Phúc âm hôm nay nhắc tới ba dạng Phép rửa khác nhau:

1. Phép Rửa thứ nhất là Phép Rửa bằng nước. Đây là Phép Rửa của Gioan. Phép rửa của Gioan là Phép Rửa sám hối.

Đây là một dấu cho thấy dân chúng ăn năn tội lỗi của họ và muốn tẩy xóa nó đi.

Phép rửa này là bước đầu tiên trong một cuộc hành trình dài. Nó chỉ là một dấu hiệu, một khởi điểm.

Gioan đã làm sáng tỏ điều này khi ông nói: “Tôi làm phép rửa bằng nước để làm dấu hiệu cho thấy anh em đã ăn năn sám hối – Nhưng có một Đấng đến sau tôi sẽ rửa anh em bằng Thánh Linh và bằng Lửa. Ngài cao trọng hơn tôi. Tôi chẳng xứng đáng cúi xuống cởi dây dép cho Người.”(Mt 3,11)

Nói một cách khác, theo Gioan thì Phép rửa của ông chỉ là chuẩn bị cho Phép rửa bằng Thánh Linh của Đức Giêsu. Vào cuối đời Chúa đã nói với các môn đệ như thế này: “Các con hãy đi đến với mọi người trên khắp thế gian, rao giảng cho họ về Nước Trời, rửa tội cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần”(Mt 28,19).

2. Phép rửa thứ hai là phép rửa của Chúa Giêsu. Đây là Phép Rửa tái sinh. Phép rửa này ban cho người được rửa một đời sống mới. Thánh Phaolô đã giải thích về đời sống này cho những người vừa được rửa tội như sau: “Khi được rửa tội, anh em được an táng với Đức Kitô và trong phép rửa anh em cũng được sống lại với Đức Kitô. Anh em đã từng bị chết về mặt tâm linh nhưng giờ đây Thiên Chúa đã mang anh em đến nguồn sống cùng với Đức Kitô.”(Cl 2,12-13)

Như vậy qua Phép Rửa này, Chúa Giêsu chia sẻ cho những người được rửa đời sống thần linh của Ngài. Điều này dẫn chúng ta đến phép rửa thứ ba: Phép rửa thánh Gioan làm cho Chúa Giêsu.

3. Phúc âm hôm nay mô tả thật rõ những sự kiện xảy ra khi Chúa Giêsu đến xin Gioan làm phép rửa cho Ngài: “Bầu trời mở ra, rồi Thánh Thần hiện xuống rồi sau đó một giọng nói từ trời vọng xuống: Đây là Con yêu dấu của Ta. Con đẹp lòng Ta”

Nếu phải đặt cho phép rửa này một tên thì ta có thể gọi đây là phép rửa Mặc khải. Thiên Chúa mạc khải cho chúng ta qua hình ảnh bầu trời, Thánh linh và giọng nói được vang ra.

a- Trước hết là hình ảnh bầu trời được mở ra.

Ngày xưa người Do thái tin rằng Thiên Chúa sống ở trên một góc trời nào đó bên trên bầu trời bao bọc trái đất như một bức chắn. Nếu Thiên Chúa muốn đi vào trái dất thì Thiên Chúa phải đi qua bức chắn này. Tiên tri Isaia cũng cùng một quan niệm như thế khi ông nói: “Xin Chúa hãy xé toang bầu trời ra và xuống cứu dân của Người”(Is 64,1).

Hình ảnh bầu trời được mở ra có nghĩa là Thiên Chúa đã nghe lời cầu xin của nhà tiên tri và đã xuống thế gian. Như thế là một thời đại mới đã bắt đầu: thời đại Thiên Chúa xuống để cứu dân của Người.

b- Bước qua hình ảnh thứ hai: Thánh thần Chúa lượn quanh trên Đức Giêsu. Hình ảnh này thật giống với hình ảnh trong sách Sáng Thế Ký: “Thần khí Chúa bay lượn là đà trên mặt nước”(St 1,2) vào lúc Chúa khởi đầu việc tạo dựng. Tại sao lại có một sự trùng hợp như thế. Đây không phải là ngẫu nhiên. Ở đây Thiên Chúa muốn nói với chúng ta: Thời đại mới mà Ngài xây dựng trên trần gian là một cuộc tạo dựng mới. Nói cách khác đây là một cuộc tái tạo lại trần gian.

c- Sau hết là việc Thiên Chúa xác nhận Chúa Giêsu là Con của Người: “Đây là Con yêu dấu của Ta”(Mt 3,17). Qua lời xác nhận này Thiên Chúa muốn giới thiệu với con ngươì về Chúa Giêsu như một “Adam mới”

Thánh Phaolô đã khai thác ý tưởng này rất hay như sau: “Con người đầu tiên tức Adam đã được tạo dựng nên như một vật sống. Còn Adam cuối cùng tức là Đức Giêsu là Thần ban sự sống….Adam thứ nhất đến từ đất – Adam thứ hai đến từ trời…..Như chúng ta đã mặc lấy hình ảnh người bởi đất mà ra (tức Adam thứ nhất) thế nào thì chúng ta cũng mặc lấy hình ảnh của người từ trời mà đến như thế. Người từ trời đây chính là Adam thứ 2, tức là Đức Giêsu.(1Cor 15,45-49).

Như vậy thì ý tưởng đã rõ. Phép rửa Chúa Giêsu chịu là Phép rửa Mặc khải. Nó báo cho con người biết là một kỷ nguyên mới đã bắt đầu. Kỷ nguyên này là một cuộc tạo dựng mới với sự có mặt của Chúa Giêsu Con Thiên Chúa như một Adam mới của nhân loại.

Như vậy là chúng ta đang được sống trong một kỷ nguyên mới trong chương trình sáng tạo của Thiên Chúa.

Bởi thế, thánh Phaolô nói với chúng ta: “Anh em đã được chỗi dậy cùng với Đức Ki-tô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới”. (Cl 3,1-2)

“Sống đích thực của anh em là Đức Kitô và khi Ngài hiện ra thì anh em cũng được xuât hiện với Ngài đễ được cùng chia sẻ vinh quang với Ngài.”(Cl 3,1-4).

Một hôm duyệt binh, vua Alexandre thấy một anh bộ đội có vẻ yếu ớt và mang một cây gươm dỉ sét, Ngài đứng lại và hỏi tên, hắn thưa mình là  Alexandre.

Nghe nói, vua liền nổi giận, nhìn thẳng vào con người lười biếng đó và bảo:

– Mày một là phải đổi tên, hai là phải đổi tính nết.

Alexandre là một ông vua trẻ trung, can đảm, hoạt động mà tên lính của Alexandre thì như vậy vua coi là một điều xấu hổ.

Mang danh hiệu Kitô hữu, có đạo Đức Chúa Giêsu mà cách ăn ở không có gì giống Chúa, thì chỉ làm xấu cho đạo. Nhiều khi trong đời sống người có đạo còn thua kém người bên lương: ăn gian, nói dối, lỗi đức công bình, bác ái…

Xin được kết bằng lời của thánh Phaolô gửi tín hữu Êphêsô: “Vì thế, anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện.(Ep 4,17.24)

Chúng con thân mến

Thánh lễ hôm nay được gọi là thánh lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa.

Ai chịu phép rửa và ai làm phép rửa?

1. Người làm phép rửa hôm nay là Gioan Tẩy giả.

Khi nói về Phép Rửa của mình, Gioan đã quả quyết như thế này:“Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, nhưng có Ðấng quyền thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa. (Lc 3,16)

Như vậy Gioan đã cho mọi người biết Phép Rửa của ông làm không như Phép Rửa Chúa Giêsu thiết lập sau này. Phép Rửa của Gioan là phép rửa bằng “Nước” và Phép Rửa này chỉ có một mục dích là giúp người ta sám hối để đón nhận một hồng ân mới mà ông có nhiệm vụ tiên báo trước. Đó là Phép Rửa do Chúa Giêsu thiết lập.Gioan đã nói về Phép Rửa này một cách hết sức trang trọng như thế này: “Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và Lửa.(Lc 3,16)

Vậy thì Gioan làm Phép Rửa cho Chúa để làm gì? Có phải Chúa có tội để Gioan làm phép rửa tha tội cho Chúa hay không?

Hoàn toàn không bởi vì Chúa là Đấng thánh – Đấng vô tội cho nên không cần đến bất cứ một phép rửa tội nào cả.

Có phải Chúa cần phép rửa của Gioan để sám hối hay không? Chắc chắn cũng không bởi vì Chúa Giêsu là không có tội lỗi gì nên đâu cần đến phép rửa của Gioan để tỏ lòng sám hối.

Thế thì tại sao Chúa lại đến với Gioan và bắt ông phải làm phép rửa cho mình?

– Tại vì Chúa khiêm nhường dù không có tội nhưng cũng muốn đứng vào hàng ngũ của những người tội lỗi để từ trong hàng ngũ của những người có tội Chúa thực hiện việc cứu chuộc họ.

Có một câu chuyện tưởng tượng: một người kia bị rơi xuống hố tối tăm. Anh ta cố gắng leo lên, vượt ra khỏi cái hố, nhưng lại bị tụt xuống. Tình cờ Đức Khổng Tử đi qua, ngài nhìn xuống hố thấy anh bèn thương hại bảo:

– Thật tội nghiệp cho con, nếu con chịu khó nghe lời ta dạy bảo, thì con đâu có bị rơi xuống hố như vậy!

Nói rồi, ngài lại tiếp tục bước đi. Sau đó Đức Phật Thích Ca đi tới, Ngài cũng nhìn xuống hố thấy anh và nói:

– Thật tội nghiệp con, con hãy tự cố gắng leo lên đi, nếu leo lên được ta sẽ cho đi theo ta.

Nói rồi ngài lại tiếp tục bước đi.

Sau cùng Chúa Giêsu đi tới. Ngài nhìn xuống hố rồi nói:

– Thật tội nghiệp cho con.

Rồi Ngài nhảy xuống hố, nâng anh lên, đưa lưng cõng anh trên lưng đưa ra khỏi hố.

Đức Khổng Tử chỉ dạy điều hay lẽ phải, Đức Phật Thích Ca đã khám phá ra con đường giải thoát và kêu gọi hãy đi theo nhưng mỗi người hãy tự sức mình mà đi chứ Ngài không giúp đỡ được gì. Còn Chúa Giêsu, thì Ngài đã sẵn sàng làm người, chịu đau khổ và chịu chết để cứu chuộc ta khỏi hố sâu tội lỗi.

– Hơn nữa, qua việc đến xin Gioan làm phép rửa cho mình Chúa còn muốn nhân cơ hội này Chúa cho mọi người biết mình là ai.

Chúng con thấy sau khi được Gioan là Phép Rửa Chúa được Đức Chúa Cha xác nhận: “Đây là con yêu dấu của Ta”. Rồi còn được Chúa Thánh Thần chứng nhận bằng lấy hình bồ câu đậu trên đầu Chúa.

2. Như vậy qua biến cố này, mọi người đã thấy được một Chúa Giêsu đích thực là một Thiên Chúa đã làm người. Người đã được Thiên Chúa Cha sai xuống trần gian để cứu chuộc loài người. Chúa đã thực hiện việc cứu chuộc đó bằng cách làm cho con người được trở thành con Thiên Chúa. Con đường Chúa làm cho con người trở thành Con Thiên Chúa là Bí tích Rửa tội bằng lửa và bằng Thánh Thần như thánh Gioan Tẩy giả nói.

“Bí tích Rửa Tội “là hồng ân cao đẹp nhất và kỳ diệu nhất trong các hồng ân của Thiên Chúa…. Đây là một việc kỳ diệu chỉ có Chúa mới làm được.  Như vậy bằng cách chịu Bí tích Rửa tội Chúa trả lại cho chúng ta địa vị làm Con Thiên Chúa mà vì phạm tội phản bội tổ tông loài người đã là mất.

Vâng! một hồng ân thật cao cả. Còn hồng ân nào cao quí hơn là hồng ân chúng ta được làm con Thiên Chúa. Sau khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, thân xác của chúng ta trở nên đền thờ dâng lính Chúa Ba Ngôi. Đó là một chân lý thánh Phaolô đã dạy giáo hữu thành Côrintô (2Cor 6,16).

Vua Trajano là hoàng đế cai trị nước Rôma từ năm 98 đến năm 117. Nhà vua đã cấm Đạo, và đã bắt thánh Ignatio giám mục thành Antiochia. Tại tòa án, nhà vua đã chế nhạo Đạo Công Giáo, rồi gọi thánh Ignatio là thằng quỉ xấu xa, thánh Ignatio giám mục thưa lại rằng:

– Tâu đức vua, chẳng có ai gọi người mang Thiên Chúa trong mình là thằng quỉ dữ được.

Nhà vua hỏi lại:

– Vậy ông mang Thiên Chúa trong mình ư?

Thánh Ignatio giám mục trả lời:

– Tâu đức vua, phải – tôi mang Thiên Chúa trong mình, vì những người đã chịu phép Rửa Tội, sống đời sạch tội, đều là đền thờ của Thiên Chúa. Bởi vậy, không hạnh phúc nào lớn lao cho bằng người Công Giáo, bằng được trở nên đền thờ Thiên Chúa; và cũng không có gì can hệ cho con người bằng phải luôn là đền thờ cho Thiên Chúa ngự.

Nghe xong, hoàng đế Trajano đã lên án rằng:

– Ignatio thành Antiochia là người đã cậy mình vì mang Thiên Chúa trong mình nên phải điệu đến Roma, để làm của ăn cho thú dữ (Vivre: X).

Thánh nhân vui sướng như người chiến thắng vì sắp được trở về với Chúa.

Không lạ gì, Léonide là cha của nhà hiền triết Origène, đã hôn ngực con, mà nói với những người tỏ vẻ ngạc nhiên rằng:

– Tôi thờ lạy và hôn kính Thiên Chúa, đang ngự trong trái tim đứa nhỏ con tôi đã chịu phép rửa tội.

Hãy biết ơn Thiên Chúa và sống xứng đáng với hồng ân cao cả Chúa đã ban cho mỗi người chúng ta. Amen.

Bài Tin mừng hôm nay nói cho chúng ta biết rằng khi Chúa Giêsu giáng sinh trong hang đá Belem thì có một ngôi sao lạ xuất hiện trên bầu trời.

Hẳn là đã có nhiều nguời thấy ánh sao lạ, nhưng tại sao chỉ có mấy đạo sĩ đã nhận ra đó là “tín hiệu” loan báo Chúa Cứu thế giáng sinh.

Con trẻ sinh ở Bêlem hẳn nhiều ngườt đã thấy hoặc đã biết, nhưng chỉ có mấy đạo sĩ nhận ra rằng trẻ sơ sinh đó chính là Con Thiên Chúa làm nguời. Bởi thế họ quỳ xuống dâng lễ vật và thờ lạy. Tại sao thế?

KẺ THẤY NGƯỜI KHÔNG

Đứng trước cùng một sự kiện mà có kẻ thấy người không, kẻ tìm ra ý nghĩa người không. Vậy thì làm sao mà cắt nghĩa được sự khác biệt đó?

Nguyên nhân gây ra khác biệt là do một bên nhìn bằng con mắt thường một bên nhìn bằng đức tin. Bên nhìn bằng con mắt thường thì chỉ thấy những việc thông thường, còn bên nhìn bằng con mắt đức tin thì nhờ đức tin mà khám phá ra được thực chất và ý nghĩa ở bên trong.

Một buổi trưa hè nóng bức, thánh Phanxicô Assisi sau khi đi đường mệt nhọc đã tìm được một chỗ nghỉ chân rất thoải mái. Chỗ đó là dưới một gốc cây có tàng lá che mát, bên dưới là một dòng nước trong lành mát rượi. Thánh nhân rửa tay rửa mặt xong xuôi rồi ngả mình dưới tàng lá. Bỗng dưng người bật khóc. Vì người nghĩ từ không biết bao đời, Chúa đã biết hôm nay mình đến đây, Chúa biết mình mệt, cho nên Chúa đã đặt sẵn ở đây một bóng mát và một dòng suối để cho mình nghỉ ngơi.

Cái nhìn của bậc thánh nhân đã nhận ra những điều mà người phàm không bao giơ thấy được.

Sự vật thay đổi diện mạo và ý nghĩa tùy theo cách nhìn và mức độ quan sát của mỗi người. Cùng một giọt máu nếu nhìn bằng mắt thường thì chỉ thấy màu đỏ, còn quan sát bằng kính hiển vi thì có thể đếm được hồng cầu và bạch cầu. Đức tin cũng giống như một thứ kính hiển vi. Nó giúp cho người ta thấy rõ hơn, lớn hơn, thật hơn. Bởi thế đức tin là một sự khám phá, một cái nhìn tinh tế theo chiều sâu, một thứ ánh sáng cực mạnh dọi vào sự vật giúp ta nhìn thấy tận bên trong. Chính vì các đạo sĩ có lòng tin nên đã nhận ra Con Thiên Chúa trong khi những người khác chỉ thấy một trẻ thơ.

KINH NGHIỆM NỘI GIỚI

Như vậy thì đức tin có phải là cái gì hoàn toàn chủ quan không? Người tin có phải chỉ là một người bị ám ảnh bởi một đối tượng do chính mình tưởng tượng ra?

Đức tin thật ra không hoàn toàn khách quan mà cũng không hoàn toàn chủ quan.

Không hoàn toàn khách quan vì những điều người tín hữu tin không thế cân, đong, đo, đếm được. Không thế chứng minh bằng lý luận như một bài toán hay một định luật khoa học, không thế viết thành công thức đưa vào máy điện toán để kiểm chứng. Tin là một xác tín cá nhân chỉ chắc chắn cho chính người tin.

Nhưng đức tin cũng không hoàn toàn chủ quan vì không phải chỉ có một người tin nhưng hằng bao nhiêu tỷ người thuộc các thế hệ cùng tại. Và những người tin này đều lành mạnh, tỉnh táo, sáng suốt, trong đó có biết bao nhiêu nhà bác học hàng đầu của thế giới. Ở thế kỷ XIX, trong số 432 nhà bác học lớn đã có tới 357 Kitô hữu.

Thực ra đức tin là một thứ kinh nghiệm nội giới độc đáo có tính riêng tư. Kinh nghiệm này, mình thấy rõ, thấy thật, mình cảm nghiệm được, nhưng hầu như không thế truyền đạt giải thích cho người khác, chỉ mình mình biết. Trong lãnh vực tôn giáo, mỗi người phải cảm nghiệm cho mình bằng tâm hồn. Tự chúng, những thực tại tôn giáo không thế chứng minh được, lý lẽ nào cũng chỉ là gợi ý có tính thuyết phục tương đối. Vì thế mới cần đến chứng tá đời sống. Chính đời sống sẽ biện minh cho những gì không thế giải trình bằng lý luận.

Đức tin cũng giống như cảm hứng và cái nhìn của nghệ sĩ. Nghệ sĩ hơn người ở chỗ cảm thấy cái đẹp, nhìn thấy cái đẹp, nhận diện được cái đẹp ở những nơi, vào những lúc mà người thường chẳng thấy gì cả. Không thể nói người nghệ sĩ bịa đặt ra một cái gì thực ra không có, nhưng phải nhìn nhận rằng tâm hồn không có tính nghệ sĩ là tâm hồn thiếu nhạy bén. Người có đức tin giống nghệ sĩ ở chỗ tâm hồn cởi mở, nhạy cảm nên nắm bắt, lĩnh hội được cái vô hình. Tâm hồn người tín hữu bắt trúng tần số.

M. Toliver một nhà truyền giáo ở miền Tây Trung Hoa có lần gặp hai viên chức cao cấp đồng thời cũng là những Kitô hữu nhiệt thành. Một trong hai người kể rằng: trong một cuộc oanh kích, ông ta, bà vợ và đứa con gái nhỏ 6 tuổi không tìm được nơi trú ẩn, nên phải nấp dưới gầm bàn ăn. Bom nổ ngay bên, nên họ chỉ còn biết cúi đầu cầu nguyện. Khi qua cơn nguy biến, đứa bé nhìn lên thấy ảnh Chúa Giêsu, em nói:

– Ba ơi, Chúa Giêsu là nơi trú ẩn an toàn nhất, phải  không ba?

LÒNG THÀNH VÀ ƠN THÁNH  

Bởi đâu người có đức tin lại có một cái nhìn thấu suốt như vậy? Có điều kiện nào để con người có thể có được một đức tin trong sáng như thế hay không?

Thưa có. Đó là sự thành tâm thiện chí, sự ngay thật khiêm tốn trong tâm hồn. Thiếu những điều kiện đó đức tin khó có thể nảy sinh.

Tuy nhiên dầu có tất cả những điều đó cũng vẫn chưa đủ. Còn cần có tác động của Thiên Chúa trong tâm hồn. Nguồn mạch chính của đức tin là ơn Chúa. Đức tin trước hết là một hồng ân.

Chúng ta tin. Nhưng chính Thiên Chúa làm cho chúng ta có thể tin. Chính Ngài mở lòng mở trí chúng ta để chúng ta thấy và hiểu. Đức tin là một cuộc hiển linh: Thiên Chúa tỏ mình cho chúng ta được thấy Ngài. Chính Ngài rọi ánh sáng vào lòng chúng ta và rọi ánh sáng trên mọi sự để chúng ta có thể thấy. Lời thánh vịnh 39 thật có ý nghĩa: “Trong ánh sáng của Chúa chúng con nhìn thấy ánh sáng”. Mọi ánh sáng đều bắt ngưồn từ nơi Thiên Chúa.

Như vậy người tín hữu là người đã nhận được ánh sáng của Thiên  Chúa và nhìn thấy mọi sự trong và nhờ ánh sáng của Thiên Chúa.

Cũng như các đạo sĩ, người tín hữu đã được Thiên Chúa mở lòng mở trí, đã bắt được ánh sáng của Thiên Chúa, đã được đưa vào thế giới mới của Ngài. Phải gọi ơn này là gì? Gọi là ơn trời biển thì cũng chưa nói được gì về cái phúc của mình. Hãy tri ân và đừng bao giờ coi thường phúc đó. Trái lại hãy sống trọn niềm tin của mình, thể hiện niềm tin đó trong cuộc sống giống như các đạo sĩ. Sau khi khám phá ra Chúa, cuộc đời họ đã biến đổi hoàn toàn và cuộc sống của có thật nhiều niềm vui.

Có một cậu bé muốn đi gặp Chúa Giêsu. Để chuẩn bị cho cuộc hành trình, cậu bỏ vào giỏ mấy chiếc bánh và hai chai sữa tươi. Và cậu bé lên đường, lòng vui tươi hớn hở. Mới đi được mấy dãy phố, cậu chợt thấy một bà cụ già đang ngồi trên một chiếc ghế đá ở công viên. Cậu thấy mỏi chân nên quyết định ngồi nghỉ một chút bên cạnh bà lão. Cậu lấy một chai sữa tươi ra, định uống cho đỡ khát.

Nhưng nhìn sang, thấy bà cụ run lập cập, có lẽ vì đói quá chăng. Cậu liền lấy bánh lẫn sữa ra mời bà. Bà cụ nhận tất cả với một nụ cười cảm động và biết ơn. Ôi nụ cười mới đẹp làm sao? Thế là hai bà cháu mải mê ngồi ăn uống và nói chuyện vui vẻ với nhau mãi.

Buổi chiều, khi cậu bé trở về nhà, bà mẹ thấy con rất vui liền hỏi:

– Hôm nay con có chuyện gì mà vui thế?

Cậu hớn hớ khoe:

– Mẹ có ngờ được không? Hôm nay con đã  cùng ngồi ăn trưa với Chúa Giêsu. Người có nụ cười thật đễ thương mẹ ạ!

Trong khi đó, bà lão cũng chậm rãi trở về nhà, lòng chan chứa một niềm bình an. Cậu con trai lớn của bà hỏi thăm ngay từ cửa:

– Mẹ ơi, sao hôm nay mẹ có vẻ vui thế nhỉ?

Bà cụ móm mém trả lời:

– Này, con có ngờ được không? Hôm nay mẹ đã cùng được ngồi ăn trưa với đức Giêsu. Người trẻ hơn mẹ tưởng nhiều con ạ!

Xin chúc các bạn một năm mới tràn đầy hồng ân và luôn được gặp Chúa trong cuộc đời. Amen.

Thiếu nhi chúng con yêu quí,

Cha đố chúng con hôm nay là lễ gì?

– Lễ Ba vua….Lễ Hiển linh.

– Chúng con trả lời rất hay, nhưng cha hỏi tiếp: Tại sao lại gọi là lễ Ba Vua? Tại sao lại gọi là lễ Hiển linh?

– ???.

+ Đây cha cắt nghĩa cho chúng con.

Lễ này ngày xưa người ta hay gọi là lễ Ba Vua. Người ta cho rằng lúc Chúa Giáng Sinh tại Belem thì có Ba Vua từ phương Đông tìm đến để thờ lạy. Nhưng ngày nay với những phương tiện nghiên cứu tốt hơn và sâu xa hơn người ta thấy đây không phải là các vua chúa trần gian như người ta vẫn hiểu mà thực ra đó là các nhà chiêm tinh chuyên nghiên cứu về những vấn đề tâm linh của con người. Các ngài là những nhà thông thái, có tâm hồn tìm kiếm những điều mới lạ. Các ngài thấy trên bầu trời có một ngôi sao lạ xuất hiện. Ngôi sao lạ xuất hiện trên bầu trời. Chẳng thiếu gì người đã nhìn thấy ngôi sao lạ nhưng chắng mấy ai để ý. Duy chỉ có mấy nhà chiêm tinh khi nhìn thấy và các ngài đã tự hỏi: Phải chăng đây là tín hiệu loan báo cho mọi người biết về một vị Cứu thế của loài người sinh ra và các ngài đã bắt đầu cuộc tìm kiếm.

Nói đến đây cha thấy việc Thiên Chúa làm quả thực thật lạ lùng. Để loan báo cho loài người biết việc Chúa Giêsu Ngôi Hai Thiên Chúa sinh ra làm người, Thiên Chúa đã không dùng một biến có kinh thiên động địa nào mà chỉ nhẹ nhàng dùng một tạo vật rất nhỏ bé trên bầu trời để làm việc này. Và đây là cách thức Chúa vẫn thường dùng trong lịch sử ơn cứu độ.

Chúng con hãy nghe câu chuyện này:

Một học giả người Pháp nọ băng qua sa mạc. Ông dẫn theo vài người Arập làm hướng đạo. Khi mặt trời lặn, một người trong bọn trải xuống đất một tấm thảm và cầu nguyện.

– Nguơi làm gì thế?-vị học giã hỏi-

– Tôi cầu nguyện.

– Ngươi cầu nguyện ư? Ngươi cầu nguyện cùng ai?

– Allah, Thiên Chúa.

Nhà thông thái mỉm cười.

– Ngươi đã bao giờ thấy Thiên Chúa chưa?

– Chưa!

– Vậy thì ngươi là một kẻ điên nếu tin vào một Thiên Chúa mà ngươi không bao giờ thấy, không bao giờ nghe và không bao giờ đụng chạm đến.

Người Á-Rập không trả lời gì. Sáng sớm hôm sau, trước khi mặt trời mọc, nhà thông thái lúc ra khỏi lều, nói nhận xét này với người hướng đạo của ông:

– Đã có một con lạc đà đi qua đây!

Một tia sáng lóe lên trong mắt người A-Rập.

– Ngài thấy con lạc đà chứ?

– Không.

– Ngài không đụng đến nó chứ?

– Không.

– Vậy thì ngài thật là người điên khi tin một con lạc đà mà ngài không nghe, không thấy, không ngửi.

– Ồ!- nhà thông thái đáp trả –nhưng người ta thấy rõ các dấu chân của nó trên cát.

Vào chính ngay lúc ấy, mặt trời mọc lên từ chân trời với tất cả các màu sắc rực rỡ của phương đông. Bằng một cử chỉ gọn gàng, người Á-Rập đưa tay chỉ tinh thể rực sáng, rồi nói:

– Ngài đã thấy dấu vết của đấng tạo hóa, vậy ngài hãy tin vào Thiên Chúa đi.

2. Các nhà chiêm tinh trong bài Tin Mừng hôm nay đã để lại cho chúng một bài học rất quí giá. Bài học đó là các ngài đã đọc được dấu chỉ Thiên Chúa muốn nhắn gửi cho các ngài sự xuất hiện của một ngôi sao.

Cha hỏi chúng con đã có bao giờ chúng con được người ta nói về dấu chỉ chưa?

Từ “dấu chỉ” là từ rất quan trọng trong cuộc sống hôm nay.

Chúng con hãy tập cho quen nghe và hiểu từ này.

Đây là từ Công Đồng Vaticanô II dùng rất nhiều.

Theo Cha Chenu, từ “dấu chỉ thời đại” là một trong ba hoặc bốn từ quan trọng nhất của Công đồng Vatican II.

Đọc trong các bài viết của xã hội hôm nay cha thấy người ta cũng bắt đầu nói nhiều về từ này.

Cha thử tìm trong Google, chỉ trong vòng có 0,23 giây người đã có được 2.750.000 kết quả về “dấu chỉ thời đại Cứu thế”. Nói thế có nghĩa là việc nhận ra ý Chúa qua các dấu chỉ của thời đại rất là quan trọng. Không biết nhận ra ý Chúa qua các dấu chỉ Chúa dùng để dạy dỗ chúng ta quả là một thiếu xót không thể chấp nhận được.

Bởi thế cha mới nói các nhà chiêm tinh đạ để lại cho chúng ta một bài học rất quan trọng đó là biết đọc ra những ý nghĩa của dấu chỉ Thiên Chúa muốn nhắn gửi cho các ngài  sự xuất hiện của một ngôi sao.

Chính Chúa Giêsu cũng đã muốn cho mọi người biết nhìn qua các dấu chỉ mà nhận ra Ngài. Chắc chúng con còn nhớ câu chuyện của ông Gioan.

Câu chuyện như thế này:  “Hồi ấy ông Gio-an lúc ấy đang ngồi tù, nghe biết những việc Đức Ki-tô làm, liền sai môn đệ đến hỏi Người rằng: “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác? ” Đức Giê-su trả lời: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.”(Lc 7,2-6).

“Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng.” Đó chính là các dấu chỉ của thời đại Cứu Thế.

Chúng ta hãy tập cho biết nhận ra các dấu chỉ Chúa gửi đến cho chúng ta hằng ngày để thấy được những việc Chúa làm cho chúng ta. Có như thế chúng ta mới thấy cuộc đời của chúng ta hạnh phúc.

Một vị Giám mục kiểm tra khả năng của một  nhóm ứng viên xin lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy. Ngài hỏi:

– Bằng vào dấu chỉ nào các người khác nhận ra các con là người Công giáo?

Không có tiếng trả lời. Rõ ràng không có ai ngờ một câu hỏi như thế. Vị Giám mục lập lại câu hỏi và ngài lập lại thêm một lần nữa, lần này ngài làm dấu thánh giá có ý mách nước cho các người dự tòng một câu trả lời đúng. Bất. chợt một ứng viên trả lời:

– Đó là “Tình yêu” .

Cha muốn kết thức bài suy niệm hôm nay bằng câu chuyện nhỏ này: Đây là cảm nghĩ của một giáo viên: Trong một chuyến đến thăm ngôi trường khiếm thị duy nhất của thành phố, tôi chạnh lòng nhìn cảnh một số em quơ quạng với chiếc gậy trên tay, có em lại bám vào vai bạn và cả hai cùng lần bước. Còn đến khi vào lớp, các em lại cần mẫn dùng những ngón tay nhỏ bé gầy guộc để đọc từng giòng chữ Braine trên trang giấy nổi

Bất chợt, ánh mắt tôi dừng lại ở một em bé có đeo một mẫu ảnh thánh giá nho nhỏ trên ngực áo. Tiến lại gần, tôi làm quen với em và được biết. Em kể rằng: “Trước khi vào trường này, mẹ em đã đeo cây Thánh Giá này cho em và bảo: Đèn của thân thể người ta là đôi mắt, còn với con, thì Thánh Giá sẽ là cây đèn cho con đấy!”

Tôi ân cần hỏi em:

– Thế em có thấy vui không?

Em bé ngước nhìn lên với đôi mắt đục mờ, trả lời ngay:

– Có chứ anh, em đã mất đôi mắt của thân thể, nhưng thật sự thì đôi mắt của tâm hồn em vẫn sáng!

Nghe câu trả lời quả quyết ấy, tôi giật mình tự nhủ: con mắt của tâm hồn mình có còn sáng hay đã tắt ngủm rồi nhỉ?

Ngày lễ Thánh gia là ngày lễ của các gia đình, một gia đình thánh. Chúng ta tự hỏi một gia đình thánh là một gia đình như thế nào? Đọc trong Tin Mừng nhất là Tin Mừng Luca chúng ta có thể tìm ra những bí quyết này:

1. Bí quyết thứ nhất đó là  biết vâng nghe Lời Chúa.

Trong cuốn bài giảng Chúa nhật của mình, Đức Cha Arthur Tonne có ghi lại kết quả của một cuộc điều tra xã hội tại Mỹ năm 1975 về vấn đề gia đình như sau:

Người ta lựa chọn một số gia đình rồi xếp ra từng loại căn cứ vào những tiêu chuẩn sau đây:

* Không tham dự lễ Chúa nhật + Không cầu nguyện

* Có tham dự Thánh lễ Chúa nhật nhưng không cầu nguyện.

* Có tham dự Thánh lễ Chúa nhật + đọc Kinh Thánh và cầu nguyện chung với nhau.

Sau 3 năm người ta nhận được những kết quả sau đây:

Đối với những cặp vợ chồng không bao giờ đi lễ, không cầu nguyện  thì cứ 4 cặp thì có 1 cặp ly dị. Tỷ lệ 1/4.

Đối với những cặp vợ chồng thường xuyên đi tham dự thánh lễ ngày Chúa nhật nhưng không cầu nguyện chung với nhau thì cứ 57 cặp có một cặp ly dị. Tỉ lệ 1/57.

Với những cặp vợ chồng thường xuyên tham dự thánh lễ Chúa nhật, thêm vào đó còn có thời giờ để đọc Thánh Kinh và cầu nguyện chung với nhau thì kết quả hết sức tốt đẹp. Cứ 500 cặp mới có một cặp ly dị. Tỉ lệ 1/500.

Căn cứ vào kết quả cuộc điều tra này chúng ta thấy: Việc vâng nghe Lời Chúa giữ một vai trò rất quan trọng trong đời sống gia đình. Không có đạo đức gia đình sẽ tan vỡ. Không có đạo đức sớm muộn gì thì gia đình cũng lâm vào cảnh bế tắc không tìm được lối ra. Không có đạo đức gia đình dễ biến thành hỏa ngục.

2. Bí quyết thứ hai đó là coi con cái là vốn quí nhất.

Hồi tháng 2-1988, một trận động đất lớn đã xảy ra tại Arménia thuộc liên bang Xô viết cũ làm cho nhiều người bị thiệt mạng. Trong trận động đất này có rất nhiều cảnh thương tâm. Tuy nhiên, câu chuyện sau đây đáng chúng ta lưu ý hơn cả.

Sau cơn động đất, cũng giống như hàng trăm ngàn người khác, có hai mẹ con bị vùi lấp dưới hàng trăm ngàn tấn đá và ciment. Nhưng may mắn là họ nằm lọt trong khoảng trống nhỏ chỉ vừa để cựa quậy mà thôi. Thực phẩm duy nhất của họ là một hũ mứt nhỏ. Đứa con gái kêu lên:

– Mẹ ơi! Con khát quá! Con muốn uống nước!

Tiếng kêu khát của đứa con gái nhỏ làm bà mẹ vừa đau lòng vừa lúng túng. Thế nhưng, tình mẫu tử đã gợi lên cho bà một ý nghĩ táo bạo. Đó là bà lấy chính những giọt máu cuối cùng của mình cho con bú để có thể cầm cự được với tử thần. Lúc đó, bà mẹ đáng thương sờ soạng xung quanh mình vớ được miếng kiếng nhỏ. Bà cắt ngón tay trỏ của mình đút vào miệng và nói với con:

– Con mút đi!

Sau khi mút một hồi lâu, đứa con lại bảo:

– Mẹ cắt ngón tay nữa cho con bú đi!

Bà mẹ liền cắt một ngón tay nữa, nhưng vì trời quá lạnh nên bà không còn cảm thấy còn đau đớn gì. Sau khi được cứu sống bà mẹ thuật lại rằng: “Lúc đó, tôi biết thế nào tôi cũng chết, nhưng tôi muốn cho con tôi được sống”.

Vì con cái là vốn quí nhất, nên các thánh Giuse và Đức Mẹ sẵn sàng hi sinh tất cả, chỉ mong con mình được an toàn.

3. Bí quyết thứ ba đó là con cái luôn hiếu thảo với cha mẹ.

Lịch sử thuật lại rằng, Tổng thống George Washington, một trong những nhà anh hùng của nền độc lập Hoa Kỳ, là một người con luôn hiếu thảo đối với mẹ mình.

Sau những trận chiến cam go nơi sa trường, sau những cuộc họp căng thẳng với các chính khách, sau những công việc bề bộn của một nguyên thủ quốc gia, ông vẫn dành cả tiếng đồng hồ để về nhà thăm người mẹ hiền và trò chuyện với bà nhiều giờ.

Một hôm, thấy con đã vất vả công việc quốc gia, lại còn mất nhiều thời giờ thăm viêng, an ủi mình, bà mẹ mới hỏi ông:

   – Tại sao con lại chịu khó mất hàng giờ như vậy để ngồi bên cạnh mẹ?

Vị tổng thống vĩ đại của nước Mỹ đã trả lời:

  –  Thưa mẹ, ngồi bên cạnh để lắng nghe mẹ nói, không phải là một việc mất thời giờ. Bởi vì, sự thanh thản và lòng nhân hậu của mẹ đã giúp con vui sống.

Chẳng cần phải nói nhiều chúng ta cũng có thể thấy: Ðức Giêsu là một người con rất hiếu thảo. Tin Mừng tóm tắt cuộc đời thơ ấu của Chúa bằng một câu ngắn gọn: “Sau đó Người đi xuống cùng với cha mẹ trở về Nazareth và hằng vâng phục các Ngài” (Lc 2,51).

Lạy Chúa Giêsu,

Xin nhìn đến gia đình chúng con,
xin biến nó thành nơi sản sinh những con người tốt.

Ước gì xã hội chúng con lành mạnh hơn,
Giáo hội thánh thiện hơn,
nhờ có những con người khỏe mạnh,
khôn ngoan và tràn đầy ơn Chúa. Amen.

Chúng con yêu quí,

Chúng ta đang sống trong những ngày mừng Chúa Giáng sinh.

Nhìn vào máng cỏ Belem, chúng ta thấy một gia đình. Gia đình này cũng giống như những gia đình khác trên thế giới từ trước đến nay. Chúng con thấy gia đình này gồm những ai? Nếu nhìn với đôi mắt bình thường của một con người thì chúng ta thấy có một người làm cha. Đó là ông Giuse. Có một người làm mẹ. Đó là bà Maria và có một người làm con . Đó là trẻ Giêsu.

Một gia đình có cha, có mẹ và có con. Đúng là một gia đình thật sự. Một gia đình có một người được gọi là cha, một người được gọi là mẹ và một người nữa được gọi là con và nếu phải xếp  hạng theo cái nhìn thông thường của chúng ta thì chúng ta thấy:

Người giữ vai trò số một trong gia đình này nhất định phải là thánh Giuse

Sau đó mới đến Đức Mẹ và cuối cùng mới là Chúa Giêsu.

Có phải đúng như vậy không chúng con?

Nhưng nếu đưa mắt nhìn cao và nhìn xa hơn một chút thì chúng ta sẽ thấy suy nghĩ như thế xem ra chưa hợp lý lắm.

Bây giờ chúng ta hãy nhìn vào bài Tin Mừng hôm nay. Nhìn và suy nghĩ một chút chúng ta sẽ thấy có một điều gì đó hơi khác thường.

Điều khác thường đầu tiên đó là việc Chúa Giêsu tự ý ở lại đền thờ sau khi đã thi hành các điều luật đòi hỏi.

Chúa Giêsu tự ý ở lại đền thờ.

Chúa Giêsu tự ý ở lại đền thờ mà không có phép của cha mẹ. Chúng con có thấy Chúa Giêsu xin phép cha mẹ để ở lại hay không? Tin Mừng không cho chúng ta thấy điều đó. Rồi sau khi Thánh Giuse và Đức Mẹ trở lại và tìm thấy Chúa, thì Chúa cũng không một lời xin lỗi. Lúc Đức mẹ đưa ra lý do: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” Chúng ta tưởng Chúa Giêsu sẽ lên tiếng xin lỗi rối rít! Nhưng không! Chúa Giêsu không làm như chúng ta tưởng mà ngài lại còn trả lời như là ngài có quyền làm như vậy. Đây chúng con nghe: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao? “Lạ quá! Chúa Giêsu không phải là con mình sao? Tại sao ngài nói thế. Và chúng con thấy Tin Mừng chỉ còn biết cách ghi lại. “Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói.” Vâng! khó hiểu thật. Chúa Giêsu nói về công việc của Thiên Chúa Cha và Chúa Giêsu coi công việc của Thiên Chúa Cha mới là công việc chính mình phải chu toàn.

Đó là điều khác thường thứ nhất. Và điều khác thường thứ hai còn khó hiểu hơn.

Hãy nhìn lại bài Tin Mừng chúng ta sẽ thấy. Đây nguyên văn trong Tin Mừng: “Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nagiaréth và hằng vâng phục các ngài.“(Lc 2,51)

Hãy đọc lại từng chữ những lời mà thánh Luca ghi lại: “Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nagiaréth và hằng vâng phục các ngài.”(Lc 2,51)

Chúa Giêsu về sống trong gia đình ở Nagiareth. Ở đó Chúa Giêsu sống như thế nào trong suốt 30 năm trời chúng con? Chúa Giêsu đã vâng lời thánh Giuse và Đức Maria. 30 năm trời, Chúa Giêsu Con của Thiên Chúa hay nói chính xác hơn Ngài cũng chính là Thiên Chúa, Thiên Chúa nhập thể làm người. Thiên Chúa vâng lời hai ông bà. Một Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá vâng lời những thụ tạo! Vâng lời suốt 30 năm trời như vậy, như một người con hiếu thảo. Điều đó có lạ lùng không? Quá lạ lùng chứ! Một Thiên Chúa vâng lời những thụ tạo suốt 30 năm trời. Lạ lùng quá!

Cha hỏi chúng con Chúa Giêsu làm như thế để làm gì? Có nhiều cách trả lời nhưng cách hay nhất cha tưởng đó là để làm gương cho chúng ta.

Chúa Giêsu trong gia đình Nagiareth, mặc dù là Thiên Chúa nhưng theo sự xếp đặt của Thiên Chúa Cha, Ngài cũng là một người con. Mà đã là con thì có bổn phận là phải vâng lời cha mẹ. Đức Maria và thánh Giuse tuy chỉ là những con người nhưng trong chương trình cứu độ, Thiên Chúa đã xếp đặt để các ngài đóng vai trò làm cha làm mẹ của một gia đình. Đó là ý định của Thiên Chúa cho nên tất cả phải khiêm tốn chu toàn.

Như vậy chúng con thấy bài học Chúa để lại là một bài học quan trọng như thế nào.

Sự vâng lời rất quan trọng trong cuộc đời, nhất là cuộc đời của những người làm con Thiên Chúa.

Vì không vâng lời Thiên Chúa mà tổ tiên của loài người đã để lại những hậu quả đau buồn cho cả nhân loại!

Ngược lại, vì biết vâng lời Thiên Chúa mà Abraham đã trở thành cha của những người tin.

Giả như Đức Mẹ đã không nói lên hai tiếng Xin Vâng thì không biết lịch sử nhân loại và thế giới sẽ ra sao.

Trong một làng kia, ở bên Italia, có một người nông dân rất khô khan nguội lạnh, không sống đạo theo đức tin của mình. Một sáng Chúa Nhật nọ, ông bảo đứa con trai lên 11 tuổi rằng:

– Sáng nay, con ra đồng làm việc với ba nhé!

Cậu bé điềm tĩnh trả lời:

– Thưa ba! hôm nay là Chúa Nhật mà!

Người Cha ngạc nhiên hỏi lại:

– Chúa Nhật thì đã làm sao nào? Bộ Chúa Nhật là không làm việc được hả? Ý con thế nào?

– Thưa Ba, con muốn nói là giới răn thứ 03 Chúa dạy phải thánh hoá ngày Chúa Nhật, phải cầu nguyện và nghỉ ngơi trong ngày này.

Nghe vậy, người Cha bực tức gắt lên:

– Giới răn là  cái quái gì! Các giới răn là để cho mấy đứa con nít kìa. Còn mày đã lớn rồi, đâu cần nữa!

Một ý tưởng loé lên trong trí, cậu bé nhanh nhẩu thưa lại:

– Thưa ba, nếu ba nghĩ vậy thì con không phải tuân giữa các giới răn của Chúa nữa. Điều đó cũng có nghĩa là con khỏi phải tuân giữ giới răn thứ 04 Chúa dạy phải vâng lời cha mẹ phải không?

Người Cha đành im lặng, không biết phải trả lời con làm sao, và ông không bắt đứa con ra đồng làm việc nữa. Trong bụng, ông nghĩ thầm là con mình có lý!

Cha xin kết thúc bằng lời khuyên của Thánh Tông đồ gửi cho Giáo đoàn Colosé: “Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa.”(Col 3,22)

Ngày Đức Roncalli (về sau là Giáo Hoàng Gioan XXIII) thụ phong Giám mục, ngài được vào yết kiến Đức Piô X để tạ ơn. Đức Giáo Hoàng hỏi:

– Con chọn khẩu hiệu nào?

– Thưa “Vâng phục và bình an”.

– Tại sao con chọn khẩu hiệu đó?

– Thưa Đức Thánh Cha, lúc con còn là học sinh, chiều nào con cũng thấy Hồng Y Daronius đã già cả đi qua công trường Thánh Phêrô. Mỗi lần như thế, ngài đều lấy một ít tiền tặng cho các người nghèo, đoạn vào thẳng đền thờ Thánh Phêrô, đến ngay trước tượng Thánh nhân và hôn chân ngài, rồi gục đầu vào chân tượng, đọc thực lớn tiếng: “Vâng phục và bình an”, Ai ở gần đó đều có thể nghe được. Đọc xong, Hồng Y khả kính đó đến quỳ gối cầu nguyện trước mồ thánh Phêrô, tỏ lòng cung kính, vâng phục và trung thành với Hội Thánh rồi ra về. Hình ảnh cao đẹp và tiếng nói đanh thép ấy đã ghi sâu vào tâm trí con, nên con chọn câu nói ấy làm khẩu hiệu.

Nghe qua Đức Thánh Cha rất cảm động, hài lòng và đưa bàn tay chúc lành cho tân Giám mục Roncalli. Khẩu  hiệu ấy đã được vị Giám mục thực hiện trong suốt cả đời ngài, kể cả lúc ngài trở thành Giáo Hoàng. Chính khẩu hiệu này đã giúp ngài trở thành thánh: Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII sau này. Amen.

Trong giờ phút linh thiêng thánh thiện này, chúng ta hãy trút bỏ mọi tâm tư trần tục để chú tâm vào màu nhiệm vừa được mạc khải cho chúng ta qua lời thiên thần: “Hôm nay, Chúa Kitô, Đấng Cứu thế đã giáng sinh cho anh em”.

1. Ngài giáng sinh một cách lạ lùng ư?

Không, Ngài sinh ra như mọi người. Ngài xuất hiện nhẹ nhàng trong đêm đông cô tịch. Ngài không tìm được một chỗ trong hàng quán. Phúc âm viết rõ như vậy. Thân mẫu Ngài đã hạ sinh Ngài trong nơi hang súc vật ngoài đồng vắng. Ngài đã khởi sự cuộc đời trong tinh thần từ bỏ, khó nghèo và đơn sơ và Ngài sẽ lớn lên trong tinh thần ấy. Với tấm thân đã chịu đựng được những thiếu thốn, khổ sở ngay từ khi được sinh ra, Ngài sẽ chẳng bao giờ coi tiện nghi vật chất làm quan trọng. Thiên Chúa giáng sinh làm người. Ngài không xuống trần để tìm kiếm của cải thế gian. Ngài không màng đến vàng bạc và phô trương giầu có. Ngài kêu gọi trước hết đám mục đồng đang thức canh đàn vật trong đêm tối.

Khi vào hang đá đúng như lời chỉ dẫn của thiên thần, họ chỉ thấy một hài nhi mới sinh bọc trong khăn vải và nằm trong máng cỏ. Thiên Chúa giáng sinh vẫn giữ một cung cách khiêm tốn, thanh bần và bình dị như thế.

2. Vì sao Ngài lại chủ ý làm như vậy?

Có nhiều câu trả lời nhưng câu trả lời cụ thể và gần với con người chúng ta nhất là vì Ngài muốn chia sẻ kiếp sống làm người của chúng ta.

Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Philipphê đã diễn tã thật hay như sau:

Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế.(Pl 2,69)

Chia sẻ không phải bố thí, cũng không phải là ban ơn. Bố thí và ban ơn là đứng từ trên cao ban xuống và chỉ cho đi những gì dư thừa. Chia sẻ là đứng ngang hàng và cho đi những gì chính bản thân mình đang cần. Hiểu được như thế, chúng ta mới thấy được Đức Giêsu chính là mẫu gương chia sẻ.

Đức Giêsu là Thiên Chúa, Ngài có thể ngự trên trời, dùng quyền năng mà cứu độ nhân loại, nhưng vì muốn chia sẻ với nhân loại, nên Ngài đã xuống thế làm người để ở với nhân loại.

Vì muốn chia sẻ, Ngài đã tự huỷ mình khỏi thân phận Thiên Chúa.

Vì muốn chia sẻ, Ngài đã không ngần ngại chọn xuống chỗ bé nhỏ rốt cùng của thân phận con người.

Vì muốn chia sẻ, nên Ngài đã tự nguyện nếm cảm hết những đau khổ mà con người có thể gặp. Ta đau khổ vì cảnh nghèo ư? Chính Ngài cùng chia sẻ với ta cảnh khó nghèo, đói khát, lạnh lẽo.

Ta đã chịu nhiều đau khổ ư? Chính Ngài chia sẻ với ta những thất bại, bị phản bội, bị hành hạ và chết cô đơn nhục nhã.

Ngài chia sẻ với mọi người dù ở những hoàn cảnh khốn cùng, khắc nghiệt nhất của cuộc sống.

Nằm trong hang đá nghèo hèn, với bầy chiên bò, giữa đêm đông giá rét, Đức Giêsu trở nên một lời mời gọi chia sẻ.

Giờ đây, Ngài chỉ là một em bé sơ sinh yếu ớt cần đến sự giúp đỡ của ta. Đêm đông lạnh lẽo, Ngài cần đến cả hơi thở của con bò để sưởi ấm tấm thân.

Khi trốn sang Ai cập, Ngài cần nhờ con lừa chở đi. Khi còn thơ bé, Ngài cần bàn tay săn sóc nâng niu của Đức Mẹ và thánh Giuse.

Khi đi rao giảng, Ngài cần có bạn bè giúp đỡ. Khi cầu nguyện trong vườn Cây Dầu, Ngài bộc bạch lỗi buồn mong được các môn đệ an ủi.

Khi vác thánh giá, Ngài yếu nhược phải nhờ đến ông Simon giúp sức.

Ngài hoá thân làm một con người yếu ớt nhất, túng thiếu nhất, khốn cùng nhất, đau khổ nhất, để mời gọi ta biết mở rộng tâm hồn chia sẻ.

Ngài sẵn sàng đón nhận sự giúp đỡ, dù rất bé nhỏ, kể cả của súc vật, để mời gọi ta quảng đại.

Hôm nay, lời mời gọi chia sẻ ấy vẫn vang lên rất thiết tha, rất khẩn cấp. Đức Giêsu vẫn đang lên tiếng kêu cứu qua những trẻ em mồ côi, không nơi nương tựa, không những không được chăm sóc, không có cơ hội đến trường, mà còn bị hất hủi, bị lạm dụng, bị xâm hại. Đức Giêsu vẫn đang âm thầm nhẫn nhục trong số phận hẩm hiu của những người bị quên lãng. Đức Giêsu vẫn đang oằn vai ghánh nặng trong kiếp lầm than của những người nghèo nàn, vất vả vật lộn với cuộc sống. Đức Giêsu vẫn đang quằn quại trong những tấm thân gầy mòn bị cơn bệnh nan y gặm nhấm. Đức Giêsu cẫn đang tức tưởi trong những người thất bại, không tìm thấy tia sáng hy vọng cho tương lai.

Hãy mở rộng tâm hồn để chia sẻ, vì khi mở rộng tâm hồn chia sẻ, ta đón nhận ơn Chúa. Chính khi mở rộng tâm hồn để chia sẻ, ta đáp lại lời mời gọi của Đức Giêsu bé thơ trong hang đá Bêlem.

Xin gởi đến anh chị em câu chuyện này: Hai bố con lái xe xuống khu thị tứ để mua sắm. Cô bé học lớp bốn hỏi bố:

– Nhiều bạn trong trường con nói không có ông Noel. Các bạn nói con là ngốc khi tin rằng ông có thật, nhưng con tin vào những gì bố bảo với con phải không bố?

Xe ghé vào bên đường và tắt máy. Cô con gái bé bỏng vẫn đang ngổn ngang bao suy nghĩ.

  • Các bạn ở trường đã sai, con yêu ạ! Ông Noel có thật. Nhưng bố cần kể cho con nghe thêm về ông Noel. Bố nghĩ con đã đủ lớn để hiểu những gì bố sẽ chia sẻ với con.

Người cha nhìn con trìu mến và tiếp:

  • Ngày xưa có một người đàn ông đi đây đó khắp thế giới thưởng quà cho những đứa trẻ trên đường ông qua. Ông được biết đến ở nhiều nơi với nhiều tên gọi khác nhau, nhưng tình thương trong tim ông đều như nhau dù ở bất cứ nơi đâu. Ông là tâm hồn thương yêu tuyệt đối và mong muốn chia sẻ tình thương đó bằng cách tặng quà với cả con tim của mình. Tinh thần và cuộc sống thật sự của ông già thần thoại đáng yêu này mãi mãi nằm trong tim của con, tim của bố, tim của mẹ, cũng như trong tim của tất cả những người tin vào việc mang lại niềm vui cho người khác. Tinh thần thật sự của ông già Noel là những gì con mang tặng thay vì những gì con nhận được. Khi con nhận thức được điều này và khi nó trở thành một phần trong con. Giáng sinh sẽ trở nên thú vị hơn và huyền ảo hơn vì con đã lĩnh hội được điều kỳ ảo về ông già Noel khi ông tồn tại trong con. Con có hiểu những gì bố nói không ?

Cô bé nhìn ra ngoài cửa sổ vào hàng cây phía trước. Cô sợ nhìn vào bố, người từng bảo với cô rằng ông già Noel có thật. Cô muốn tin như cô đã tin hồi năm ngoái rằng ông già Noel là một ông già vui tính, to béo, mặc đồ đỏ. Cô không muốn phải trưởng thành và nhận thức bất kỳ điều gì khác.

  • Nhìn bố này – người bố chờ và cô bé quay sang nhìn ông.

Người bố đang khóc, những giọt nước mắt sung sướng. Khuôn mặt ông ngời sáng bằng ánh sáng của cả ngàn dải Ngân hà, và cô bé như thấy trong mắt ông đôi mắt của ông già Noel. Ông Noel thật sự, người đã bỏ nhiều thời gian chọn lựa những món quà đặc biệt mà cô mong ước trong những mùa Giáng sinh đã qua kể từ khi cô có mặt trên đời này. Ông Noel đã dùng món bánh mà cô bõ công trang trí cũng như uống sữa nóng cô pha. Cô đã nhận ra niềm hạnh phúc, sự chia sẻ, tình thương. Người bố ôm ghì con trong vòng tay ấm áp của mình và cứ ôm thế rất lâu. Cả hai đều khóc.

  • Giờ thì con đã thuộc một nhóm người đặc biệt. Kể từ bây giờ con sẽ được chia sẻ niềm vui Giáng Sinh mỗi ngày của năm, chứ không còn chỉ trong một ngày đặc biệt nữa. Từ bây giờ, ông già Noel sống trong tâm hồn Bố. Trách nhiệm của con là tuân theo tinh thần mang đến niềm vui cho con người khác như con là một phần của ông già Noel đang sống trong con. Đây là điều quan trọng nhất xảy ra với con trong cuộc đời mình, vì bây giờ con đã hiểu rằng ông già Noel không thể nào tồn tại nếu không có những người khiến ông được sống mãi. Con có thể chu toàn việc này không ?

Tim cô bé muốn vỡ ra vì hãnh diện, và cô tin mắt mình đang tỏa ra niềm hạnh phúc. Cô đáp:

– Thưa bố, con muốn ông mãi trong tim con như ông đã sống trong tim bố. Con yêu bố. Bố là ông già Noel tuyệt vời nhất trên thế giới này. Ông Noel không mặc đồ đỏ của con.

Lạy Chúa Giêsu bé thơ, xin dạy con biết sống trọn vẹn mầu nhiệm Giáng sinh bằng mở lòng ra chia sẻ với mọi người. Amen.

Chúng con thân mến!

Cùng với hàng triệu triệu người đang sống trên thế giới hôm nay, chúng ta hãy kính cẩn cúi đầu mừng lể Giáng sinh của Chúa.

Như lời thiên thần đã loan báo thật long trọng: “Hôm nay, Chúa Kitô, Đấng Cứu thế đã giáng sinh cho anh em”.

1. Phải chăng Chúa đã giáng sinh một cách lạ lùng ư?

Không, Ngài được sinh ra bình thường như mọi người. Ngài xuất hiện nhẹ nhàng trong đêm đông cô tịch. Ngài không tìm được một chỗ trong hàng quán. Phúc âm viết rõ như vậy. Đức Mẹ Maria, thân mẫu Ngài đã hạ sinh Ngài trong nơi hang súc vật ngoài đồng vắng. Ngài đã khởi sự cuộc đời trong tinh thần từ bỏ, khó nghèo và đơn sơ và Ngài sẽ lớn lên trong tinh thần ấy. Với tấm thân đã chịu đựng được những thiếu thốn, khổ sở ngay từ khi được sinh ra, Ngài sẽ chẳng bao giờ coi tiện nghi vật chất làm quan trọng.

Thiên Chúa giáng sinh làm người. Ngài không xuống trần để tìm kiếm của cải thế gian. Ngài không màng đến vàng bạc và phô trương giầu có. Ngài kêu gọi trước hết đám mục đồng đang thức canh đàn vật trong đêm tối.

Khi vào hang đá đúng như lời chỉ dẫn của thiên thần, họ chỉ thấy một hài nhi mới sinh bọc trong khăn vải và nằm trong máng cỏ. Thiên Chúa giáng sinh vẫn giữ một cung cách khiêm tốn, thanh bần và bình dị như thế.

2. Tại sao Chúa lại chủ ý làm như vậy?

Có nhiều câu trả lời nhưng câu trả lời cụ thể và gần với con người chúng ta nhất là vì Ngài muốn chia sẻ kiếp sống làm người của chúng ta.

Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Philipphê đã diễn tã thật hay như sau:

“Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế.(Pl 2,69)

Chia sẻ không phải bố thí, cũng không phải là ban ơn. Bố thí và ban ơn là đứng từ trên cao ban xuống và chỉ cho đi những gì dư thừa. Chia sẻ là đứng ngang hàng và cho đi những gì chính bản thân mình đang cần. Hiểu được như thế, chúng ta mới thấy được Đức Giêsu chính là mẫu gương chia sẻ.

Văn hào Guenter Eich có viết một vở kịch nhan đề: “Festiamus, Người Tử đạo”,với đại ý như sau:

Festiamus là người tốt lành, đơn sơ hiếm có. Mặc dù sống giữa những người gian ác, chàng vẫn luôn luôn cư xử đoan chính, giàu lòng thương đối với những kẻ bần cùng.

Sau khi chết, chàng bay tới thiên đàng. Ở đó, sau khi làm quen với các thánh, chàng để mấy ngày để đi kiếm cha mẹ, anh em và những bạn hữu xưa, nhưng không thấy ai. Chàng liền hỏi các thánh, nhưng không ai trả lời. Cuối cùng, thánh Phêrô bảo:

– Cha mẹ và bạn hữu con, họ hàng con, ngày xưa đều ăn ở gian ác, nên bây giờ họ đều ở dưới kia kìa, dưới hỏa ngục ấy!

Nghe tới đây, Festiamus liền hiểu ngay. Chàng cáo biệt các thánh và xin với thánh Phêrô:

– Con không thể ở nơi đây được khi còn nhiều người phải chịu đau khổ dưới kia.

Rồi chàng rời bỏ thiên đàng, xuống hỏa ngục để thăm cha mẹ, bạn hữu với những người thân yêu khác. Chàng làm điều đó với tất cả xác tín rằng khi một người vô tội từ trời cao đến và sống với những người bị kết án, cùng chia sẻ thân phận của họ, thì người  đó có thể phá tung địa ngục và vòng phong tỏa của quỉ ma.

Đức Giêsu là Thiên Chúa, Ngài có thể ngự trên trời, dùng quyền năng mà cứu độ nhân loại, nhưng vì muốn chia sẻ với nhân loại, nên Ngài đã xuống thế làm người để ở và cứu vớt nhân loại.

3. Hãy bắt chước Chúa sống yêu thương đối với mọi người.

Louis, bá tước miền Bourgogne, vốn là cháu ruột của vua Louis XIV, ngay từ thời thơ ấu đã nổi tiếng là một cậu bé giàu lòng nhân hậu: Sau này, khi đang làm quan tại triều đình, một hôm, ông đi từ nhà riêng ở tỉnh đến cung điện Versailles đúng vào lúc thủ đô Paris xảy ra nạn đói dữ đội. Đám đông những người nghèo khổ trông thấy ông, vội chạy đến xin ông giúp đỡ cái ăn cái uống. Thoạt đầu, sau khi bàng hoàng trước cảnh tượng đáng thương, ông xuống xe giốc hết tiền bạc mang theo để chia sẻ cho mọi người

Thấy vẫn không thấm vào đâu, ông nhanh nhẹn gỡ hết những huân chương và huy chương có nạm ngọc quí và dát vàng chói lói đang đeo trên ngực, rồi quay lại bảo người hầu cận:

– Ta làm  quan lớn trong triều mà không biết đến tình cảnh trăm họ, để đến nỗi xảy ra nạn đói thê thảm như thế này, quả thật đáng tội với dân với nước. Ta không đáng được đeo những thứ vinh quang bề ngoài này nữa. Anh hãy cầm lấy tất cả, rồi chạy đi tìm cách bán hết cho ta, lấy tiền mà mua bánh mì và đem lại đây phân phát giúp ta.

Hãy mở rộng tâm hồn để chia sẻ, vì khi mở rộng tâm hồn chia sẻ, ta đón nhận ơn Chúa. Chính khi mở rộng tâm hồn để chia sẻ, ta đáp lại lời mời gọi của Đức Giêsu bé thơ trong hang đá Bêlem.

Lạy Chúa Giêsu bé thơ, xin dạy con biết sống trọn vẹn mầu nhiệm Giáng sinh bằng mở lòng ra chia sẻ với mọi người. Amen.

Chúng ta vừa được thánh Luca tường thuật lại cho chúng ta một câu chuyện thật đẹp, có một không hai trong Lịch sử loài người: Chuyện Đức Maria, mẹ của Thiên Chúa nhập thể làm người đi thăm người chị họ già cả của mình trong lúc bà đang cưu mang một người con của ân điển trong lòng. Phải nói rằng đây là một câu chuyện tuyệt đẹp đặc biệt vì nó mang lại những hiệu quả tuyệt vời cho cả người viếng thăm và người được thăm viếng.

Với người được viếng thăm thì con của bà nhận được hồng ân cao cả là được khỏi tội nguyên tổ ngay từ khi còn ở trong lòng mẹ. Với người đi thăm viếng thì cuộc viếng thăm đã là một cơ hội cho sự ra đời của một bài ca ca tụng tình thương của Thiên Chúa đẹp đến mức độ Giáo Hội đã phải dùng để cầu nguyện hằng ngày cho những giây phút thánh thiêng nhất để kết thúc một ngày sống trên đời. Bài ca đó là bài ca Magnificat- Linh hôn tôi ngợi khen Đức Chúa…

Trong bài ca này, hầu như Đức Maria đã không nài xin gì cùng Thiên Chúa, kể cả những điều chính đáng và cần thiết nhất cho cuộc đời của mình. Chẳng hạn như xin được bình an, khỏe mạnh trong thời mang thai, xin cho mẹ tròn con vuông khi sinh, xin cho thánh Giuse làm ăn khá giả để nuôi gia đình, xin cho mình được thánh thiện đóng tròn vai trò làm Mẹ Thiên Chúa.

Tất cả những điều đó giả sử Đức Maria có xin thì cũng là chính đáng. Tuy nhiên Người đã không xin vì Người hiểu rằng tạ ơn thì tốt hơn là xin ơn. Người chỉ nói lên niềm vui đang dâng lên trong lòng mình, rồi biến niềm vui đó thành lời chúc tụng: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa. Tâm trí tôi hớn hở reo mừng trong Chúa là Đấng Cứu dộ tôi”. Lời ngợi khen dâng lên tự phát, nhẹ nhàng, hồn nhiên, không cầu kỳ, gò bó, gọt dũa.

Chúng ta tự hỏi: Tại sao đức Maria lại có thể đem hết tâm trí để chúc tụng Thiên Chúa như vậy?

Có hai lý do: Người biết sống phó thác và Người có tâm hồn nhạy cảm.

+ Trước hết Đức Maria biết sống phó thác.

Phó thác là thế nào?

Vào một ngày thu, chim quạ nói chuyện với chim én chưa đầy một tuổi :

– Như tôi thấy, em sắp sửa đi xa phải không? Em đi đâu vậy?

Én trả lời:

– Ở đây trời sẽ lạnh hơn, em chịu lạnh không được, nên sẽ bay đến một miền ấm áp hơn.

Chim quạ chế nhạo:

– Nhưng em mới sinh ra vài tháng thôi, sao em biết có một miền ấm áp hơn để em không vì chết lạnh ?

Én trả lời:

Thiên Chúa, Đấng đặt trong lòng em cái mong ước tìm về một nơi ấm áp, sẽ không bao giờ phỉnh gạt em đâu. Em tin vào Đấng đó, nên em sẽ bay đi.

Người sống phó thác là người có một niềm tin tương tự như vậy. Người đó luôn biết rằng có Thiên Chúa hướng dẫn đời mình. Mình được che chở, giữ gìn. Điều quan trọng không phải là cái gì sẽ xảy đến, nhưng là mình có tìm thấy ý Chúa trong những điều Chúa cho xảy đến với mình hay không. Nếu có tìm thì sự dữ cũng có thể trở thành sự lành. Và như vậy thì vẫn có thể an tâm.

Người cũng tin chắc rằng: người càng nghèo khó và bất hạnh thì càng được Thiên Chúa che chở, giữ gìn. Bởi thế Người mới nói: “Người nghèo đói được no đầy ơn phúc. Kẻ giàu sang bị đuổi về tay không”. Và người khiêm tốn nhận mình thuộc hạng nghèo khó, nghĩa là thuộc hạng người có phúc. Vì thế càng phải chúc tụng Thiên Chúa hơn.

+ Tiếp đến Đức Maria còn có tâm hồn nhạy cảm

Nhạy cảm với cái tốt đẹp và những niềm vui là những điều không thế không có trong cuộc sống. Nếu chỉ thấy toàn đau buồn trong cuộc sống thì không thể chúc tụng mà cuộc đời chỉ có thể buồn chán, than vãn.

Đây là những lời rất hay của một bài thơ

Cuộc sống như một cơ may, hãy nắm lấy nó.

Cuộc sống như một nỗi buồn, hãy vuợt qua nó.

Cuộc sống thì rất đẹp, hãy chiêm ngưỡng nó.

Cuộc sống như một lời hứa, hãy cố thực hiện.

Cuộc sống như một giấc mơ, hãy đón nhận nó.

Cuộc sống như một sự bí ẩn, hãy khám phá nó.

Cuộc sống như một thử thách, hãy đáp ứng nó.

Cuộc sống như một sự phiêu lưu, hãy can đảm lên.

Cuộc sống như một trò chơi, hãy chơi với nó.

Cuộc sống như một bài ca, hãy reo hò cùng với nó.

Cuộc sống như một gia tài, hãy giữ gìn nó.

Và cuộc sống thì vô cùng tuyệt vời, đừng bao giờ phá hủy nó.

Cuộc sống như một tình yêu, hãy thưởng thức nó.

Phải là những người biết nhạy cảm lắm mới có thể cảm nghiệm được những giá trị của những niềm vui nỗi buồn của cuộc sống.

Đức mẹ luôn nhạy cảm với các ơn mà Thiên Chúa ban cho mình mỗi ngày. Những ơn này Chúa thường ban một cách thật kín đáo qua một cuộc sống không có gì là hào nhoáng. Ơn của Chúa không bao giờ thiếu, nhưng phải biết nhận ra. Cần có con mắt thật tinh, lòng thật ngay. Mắt tâm hồn Đức Maria luôn thật tinh và lòng Người thật ngay vì thế Người nhận thấy đời mình tràn đầy ơn phúc: “Đấng Toàn năng đã làm cho tôi những điều cao cả”.

Ngoài những ơn cá nhân Đức Maria còn nhạy cảm với những ơn Thiên Chúa ban cho toàn dân mình suốt chiều dài của lịch sử dân tộc. Ơn Chúa bao trùm tất cả lịch sử Israel, từ Abraham cho đến muôn đời. Đó cũng lại là một lý do để dâng lời chúc tụng.

Chúng ta hãy tập cho mình có được lời cầu kinh chúc tụng Thiên Chúa như Đức Mẹ Maria. Vì chỉ khi nào chúng ta biết cầu nguyện như thế thì lời cầu nguyện của chúng ta mới đẹp lòng Chúa và ơn Chúa sẽ đến với chúng ta.

Phải nhìn nhận rằng cách chúng ta cầu nguyện và cách chúng ta sống gắn liền nhau. Sống cách nào thì sẽ cầu nguyện như vậy. Cách cầu nguyện phản chiếu cách sống của mỗi người. Điều đó có nghĩa là chỉ khi nào chúng ta theo gương Đức Maria trong cách sống của Người thì chúng ta mới có thể theo gương Người trong cách cầu nguyện của Người.

Một linh mục để ý người đàn bà đang ngồi trong nhà thờ trống vắng, hai tay ôm đầu. Một giờ, rồi hai giờ trôi qua và bà ta vẫn ngồi yên ở đấy.

Nghĩ rằng bà đang có chuyện đau khổ trong tâm hồn và ao ước được giúp đỡ, ngài đứng dậy đến bên bà và nói

– Tôi có thể giúp bà được gì không?

Bà nói

– Thưa cha không! Con cám ơn cha. Con đang có tất cả những điều con cần.

Các người láng giềng của nhà thần bí Hồi giáo, Farid, đã thuyết phục ông đến kinh đô ở Delhi để xin hoàng đế Akhar ban cho dân làng một ân huệ. Farid đến cung điện và gặp lúc Akhar đang đắm mình cầu nguyện.

Khi hoàng đế cầu nguyện xong, Farid hỏi:

– Nhà vua vừa cầu nguyện như thế nào?

Vua đáp:

– Ta cầu xin Đấng nhân từ ban cho ta sự thành công, giàu có và được sống lâu.

Vừa nghe xong, Farid liền quay lưng lại và bỏ đi. Vừa đi ông vừa nói:

– Ta đến gặp một vị vua. Thế mà ta lại gặp một người ăn xin, không khác gì những hạng người khác!

Mẹ thánh Têrêsa nói cầu nguyện không phải là xin xỏ mà là phó thác. Mẹ Maria đã làm gương cho chúng ta điều đó.

Một nhân chứng đương thời với tổng thống A. Lincoln, kể lại rằng:

– Đêm ấy tôi không ngủ được. Tôi bèn thử dợt lại những gì phải nói trước công chúng sáng hôm sau đó. Đã quá nửa đêm, đúng ra là gần hừng đông. Chợt tôi nghe có tiếng thầm thì trong phòng Tổng Thống ngủ. Cửa phòng hé mở. Theo bản năng. Tôi bước lại gần và thấy một cảnh không thể nào quên được. Tôi thấy Tổng Thống đang quì bên một cuốn Kinh Thánh đang mở. Ánh sáng trong phòng chỉ vừa đủ. Lưng ngài quay về phía tôi nên không thấy tôi vào. Tôi đứng lặng một lúc, quá đỗi bàng hoàng và kinh ngạc. Rồi tôi nghe Tổng Thống cầu nguyện :

– Lạy Chúa, Chúa đã nghe lời cầu khấn của Salômon trong đêm khuya, xin cho được ơn khôn ngoan. Xin Chúa nhậm lời con đây, con không thể dẫn dắt dân tộc này nếu Chúa không ra tay giúp đỡ con. Con là kẻ nghèo hèn và tội lỗi. Lạy Chúa, Chúa đã nhậm lời cầu xin của Salômon, xin hãy nghe lời con nài van mà cứu lấy đất nước này!

Vâng chúng ta hãy cầu nguyện như thế để được Chúa nhậm lời. Amen.