa Giêsu làm như sau: “Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày Sabát, và đứng lên đọc Sách Thánh. Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ Isaia. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng: Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,16-19).

Thái độ của những người trong hội đường lúc đó thế nào? Thánh Luca bảo: Mọi người đều chăm chú dõi theo từng cử chỉ hành động của Đức Giêsu. Charles Erdman một nhà chú giải về Tin Mừng thánh Luca bảo: “Họ không thể nào chống lại cái vẻ dịu dàng của bài giảng, cũng không thể nào chối bỏ được cái vẻ đẹp quyến rũ của lời Ngài nói, nhưng họ lại không thể chấp nhận được lời Ngài tuyên bố”.

Chúa tuyên bố thế nào mà những người ở Nagiareth không chấp nhận được?

Chúa tuyên bố thật rõ ràng. Chúa mượn lời ngôn sứ Isaia Chúa vừa tuyên đọc rồi Chúa quả quyết: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.”(Lc 4,21). Và như vậy Chúa đã chính thức tuyên bố sứ vụ cũng như chương trình hành động công khai của mình cho mọi người.

Đứng trước những lời tuyên bố công khai rõ rệt như thế, người Nagiareth cách riêng và những người Do thái cách chung đều không muốn chấp nhận vì đó không phải là những điều mà dân chúng mong đợi và muốn nghe. Trong thâm tâm của họ, Đấng Cứu Thế phải là người quyền năng, uy lực vô biên; là người đánh Đông dẹp Bắc và mang lại hòa bình cho trăm họ. Thế nhưng, Đức Giêsu lại tuyên bố: Người không phải là Đấng Mêssia theo nghĩa họ mong muốn, mà Người được xức dầu bởi Thánh Thần là để được sai đi: “loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo khó; để công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức và công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,16-19).

2. Ngày hôm nay, Đức Kitô vẫn tiếp tục sứ mạng của Chúa qua Giáo Hội mà mỗi chúng ta là những chi thể.

Tờ Times, một trong những tờ báo nổi tiếng nhất thế giới, vào dịp cuối năm có thói quen giới thiệu cho độc giả biết những con người làm nên lịch sử của từng năm. Năm 2004, tờ báo bình chọn tổng thống Bush làm nhân vật quan trọng nhất trong năm. Năm 2005, tờ báo chọn vợ chồng Bill Gates vì những hoạt động từ thiện của hai vợ chồng nầy. Nhưng có lẽ lạ lùng nhất là cuộc bình chọn năm 2006, báo Times chọn một nhân vật chẳng ai ngờ, nhân vật đó là, là… “Bạn” (You). Tức là mỗi một người trong chúng ta.

Bởi thế chúng ta đừng nghĩ rằng mình chỉ là một hạt cát bé nhỏ vô ích, vì những bãi cát mênh mông được tạo nên bằng những hạt cát bé nhỏ. Đừng nghĩ rằng mình chỉ là một giọt nước li ti không nghĩa lý gì, vì cả đại dương bao la cũng được tạo nên bằng những giọt nước li ti như vậy.

Tất cả chúng ta đều là những kẻ được Chúa sai đi. Mỗi người chúng ta đều được Chúa sai đi để xây dựng thế giới này. Ngày trước, Thiên Chúa đã sai Chúa Giêsu đi, rồi đến phiên Chúa Giêsu lại sai chúng ta đi. Chúa Giêsu đã phán “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai chúng con”. Bởi vậy, lời Thánh kinh mà Chúa Giêsu đã áp dụng cho bản thân Người “Chúa đã sai tôi đi”, cũng phải được chính chúng ta áp dụng cho chúng ta “Chúa cũng sai tôi đi”.

Mẫu chuyện sau đây có thể giúp chúng ta hiểu lời công bố ấy của Chúa Giêsu tuyệt diệu đến chừng nào.

Ngày xưa có một ông điền chủ có đất đai rất nhiều. Ông cho các tá điền mướn đất làm ăn. Một thời gian sau, các tá điền lâm cảnh túng thiếu nợ nần. Họ rất lo lắng vì không làm sao để đóng tô – nghĩa là – lợi tức đúng hạn cho chủ được. Dù họ biết ông chủ rất tốt bụng không đến nỗi làm khó dễ họ, nhưng họ vẫn áy náy không biết chủ sẽ hoãn nợ cho họ bao lâu.

Thế rồi một hôm viên quản lý đi đến từng nhà các tá điền. Ông này hỏi mỗi người thiếu nợ bao nhiêu, trong nhà có bao nhiêu người, hằng ngày ăn uống thế nào, gia đình có ai già yếu bệnh tật gì không v.v. Cách chung nhà nào cũng túng thiếu và đang gặp rất nhiều khó khăn.

Một ít ngày sau, các tá điền được mời đến gặp chủ. Ai nấy đều hồi hộp, tin chắc là ông chủ sẽ lấy lại đất, bởi họ không còn khả năng đóng tô tức là lợi tức nữa. Khi mọi người đã đủ mặt, viên quản lý bước ra, bắt đầu nói:

– Ông chủ biết là các người ai cũng rất nghèo nên không còn khả năng đóng tô nữa. Vì thế ông bảo tôi báo cho các người hay”. Nói tới đây viên quản lý bỗng ngừng lại. Con tim của các tá điền dường như ngừng đập. Viên quản lý nói tiếp: “Tôi có một Tin Mừng muốn loan báo cho các người”. Mọi người xôn xao: “Tin Mừng ư! Tin Mừng gì vậy?” Lúc đó viên quản lý hô lớn: “Ông chủ tha hết nợ cho các người. Từ nay các người cứ an tâm làm ăn nuôi sống gia đình”.

Thế là mọi người reo hò sung sướng. Họ ôm nhau nhảy múa hát ca. Sau đó ai nấy trở về nhà mình. Sau bao năm trời, hôm nay họ mới chợt nhận thấy ánh nắng mặt trời rất là tươi đẹp, tiếng chim hót trên cành rất líu lo, hoa cỏ hai bên đường và trên khắp cánh đồng vô cùng rực rỡ.

Lời loan báo của Chúa Giêsu tại hội đường Nagiareth cũng là một Tin Mừng như thế. Chúa Giêsu là viên quản lý của Thiên Chúa. Ngài được sai đến để báo tin Thiên Chúa đã xóa nợ cho loài người. Chúng ta hãy vui mừng và tạ ơn Chúa.

Lạy Chúa Thánh Thần!  Xin cho con nhận ra sự hiện diện của Ngài giữa lòng thế giới và trong lòng mọi người xung quanh con. Xin cho  con luôn tìm đến với anh chị em của con hơn là tìm an nhàn cho chính bản thân mình, để nhờ biết quan tâm đến những người chung quanh, con cũng sẽ được vui hưởng niềm vui Ơn Cứu Độ và lãnh nhận hồng phúc của năm Hồng Ân mà Thiên Chúa đã hứa ban. Amen.

Ðức Giêsu, Mẹ Ngài và các môn đệ cùng có mặt trong một đám cưới ở làng quê Cana.

Ðám cưới là một cuộc vui kéo dài cả tuần. Tiếc thay, tiệc nửa chừng thì hết rượu.

Ðức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên trong Tin Mừng Gioan. Ngài đã biến nước thành rượu. Ngài trả lại bầu khí vui tươi cho đám cưới.

Tin Mừng Gioan hay kể lại những dấu lạ có ý nghĩa. Những dấu lạ vén mở con người của Ðức Giêsu. Làm bánh hóa nhiều cho thấy Ðức Giêsu là Bánh thật. Chữa người mù bẩm sinh cho thấy Ðức Giêsu là Ánh Sáng. Hoàn sinh Lazarô cho thấy Ðức Giêsu là sự Sống Lại.

Dấu lạ ở tiệc cưới Cana cũng cho ta biết Ngài.

Thứ nước dùng cho nghi thức tẩy uế của Do Thái giáo, Ðức Giêsu biến nó thành rượu ngon, một lượng rượu khổng lồ vượt quá mức đòi hỏi.

Ngài biến nước của Cựu Ước thành rượu của Tân Ước. Như thế, Ngài đã mở ra một thời đại mới, thời đại thiên sai, chan chứa niềm vui cứu độ.

Ðức Giêsu cho thấy mình chính là Ðấng Mêsia. Ngài đến để thiết lập một trật tự mới dồi dào và phong phú, như rượu vừa nhiều vừa ngon.

Cựu Ước không làm con người mãn nguyện.

Con người vẫn khát khao và tìm kiếm hạnh phúc.

Nhưng hạnh phúc vẫn là cái gì bèo bọt, mong manh.

Ðức Giêsu đã dự tiệc cưới ở Cana.

Ngài muốn dự mọi bữa tiệc liên hoan của con người.

Ngài muốn chia sẻ và bảo vệ niềm vui bé nhỏ nơi họ.

Dấu lạ Cana chủ yếu cho ta thấy Ðức Giêsu là ai, nhưng Ðức Maria cũng có một vai trò đáng kể.

Mẹ hiện diện trong tiệc cưới như thân mẫu Ðức Giêsu.

Mẹ thấy rõ sự lúng túng lo âu của chàng rể.

“Họ hết rượu rồi”: Mẹ chỉ nói với Con như vậy.

Câu nói của Mẹ ẩn chứa một lời nài xin kín đáo.

Mẹ mong Con làm một điều gì đó mà Mẹ không rõ.

“Người bảo gì, các anh hãy làm.”

Quả thật Ðức Giêsu có bảo và các gia nhân có làm, nhờ đó dấu lạ Cana được thực hiện.

Qua sự đóng góp của Mẹ trong dấu lạ mở màn này, đức tin của các môn đệ được củng cố và lớn lên.

Và hôm nay Mẹ vẫn nói nhỏ với Chúa: Họ hết rượu rồi!

Niềm vui chợt tắt, tình yêu nhạt phai, gia đình tan vỡ…

Cần biết bao sự hiện diện của Chúa và Mẹ trong mỗi gia đình, giữa lúc khó khăn bối rối.

“Người bảo gì, các con hãy làm”

Ðó vẫn là lời Mẹ nhắn nhủ với chúng ta hôm nay.

Các thuỷ thủ Hoa Kỳ trú đóng tại vùng biển Phi Luật Tân, vào thời đệ nhị thế chiến có kể lại một câu chuyện thật cảm động như sau:

Theo lệnh của viên chỉ huy trưởng, tất cả mọi quân nhân đều phải có mặt tại ví trí của mình khi có lệnh báo động. Quân nhân nào không tuân lệnh, có thể bị xử bắn.

Một hôm, vào giữa lúc còi báo động vang lên, một binh sĩ bỗng đánh rơi cái áo khoác xuống biển. Viên chỉ huy trưởng của chiến hạm yêu cầu mọi người trở về vị trí để sẵn sàng chiến đấu. Thế nhưng, người binh sĩ đã khinh thường lệnh của viên chỉ huy, và có lẽ cũng xem thường cả hình phạt nặng nề có thể xảy đến. Anh đã nhảy xuống biển và vớt cho bằng được cái áo khoác của mình. Vừa lên khỏi mặt nước, anh đã bị điệu tới trình diện trước mặt viên chỉ huy. Tất cả mọi người đều lo sợ cho số phận của anh. Tra hỏi bao nhiêu, anh cũng vẫn không nói, chỉ giữ thinh lặng.

Cuối cùng, người binh sĩ đó rút từ trong túi chiếc áo khoác ra một tấm hình và trao cho viên chỉ huy rồi nói:

-Thưa ngài, tôi không thể để mất tấm ảnh này, vì đây là ảnh của mẹ tôi.

Cuộc đời sẽ có lúc vui như ngày cưới: Hãy dành cho Đức Mẹ một chỗ ở đó.

Cuộc đời có những lúc thảm bại như ở đỉnh đồi Golgotha. Cũng hãy dành cho Đức Mẹ một chỗ ở đó.

Có Đức Mẹ ở cùng thì niềm vui sẽ trọn vẹn.

Có Đức Mẹ bên cạnh thì cô đơn sẽ lùi xa.

Có Đức Mẹ chỉ đường thì sẽ không sợ lạc lối.

Có Đức Mẹ ở bên thì chắc sẽ thành công.

Lạy Mẹ Maria, khi đọc Phúc Âm,
lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ lên đường đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Ðức Giêsu.
Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong Đền thờ.
Mẹ tìm Con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana.
Mẹ đi thăm Ðức Giêsu khi Ngài đang rao giảng.
Cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.

Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi
âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong, từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Ðức Giêsu trong mọi bước đường của cuộc sống. Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa.
Có những con đường đầy máu và nước mắt.

Xin Mẹ dạy chúng con
đừng sợ lên đường mỗi ngày,
đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa
dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.

Xin giữ chúng con luôn đi trên Ðường-Giêsu
để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ
đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.  Amen.

A. Chúng con yêu quí,
Chúng con vừa nghe một đoạn Tin Mừng của Thánh Gioan. Tin Mừng hôm nay thuật lại một câu chuyện xảy ra vào những ngày đầu tiên trong cuộc đời công khai của Chúa Giêsu. Câu chuyện một đám cưới tại Cana, một thành phố nhỏ gần quê hương Nagiareth của Chúa.
Cha đố chúng con đám cưới hôm nay có gì đặc biệt hơn nhiều đám cưới chúng ta thường gặp trong cuộc sống hằng ngày của mọi người?
– Thưa đám cưới hôm nay có sự tham dự của Chúa Giêsu và Đức Maria, mẹ của Chúa!
– Rất đúng!
Đọc kỹ bài Tin Mừng chúng con còn thấy gì nữa không?
Xem ra gia đình này thuộc loại khá giả vì có tới 6 cái chum lớn. Mỗi cái có thể chứa được khoảng 80 – 120 lít nước dùng để rửa tay theo thói tục của người Do Thái. Có lẽ gia chủ đã không nắm vững được số người dự tiệc nên không dự trù đủ số rượu cho đám tiệc, chính vì thế mà bữa tiệc bị thiếu rượu bất thình lình.
Đối với người Do thái thì việc thiếu rượu trong một bữa tiệc nhất là tiệc cưới thì là một điều xỉ nhục và bẽ mặt với khách được mời dự tiệc và xóm làng. (Vì chúng con biết nước Do thái là nước trồng nho nên họ uống rượu rất nhiều. Bởi thế việc để cho một bữa tiệc thiếu rượu là một việc không thể tha thứ).
Cha hỏi tiếp chúng con: Đứng trước một việc hệ trọng như thế, ai là người đã phát hiện ra điều đó?
– Đức Mẹ.
Rồi với bản chất tế nhị và bén nhạy của một phụ nữ, Đức Maria đã nhận ra ngay sự bối rối, lo âu của gia chủ. Và Tin Mừng ghi lập tức Đức Mẹ đến với Chúa Giêsu và nói với Ngài: “Họ hết rượu rồi” (Ga.2,3).
Chúa Giêsu trả lời Đức Mẹ làm sao chúng con có nhớ không?
– Chúa trả lời: “Thưa bà, chuyện đó có can gì đến tôi và bà, giờ tôi chưa đến” (Ga.2,4).
Câu trả lời này có làm cho chúng con ngạc nhiên không?
Ngạc nhiên quá đi chứ! Xem ra có vẻ chói tai quá! Nhưng chúng con nên biết: Theo phong tục Do Thái, người con quen gọi mẹ là bà nơi công cộng, để tỏ ý kính trọng chứ không phải bất kính.
Đức Mẹ biết Chúa Giêsu chỉ nói thế thôi, chứ không phải là Chúa từ chối, nên Ngài bảo các gia nhân: “Chúa bảo gì, các anh cứ làm theo” (Ga.2,5). Quả thật, Chúa Giêsu đã gọi gia nhân bảo đổ nước cho đầy 6 chum đó, rồi múc nước vừa đổ vào đưa cho người quản tiệc.
Người quản tiệc vừa thử xong thì vô cùng ngạc nhiên vì không phải là nước mà nước đã biến thành rượu. Và Tin Mừng kể: “Chúa Giêsu làm dấu lạ đầu tiên này để bày tỏ vinh quang của Người và các môn đệ đã tin Người” (Ga.2,11).

B. Bây giờ cha hỏi chúng con: Phép lạ này nhắc nhở chúng ta điều gì ?
* Chẳng cần nói dài dòng, cha có thể trả lời ngay: Về vai trò của Đức Mẹ trong cuộc sống của chúng ta.
Cha kể cho chúng con câu chuyện này:
Cha Silvanus và mục sư Henry đến lâu đài Patien để xin hoàng tử trợ giúp tài chính cho mình. Linh mục Silvanus thì xin tiền xây nhà thờ, còn mục sư Henry thì xin tiền xây trường học. Đến nơi, họ được hoàng tử tiếp riêng từng người rất tử tế. Mục sư Henry được mời vào trước. Lát sau, khi bước ra, vẻ mặt của mục sư buồn xo vì không được trợ giúp gì cả. Đến lượt linh mục Silvanus vào. Một lúc sau, ông trở ra, vẻ mặt hớn hở tươi vui khác thường. Tay xách một túi tiền. Mục sư Henry thắc mắc hỏi vì sao mà linh mục lại được hoàng tử giúp vậy? Linh mục Silvanus cho biết:
– Lúc đầu, hoàng tử cũng từ chối tôi, nhưng khi tôi nhìn thấy hoàng hậu, tôi nhờ bà bầu cử cho. Được bà hoàng hậu nói giúp, lúc đó hoàng tử mới nhận lời bà yêu cầu mà giúp tôi.
Đấy chúng con thấy tiếng nói và sự bầu cử của người mẹ thật có giá trị như thế nào.
* Tiếp đến là sự có mặt của Chúa trong gia đình Chính nhờ chủ nhà mời Chúa Giêsu và các môn đệ đến dự tiệc cưới, mà Ngài đã ban cho ông một phép lạ đặc biệt. Qua việc tham dự tiệc cưới này, Chúa Giêsu đã thánh hóa và chúc phúc cho đời sống hôn nhân và gia đình, nhất là những gia đình biết mời Chúa đến.
Mẹ Têrêsa thành Calcutta, vị sáng lập dòng Nữ Tử Bác Ái, thường lập đi lập lại với những người nghe Mẹ rằng: “Tình yêu bắt đầu ngay từ trong gia đình”. Một lần kia, Mẹ kể lại câu chuyện sau:
– Trong số các cộng tác viên của tôi, có một cặp vợ chồng kia trước đây sống rất hạnh phúc nhưng rồi chỉ một thời gian sau họ sống lạnh nhạt với nhau. Một hôm, cả hai đến gặp tôi. Tôi bảo:
– Tôi không hiểu tại sao anh chị có thể đem Chúa Giêsu đến với những người khác trong khi chính bản thân anh chị không thể đem Ngài đến cho nhau? Làm sao anh chị có thể nhận ra Ngài đang ẩn mình nơi những người nghèo khổ, trong khi anh chị không biết khám phá ra Ngài trong tâm hồn của nhau?. Thế rồi, cả hai bắt đầu cuộc tranh cãi gay gắt ngay trước mặt tôi. Họ dốc sạch bầu tâm sự và mọi tranh cãi giận hờn đã ôm ấp trong lòng từ bao lâu nay… Một lát, tôi bảo họ: “Thôi đủ rồi! Anh chị đã nói tất cả những gì cần nói với nhau rồi. Bây giờ anh chị hãy vào Nhà thờ cầu nguyện và mỗi người hãy nói với Chúa Giêsu hiện diện trong nhà tạm những gì đã nói với nhau lúc nãy! Rồi tôi cùng đôi vợ chồng cùng bước vào nhà thờ, họ quỳ gối xuống gần bên nhau trước nhà tạm và thinh lặng… Một lúc sau, người chồng quay sang nhìn người vợ với tất cả sự trìu mến. Ông ôm lấy vợ và nói:
– Em là người yêu duy nhất trên đời của anh và là tất cả kho tàng quý giá của anh đang có…
Và từ hôm đó hai vợ chồng làm hòa cùng nhau, đồng thời trở thành những cộng tác viên đắc lực của tôi và là mẫu gương cho nhiều gia đình khác…

Phúc âm hôm nay nhắc tới ba dạng Phép rửa khác nhau:

1. Phép Rửa thứ nhất là Phép Rửa bằng nước. Đây là Phép Rửa của Gioan. Phép rửa của Gioan là Phép Rửa sám hối.

Đây là một dấu cho thấy dân chúng ăn năn tội lỗi của họ và muốn tẩy xóa nó đi.

Phép rửa này là bước đầu tiên trong một cuộc hành trình dài. Nó chỉ là một dấu hiệu, một khởi điểm.

Gioan đã làm sáng tỏ điều này khi ông nói: “Tôi làm phép rửa bằng nước để làm dấu hiệu cho thấy anh em đã ăn năn sám hối – Nhưng có một Đấng đến sau tôi sẽ rửa anh em bằng Thánh Linh và bằng Lửa. Ngài cao trọng hơn tôi. Tôi chẳng xứng đáng cúi xuống cởi dây dép cho Người.”(Mt 3,11)

Nói một cách khác, theo Gioan thì Phép rửa của ông chỉ là chuẩn bị cho Phép rửa bằng Thánh Linh của Đức Giêsu. Vào cuối đời Chúa đã nói với các môn đệ như thế này: “Các con hãy đi đến với mọi người trên khắp thế gian, rao giảng cho họ về Nước Trời, rửa tội cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần”(Mt 28,19).

2. Phép rửa thứ hai là phép rửa của Chúa Giêsu. Đây là Phép Rửa tái sinh. Phép rửa này ban cho người được rửa một đời sống mới. Thánh Phaolô đã giải thích về đời sống này cho những người vừa được rửa tội như sau: “Khi được rửa tội, anh em được an táng với Đức Kitô và trong phép rửa anh em cũng được sống lại với Đức Kitô. Anh em đã từng bị chết về mặt tâm linh nhưng giờ đây Thiên Chúa đã mang anh em đến nguồn sống cùng với Đức Kitô.”(Cl 2,12-13)

Như vậy qua Phép Rửa này, Chúa Giêsu chia sẻ cho những người được rửa đời sống thần linh của Ngài. Điều này dẫn chúng ta đến phép rửa thứ ba: Phép rửa thánh Gioan làm cho Chúa Giêsu.

3. Phúc âm hôm nay mô tả thật rõ những sự kiện xảy ra khi Chúa Giêsu đến xin Gioan làm phép rửa cho Ngài: “Bầu trời mở ra, rồi Thánh Thần hiện xuống rồi sau đó một giọng nói từ trời vọng xuống: Đây là Con yêu dấu của Ta. Con đẹp lòng Ta”

Nếu phải đặt cho phép rửa này một tên thì ta có thể gọi đây là phép rửa Mặc khải. Thiên Chúa mạc khải cho chúng ta qua hình ảnh bầu trời, Thánh linh và giọng nói được vang ra.

a- Trước hết là hình ảnh bầu trời được mở ra.

Ngày xưa người Do thái tin rằng Thiên Chúa sống ở trên một góc trời nào đó bên trên bầu trời bao bọc trái đất như một bức chắn. Nếu Thiên Chúa muốn đi vào trái dất thì Thiên Chúa phải đi qua bức chắn này. Tiên tri Isaia cũng cùng một quan niệm như thế khi ông nói: “Xin Chúa hãy xé toang bầu trời ra và xuống cứu dân của Người”(Is 64,1).

Hình ảnh bầu trời được mở ra có nghĩa là Thiên Chúa đã nghe lời cầu xin của nhà tiên tri và đã xuống thế gian. Như thế là một thời đại mới đã bắt đầu: thời đại Thiên Chúa xuống để cứu dân của Người.

b- Bước qua hình ảnh thứ hai: Thánh thần Chúa lượn quanh trên Đức Giêsu. Hình ảnh này thật giống với hình ảnh trong sách Sáng Thế Ký: “Thần khí Chúa bay lượn là đà trên mặt nước”(St 1,2) vào lúc Chúa khởi đầu việc tạo dựng. Tại sao lại có một sự trùng hợp như thế. Đây không phải là ngẫu nhiên. Ở đây Thiên Chúa muốn nói với chúng ta: Thời đại mới mà Ngài xây dựng trên trần gian là một cuộc tạo dựng mới. Nói cách khác đây là một cuộc tái tạo lại trần gian.

c- Sau hết là việc Thiên Chúa xác nhận Chúa Giêsu là Con của Người: “Đây là Con yêu dấu của Ta”(Mt 3,17). Qua lời xác nhận này Thiên Chúa muốn giới thiệu với con ngươì về Chúa Giêsu như một “Adam mới”

Thánh Phaolô đã khai thác ý tưởng này rất hay như sau: “Con người đầu tiên tức Adam đã được tạo dựng nên như một vật sống. Còn Adam cuối cùng tức là Đức Giêsu là Thần ban sự sống….Adam thứ nhất đến từ đất – Adam thứ hai đến từ trời…..Như chúng ta đã mặc lấy hình ảnh người bởi đất mà ra (tức Adam thứ nhất) thế nào thì chúng ta cũng mặc lấy hình ảnh của người từ trời mà đến như thế. Người từ trời đây chính là Adam thứ 2, tức là Đức Giêsu.(1Cor 15,45-49).

Như vậy thì ý tưởng đã rõ. Phép rửa Chúa Giêsu chịu là Phép rửa Mặc khải. Nó báo cho con người biết là một kỷ nguyên mới đã bắt đầu. Kỷ nguyên này là một cuộc tạo dựng mới với sự có mặt của Chúa Giêsu Con Thiên Chúa như một Adam mới của nhân loại.

Như vậy là chúng ta đang được sống trong một kỷ nguyên mới trong chương trình sáng tạo của Thiên Chúa.

Bởi thế, thánh Phaolô nói với chúng ta: “Anh em đã được chỗi dậy cùng với Đức Ki-tô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới”. (Cl 3,1-2)

“Sống đích thực của anh em là Đức Kitô và khi Ngài hiện ra thì anh em cũng được xuât hiện với Ngài đễ được cùng chia sẻ vinh quang với Ngài.”(Cl 3,1-4).

Một hôm duyệt binh, vua Alexandre thấy một anh bộ đội có vẻ yếu ớt và mang một cây gươm dỉ sét, Ngài đứng lại và hỏi tên, hắn thưa mình là  Alexandre.

Nghe nói, vua liền nổi giận, nhìn thẳng vào con người lười biếng đó và bảo:

– Mày một là phải đổi tên, hai là phải đổi tính nết.

Alexandre là một ông vua trẻ trung, can đảm, hoạt động mà tên lính của Alexandre thì như vậy vua coi là một điều xấu hổ.

Mang danh hiệu Kitô hữu, có đạo Đức Chúa Giêsu mà cách ăn ở không có gì giống Chúa, thì chỉ làm xấu cho đạo. Nhiều khi trong đời sống người có đạo còn thua kém người bên lương: ăn gian, nói dối, lỗi đức công bình, bác ái…

Xin được kết bằng lời của thánh Phaolô gửi tín hữu Êphêsô: “Vì thế, anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện.(Ep 4,17.24)

Chúng con thân mến

Thánh lễ hôm nay được gọi là thánh lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa.

Ai chịu phép rửa và ai làm phép rửa?

1. Người làm phép rửa hôm nay là Gioan Tẩy giả.

Khi nói về Phép Rửa của mình, Gioan đã quả quyết như thế này:“Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, nhưng có Ðấng quyền thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa. (Lc 3,16)

Như vậy Gioan đã cho mọi người biết Phép Rửa của ông làm không như Phép Rửa Chúa Giêsu thiết lập sau này. Phép Rửa của Gioan là phép rửa bằng “Nước” và Phép Rửa này chỉ có một mục dích là giúp người ta sám hối để đón nhận một hồng ân mới mà ông có nhiệm vụ tiên báo trước. Đó là Phép Rửa do Chúa Giêsu thiết lập.Gioan đã nói về Phép Rửa này một cách hết sức trang trọng như thế này: “Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và Lửa.(Lc 3,16)

Vậy thì Gioan làm Phép Rửa cho Chúa để làm gì? Có phải Chúa có tội để Gioan làm phép rửa tha tội cho Chúa hay không?

Hoàn toàn không bởi vì Chúa là Đấng thánh – Đấng vô tội cho nên không cần đến bất cứ một phép rửa tội nào cả.

Có phải Chúa cần phép rửa của Gioan để sám hối hay không? Chắc chắn cũng không bởi vì Chúa Giêsu là không có tội lỗi gì nên đâu cần đến phép rửa của Gioan để tỏ lòng sám hối.

Thế thì tại sao Chúa lại đến với Gioan và bắt ông phải làm phép rửa cho mình?

– Tại vì Chúa khiêm nhường dù không có tội nhưng cũng muốn đứng vào hàng ngũ của những người tội lỗi để từ trong hàng ngũ của những người có tội Chúa thực hiện việc cứu chuộc họ.

Có một câu chuyện tưởng tượng: một người kia bị rơi xuống hố tối tăm. Anh ta cố gắng leo lên, vượt ra khỏi cái hố, nhưng lại bị tụt xuống. Tình cờ Đức Khổng Tử đi qua, ngài nhìn xuống hố thấy anh bèn thương hại bảo:

– Thật tội nghiệp cho con, nếu con chịu khó nghe lời ta dạy bảo, thì con đâu có bị rơi xuống hố như vậy!

Nói rồi, ngài lại tiếp tục bước đi. Sau đó Đức Phật Thích Ca đi tới, Ngài cũng nhìn xuống hố thấy anh và nói:

– Thật tội nghiệp con, con hãy tự cố gắng leo lên đi, nếu leo lên được ta sẽ cho đi theo ta.

Nói rồi ngài lại tiếp tục bước đi.

Sau cùng Chúa Giêsu đi tới. Ngài nhìn xuống hố rồi nói:

– Thật tội nghiệp cho con.

Rồi Ngài nhảy xuống hố, nâng anh lên, đưa lưng cõng anh trên lưng đưa ra khỏi hố.

Đức Khổng Tử chỉ dạy điều hay lẽ phải, Đức Phật Thích Ca đã khám phá ra con đường giải thoát và kêu gọi hãy đi theo nhưng mỗi người hãy tự sức mình mà đi chứ Ngài không giúp đỡ được gì. Còn Chúa Giêsu, thì Ngài đã sẵn sàng làm người, chịu đau khổ và chịu chết để cứu chuộc ta khỏi hố sâu tội lỗi.

– Hơn nữa, qua việc đến xin Gioan làm phép rửa cho mình Chúa còn muốn nhân cơ hội này Chúa cho mọi người biết mình là ai.

Chúng con thấy sau khi được Gioan là Phép Rửa Chúa được Đức Chúa Cha xác nhận: “Đây là con yêu dấu của Ta”. Rồi còn được Chúa Thánh Thần chứng nhận bằng lấy hình bồ câu đậu trên đầu Chúa.

2. Như vậy qua biến cố này, mọi người đã thấy được một Chúa Giêsu đích thực là một Thiên Chúa đã làm người. Người đã được Thiên Chúa Cha sai xuống trần gian để cứu chuộc loài người. Chúa đã thực hiện việc cứu chuộc đó bằng cách làm cho con người được trở thành con Thiên Chúa. Con đường Chúa làm cho con người trở thành Con Thiên Chúa là Bí tích Rửa tội bằng lửa và bằng Thánh Thần như thánh Gioan Tẩy giả nói.

“Bí tích Rửa Tội “là hồng ân cao đẹp nhất và kỳ diệu nhất trong các hồng ân của Thiên Chúa…. Đây là một việc kỳ diệu chỉ có Chúa mới làm được.  Như vậy bằng cách chịu Bí tích Rửa tội Chúa trả lại cho chúng ta địa vị làm Con Thiên Chúa mà vì phạm tội phản bội tổ tông loài người đã là mất.

Vâng! một hồng ân thật cao cả. Còn hồng ân nào cao quí hơn là hồng ân chúng ta được làm con Thiên Chúa. Sau khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, thân xác của chúng ta trở nên đền thờ dâng lính Chúa Ba Ngôi. Đó là một chân lý thánh Phaolô đã dạy giáo hữu thành Côrintô (2Cor 6,16).

Vua Trajano là hoàng đế cai trị nước Rôma từ năm 98 đến năm 117. Nhà vua đã cấm Đạo, và đã bắt thánh Ignatio giám mục thành Antiochia. Tại tòa án, nhà vua đã chế nhạo Đạo Công Giáo, rồi gọi thánh Ignatio là thằng quỉ xấu xa, thánh Ignatio giám mục thưa lại rằng:

– Tâu đức vua, chẳng có ai gọi người mang Thiên Chúa trong mình là thằng quỉ dữ được.

Nhà vua hỏi lại:

– Vậy ông mang Thiên Chúa trong mình ư?

Thánh Ignatio giám mục trả lời:

– Tâu đức vua, phải – tôi mang Thiên Chúa trong mình, vì những người đã chịu phép Rửa Tội, sống đời sạch tội, đều là đền thờ của Thiên Chúa. Bởi vậy, không hạnh phúc nào lớn lao cho bằng người Công Giáo, bằng được trở nên đền thờ Thiên Chúa; và cũng không có gì can hệ cho con người bằng phải luôn là đền thờ cho Thiên Chúa ngự.

Nghe xong, hoàng đế Trajano đã lên án rằng:

– Ignatio thành Antiochia là người đã cậy mình vì mang Thiên Chúa trong mình nên phải điệu đến Roma, để làm của ăn cho thú dữ (Vivre: X).

Thánh nhân vui sướng như người chiến thắng vì sắp được trở về với Chúa.

Không lạ gì, Léonide là cha của nhà hiền triết Origène, đã hôn ngực con, mà nói với những người tỏ vẻ ngạc nhiên rằng:

– Tôi thờ lạy và hôn kính Thiên Chúa, đang ngự trong trái tim đứa nhỏ con tôi đã chịu phép rửa tội.

Hãy biết ơn Thiên Chúa và sống xứng đáng với hồng ân cao cả Chúa đã ban cho mỗi người chúng ta. Amen.

Bài Tin mừng hôm nay nói cho chúng ta biết rằng khi Chúa Giêsu giáng sinh trong hang đá Belem thì có một ngôi sao lạ xuất hiện trên bầu trời.

Hẳn là đã có nhiều nguời thấy ánh sao lạ, nhưng tại sao chỉ có mấy đạo sĩ đã nhận ra đó là “tín hiệu” loan báo Chúa Cứu thế giáng sinh.

Con trẻ sinh ở Bêlem hẳn nhiều ngườt đã thấy hoặc đã biết, nhưng chỉ có mấy đạo sĩ nhận ra rằng trẻ sơ sinh đó chính là Con Thiên Chúa làm nguời. Bởi thế họ quỳ xuống dâng lễ vật và thờ lạy. Tại sao thế?

KẺ THẤY NGƯỜI KHÔNG

Đứng trước cùng một sự kiện mà có kẻ thấy người không, kẻ tìm ra ý nghĩa người không. Vậy thì làm sao mà cắt nghĩa được sự khác biệt đó?

Nguyên nhân gây ra khác biệt là do một bên nhìn bằng con mắt thường một bên nhìn bằng đức tin. Bên nhìn bằng con mắt thường thì chỉ thấy những việc thông thường, còn bên nhìn bằng con mắt đức tin thì nhờ đức tin mà khám phá ra được thực chất và ý nghĩa ở bên trong.

Một buổi trưa hè nóng bức, thánh Phanxicô Assisi sau khi đi đường mệt nhọc đã tìm được một chỗ nghỉ chân rất thoải mái. Chỗ đó là dưới một gốc cây có tàng lá che mát, bên dưới là một dòng nước trong lành mát rượi. Thánh nhân rửa tay rửa mặt xong xuôi rồi ngả mình dưới tàng lá. Bỗng dưng người bật khóc. Vì người nghĩ từ không biết bao đời, Chúa đã biết hôm nay mình đến đây, Chúa biết mình mệt, cho nên Chúa đã đặt sẵn ở đây một bóng mát và một dòng suối để cho mình nghỉ ngơi.

Cái nhìn của bậc thánh nhân đã nhận ra những điều mà người phàm không bao giơ thấy được.

Sự vật thay đổi diện mạo và ý nghĩa tùy theo cách nhìn và mức độ quan sát của mỗi người. Cùng một giọt máu nếu nhìn bằng mắt thường thì chỉ thấy màu đỏ, còn quan sát bằng kính hiển vi thì có thể đếm được hồng cầu và bạch cầu. Đức tin cũng giống như một thứ kính hiển vi. Nó giúp cho người ta thấy rõ hơn, lớn hơn, thật hơn. Bởi thế đức tin là một sự khám phá, một cái nhìn tinh tế theo chiều sâu, một thứ ánh sáng cực mạnh dọi vào sự vật giúp ta nhìn thấy tận bên trong. Chính vì các đạo sĩ có lòng tin nên đã nhận ra Con Thiên Chúa trong khi những người khác chỉ thấy một trẻ thơ.

KINH NGHIỆM NỘI GIỚI

Như vậy thì đức tin có phải là cái gì hoàn toàn chủ quan không? Người tin có phải chỉ là một người bị ám ảnh bởi một đối tượng do chính mình tưởng tượng ra?

Đức tin thật ra không hoàn toàn khách quan mà cũng không hoàn toàn chủ quan.

Không hoàn toàn khách quan vì những điều người tín hữu tin không thế cân, đong, đo, đếm được. Không thế chứng minh bằng lý luận như một bài toán hay một định luật khoa học, không thế viết thành công thức đưa vào máy điện toán để kiểm chứng. Tin là một xác tín cá nhân chỉ chắc chắn cho chính người tin.

Nhưng đức tin cũng không hoàn toàn chủ quan vì không phải chỉ có một người tin nhưng hằng bao nhiêu tỷ người thuộc các thế hệ cùng tại. Và những người tin này đều lành mạnh, tỉnh táo, sáng suốt, trong đó có biết bao nhiêu nhà bác học hàng đầu của thế giới. Ở thế kỷ XIX, trong số 432 nhà bác học lớn đã có tới 357 Kitô hữu.

Thực ra đức tin là một thứ kinh nghiệm nội giới độc đáo có tính riêng tư. Kinh nghiệm này, mình thấy rõ, thấy thật, mình cảm nghiệm được, nhưng hầu như không thế truyền đạt giải thích cho người khác, chỉ mình mình biết. Trong lãnh vực tôn giáo, mỗi người phải cảm nghiệm cho mình bằng tâm hồn. Tự chúng, những thực tại tôn giáo không thế chứng minh được, lý lẽ nào cũng chỉ là gợi ý có tính thuyết phục tương đối. Vì thế mới cần đến chứng tá đời sống. Chính đời sống sẽ biện minh cho những gì không thế giải trình bằng lý luận.

Đức tin cũng giống như cảm hứng và cái nhìn của nghệ sĩ. Nghệ sĩ hơn người ở chỗ cảm thấy cái đẹp, nhìn thấy cái đẹp, nhận diện được cái đẹp ở những nơi, vào những lúc mà người thường chẳng thấy gì cả. Không thể nói người nghệ sĩ bịa đặt ra một cái gì thực ra không có, nhưng phải nhìn nhận rằng tâm hồn không có tính nghệ sĩ là tâm hồn thiếu nhạy bén. Người có đức tin giống nghệ sĩ ở chỗ tâm hồn cởi mở, nhạy cảm nên nắm bắt, lĩnh hội được cái vô hình. Tâm hồn người tín hữu bắt trúng tần số.

M. Toliver một nhà truyền giáo ở miền Tây Trung Hoa có lần gặp hai viên chức cao cấp đồng thời cũng là những Kitô hữu nhiệt thành. Một trong hai người kể rằng: trong một cuộc oanh kích, ông ta, bà vợ và đứa con gái nhỏ 6 tuổi không tìm được nơi trú ẩn, nên phải nấp dưới gầm bàn ăn. Bom nổ ngay bên, nên họ chỉ còn biết cúi đầu cầu nguyện. Khi qua cơn nguy biến, đứa bé nhìn lên thấy ảnh Chúa Giêsu, em nói:

– Ba ơi, Chúa Giêsu là nơi trú ẩn an toàn nhất, phải  không ba?

LÒNG THÀNH VÀ ƠN THÁNH  

Bởi đâu người có đức tin lại có một cái nhìn thấu suốt như vậy? Có điều kiện nào để con người có thể có được một đức tin trong sáng như thế hay không?

Thưa có. Đó là sự thành tâm thiện chí, sự ngay thật khiêm tốn trong tâm hồn. Thiếu những điều kiện đó đức tin khó có thể nảy sinh.

Tuy nhiên dầu có tất cả những điều đó cũng vẫn chưa đủ. Còn cần có tác động của Thiên Chúa trong tâm hồn. Nguồn mạch chính của đức tin là ơn Chúa. Đức tin trước hết là một hồng ân.

Chúng ta tin. Nhưng chính Thiên Chúa làm cho chúng ta có thể tin. Chính Ngài mở lòng mở trí chúng ta để chúng ta thấy và hiểu. Đức tin là một cuộc hiển linh: Thiên Chúa tỏ mình cho chúng ta được thấy Ngài. Chính Ngài rọi ánh sáng vào lòng chúng ta và rọi ánh sáng trên mọi sự để chúng ta có thể thấy. Lời thánh vịnh 39 thật có ý nghĩa: “Trong ánh sáng của Chúa chúng con nhìn thấy ánh sáng”. Mọi ánh sáng đều bắt ngưồn từ nơi Thiên Chúa.

Như vậy người tín hữu là người đã nhận được ánh sáng của Thiên  Chúa và nhìn thấy mọi sự trong và nhờ ánh sáng của Thiên Chúa.

Cũng như các đạo sĩ, người tín hữu đã được Thiên Chúa mở lòng mở trí, đã bắt được ánh sáng của Thiên Chúa, đã được đưa vào thế giới mới của Ngài. Phải gọi ơn này là gì? Gọi là ơn trời biển thì cũng chưa nói được gì về cái phúc của mình. Hãy tri ân và đừng bao giờ coi thường phúc đó. Trái lại hãy sống trọn niềm tin của mình, thể hiện niềm tin đó trong cuộc sống giống như các đạo sĩ. Sau khi khám phá ra Chúa, cuộc đời họ đã biến đổi hoàn toàn và cuộc sống của có thật nhiều niềm vui.

Có một cậu bé muốn đi gặp Chúa Giêsu. Để chuẩn bị cho cuộc hành trình, cậu bỏ vào giỏ mấy chiếc bánh và hai chai sữa tươi. Và cậu bé lên đường, lòng vui tươi hớn hở. Mới đi được mấy dãy phố, cậu chợt thấy một bà cụ già đang ngồi trên một chiếc ghế đá ở công viên. Cậu thấy mỏi chân nên quyết định ngồi nghỉ một chút bên cạnh bà lão. Cậu lấy một chai sữa tươi ra, định uống cho đỡ khát.

Nhưng nhìn sang, thấy bà cụ run lập cập, có lẽ vì đói quá chăng. Cậu liền lấy bánh lẫn sữa ra mời bà. Bà cụ nhận tất cả với một nụ cười cảm động và biết ơn. Ôi nụ cười mới đẹp làm sao? Thế là hai bà cháu mải mê ngồi ăn uống và nói chuyện vui vẻ với nhau mãi.

Buổi chiều, khi cậu bé trở về nhà, bà mẹ thấy con rất vui liền hỏi:

– Hôm nay con có chuyện gì mà vui thế?

Cậu hớn hớ khoe:

– Mẹ có ngờ được không? Hôm nay con đã  cùng ngồi ăn trưa với Chúa Giêsu. Người có nụ cười thật đễ thương mẹ ạ!

Trong khi đó, bà lão cũng chậm rãi trở về nhà, lòng chan chứa một niềm bình an. Cậu con trai lớn của bà hỏi thăm ngay từ cửa:

– Mẹ ơi, sao hôm nay mẹ có vẻ vui thế nhỉ?

Bà cụ móm mém trả lời:

– Này, con có ngờ được không? Hôm nay mẹ đã cùng được ngồi ăn trưa với đức Giêsu. Người trẻ hơn mẹ tưởng nhiều con ạ!

Xin chúc các bạn một năm mới tràn đầy hồng ân và luôn được gặp Chúa trong cuộc đời. Amen.

Thiếu nhi chúng con yêu quí,

Cha đố chúng con hôm nay là lễ gì?

– Lễ Ba vua….Lễ Hiển linh.

– Chúng con trả lời rất hay, nhưng cha hỏi tiếp: Tại sao lại gọi là lễ Ba Vua? Tại sao lại gọi là lễ Hiển linh?

– ???.

+ Đây cha cắt nghĩa cho chúng con.

Lễ này ngày xưa người ta hay gọi là lễ Ba Vua. Người ta cho rằng lúc Chúa Giáng Sinh tại Belem thì có Ba Vua từ phương Đông tìm đến để thờ lạy. Nhưng ngày nay với những phương tiện nghiên cứu tốt hơn và sâu xa hơn người ta thấy đây không phải là các vua chúa trần gian như người ta vẫn hiểu mà thực ra đó là các nhà chiêm tinh chuyên nghiên cứu về những vấn đề tâm linh của con người. Các ngài là những nhà thông thái, có tâm hồn tìm kiếm những điều mới lạ. Các ngài thấy trên bầu trời có một ngôi sao lạ xuất hiện. Ngôi sao lạ xuất hiện trên bầu trời. Chẳng thiếu gì người đã nhìn thấy ngôi sao lạ nhưng chắng mấy ai để ý. Duy chỉ có mấy nhà chiêm tinh khi nhìn thấy và các ngài đã tự hỏi: Phải chăng đây là tín hiệu loan báo cho mọi người biết về một vị Cứu thế của loài người sinh ra và các ngài đã bắt đầu cuộc tìm kiếm.

Nói đến đây cha thấy việc Thiên Chúa làm quả thực thật lạ lùng. Để loan báo cho loài người biết việc Chúa Giêsu Ngôi Hai Thiên Chúa sinh ra làm người, Thiên Chúa đã không dùng một biến có kinh thiên động địa nào mà chỉ nhẹ nhàng dùng một tạo vật rất nhỏ bé trên bầu trời để làm việc này. Và đây là cách thức Chúa vẫn thường dùng trong lịch sử ơn cứu độ.

Chúng con hãy nghe câu chuyện này:

Một học giả người Pháp nọ băng qua sa mạc. Ông dẫn theo vài người Arập làm hướng đạo. Khi mặt trời lặn, một người trong bọn trải xuống đất một tấm thảm và cầu nguyện.

– Nguơi làm gì thế?-vị học giã hỏi-

– Tôi cầu nguyện.

– Ngươi cầu nguyện ư? Ngươi cầu nguyện cùng ai?

– Allah, Thiên Chúa.

Nhà thông thái mỉm cười.

– Ngươi đã bao giờ thấy Thiên Chúa chưa?

– Chưa!

– Vậy thì ngươi là một kẻ điên nếu tin vào một Thiên Chúa mà ngươi không bao giờ thấy, không bao giờ nghe và không bao giờ đụng chạm đến.

Người Á-Rập không trả lời gì. Sáng sớm hôm sau, trước khi mặt trời mọc, nhà thông thái lúc ra khỏi lều, nói nhận xét này với người hướng đạo của ông:

– Đã có một con lạc đà đi qua đây!

Một tia sáng lóe lên trong mắt người A-Rập.

– Ngài thấy con lạc đà chứ?

– Không.

– Ngài không đụng đến nó chứ?

– Không.

– Vậy thì ngài thật là người điên khi tin một con lạc đà mà ngài không nghe, không thấy, không ngửi.

– Ồ!- nhà thông thái đáp trả –nhưng người ta thấy rõ các dấu chân của nó trên cát.

Vào chính ngay lúc ấy, mặt trời mọc lên từ chân trời với tất cả các màu sắc rực rỡ của phương đông. Bằng một cử chỉ gọn gàng, người Á-Rập đưa tay chỉ tinh thể rực sáng, rồi nói:

– Ngài đã thấy dấu vết của đấng tạo hóa, vậy ngài hãy tin vào Thiên Chúa đi.

2. Các nhà chiêm tinh trong bài Tin Mừng hôm nay đã để lại cho chúng một bài học rất quí giá. Bài học đó là các ngài đã đọc được dấu chỉ Thiên Chúa muốn nhắn gửi cho các ngài sự xuất hiện của một ngôi sao.

Cha hỏi chúng con đã có bao giờ chúng con được người ta nói về dấu chỉ chưa?

Từ “dấu chỉ” là từ rất quan trọng trong cuộc sống hôm nay.

Chúng con hãy tập cho quen nghe và hiểu từ này.

Đây là từ Công Đồng Vaticanô II dùng rất nhiều.

Theo Cha Chenu, từ “dấu chỉ thời đại” là một trong ba hoặc bốn từ quan trọng nhất của Công đồng Vatican II.

Đọc trong các bài viết của xã hội hôm nay cha thấy người ta cũng bắt đầu nói nhiều về từ này.

Cha thử tìm trong Google, chỉ trong vòng có 0,23 giây người đã có được 2.750.000 kết quả về “dấu chỉ thời đại Cứu thế”. Nói thế có nghĩa là việc nhận ra ý Chúa qua các dấu chỉ của thời đại rất là quan trọng. Không biết nhận ra ý Chúa qua các dấu chỉ Chúa dùng để dạy dỗ chúng ta quả là một thiếu xót không thể chấp nhận được.

Bởi thế cha mới nói các nhà chiêm tinh đạ để lại cho chúng ta một bài học rất quan trọng đó là biết đọc ra những ý nghĩa của dấu chỉ Thiên Chúa muốn nhắn gửi cho các ngài  sự xuất hiện của một ngôi sao.

Chính Chúa Giêsu cũng đã muốn cho mọi người biết nhìn qua các dấu chỉ mà nhận ra Ngài. Chắc chúng con còn nhớ câu chuyện của ông Gioan.

Câu chuyện như thế này:  “Hồi ấy ông Gio-an lúc ấy đang ngồi tù, nghe biết những việc Đức Ki-tô làm, liền sai môn đệ đến hỏi Người rằng: “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác? ” Đức Giê-su trả lời: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.”(Lc 7,2-6).

“Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng.” Đó chính là các dấu chỉ của thời đại Cứu Thế.

Chúng ta hãy tập cho biết nhận ra các dấu chỉ Chúa gửi đến cho chúng ta hằng ngày để thấy được những việc Chúa làm cho chúng ta. Có như thế chúng ta mới thấy cuộc đời của chúng ta hạnh phúc.

Một vị Giám mục kiểm tra khả năng của một  nhóm ứng viên xin lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy. Ngài hỏi:

– Bằng vào dấu chỉ nào các người khác nhận ra các con là người Công giáo?

Không có tiếng trả lời. Rõ ràng không có ai ngờ một câu hỏi như thế. Vị Giám mục lập lại câu hỏi và ngài lập lại thêm một lần nữa, lần này ngài làm dấu thánh giá có ý mách nước cho các người dự tòng một câu trả lời đúng. Bất. chợt một ứng viên trả lời:

– Đó là “Tình yêu” .

Cha muốn kết thức bài suy niệm hôm nay bằng câu chuyện nhỏ này: Đây là cảm nghĩ của một giáo viên: Trong một chuyến đến thăm ngôi trường khiếm thị duy nhất của thành phố, tôi chạnh lòng nhìn cảnh một số em quơ quạng với chiếc gậy trên tay, có em lại bám vào vai bạn và cả hai cùng lần bước. Còn đến khi vào lớp, các em lại cần mẫn dùng những ngón tay nhỏ bé gầy guộc để đọc từng giòng chữ Braine trên trang giấy nổi

Bất chợt, ánh mắt tôi dừng lại ở một em bé có đeo một mẫu ảnh thánh giá nho nhỏ trên ngực áo. Tiến lại gần, tôi làm quen với em và được biết. Em kể rằng: “Trước khi vào trường này, mẹ em đã đeo cây Thánh Giá này cho em và bảo: Đèn của thân thể người ta là đôi mắt, còn với con, thì Thánh Giá sẽ là cây đèn cho con đấy!”

Tôi ân cần hỏi em:

– Thế em có thấy vui không?

Em bé ngước nhìn lên với đôi mắt đục mờ, trả lời ngay:

– Có chứ anh, em đã mất đôi mắt của thân thể, nhưng thật sự thì đôi mắt của tâm hồn em vẫn sáng!

Nghe câu trả lời quả quyết ấy, tôi giật mình tự nhủ: con mắt của tâm hồn mình có còn sáng hay đã tắt ngủm rồi nhỉ?