Chúng con thân mến,

Hôm nay là ngày Chúa nhật Truyền giáo.

Truyền giáo là gì chúng con?

I. Chúng con vẫn nghe thấy người ta nói truyền thanh, truyền hình. Tuyền thanh là truyền âm thanh. Cha nhớ lại ngày xửa ngày xưa khi cha còn nhỏ, nhỏ như chúng con cha và mấy đứa bạn của cha lấy hai cái ống lon sữa bò… lấy một miếng bong bóng heo bịt lại rồi xỏ giây vào hai đầu… rồi giăng ra… rồi nói với nhau.

Giờ thì chúng con thấy khác xưa rất nhiều… người ta không truyền bằng giây đay mà là bằng giây kim loại. Ở nhà chúng con ai có điện thoại giơ tay cha coi. Rất hay… Điện thoại là truyền cái gì hả chúng con? Truyền âm thanh. Rất trúng. Bây giờ còn hơn truyền thanh… truyền gì nữa chúng con? Truyền hình… Rất trúng.

Lúc đầu cha nhớ… chỉ có hình trắng đen… nhưng bây giờ thì hình mầu… đẹp “hết biết” luôn. Và trong tương lai không xa người ta còn muốn truyền cả mùi nữa… Thật là kỳ diệu.

Cha hỏi chúng con muốn truyền như thế thì trước hết người ta phải làm gì nào chúng con?

Phải thu… phải thu thanh, phải thu hình.

Thỉnh thoảng nghe đài chúng con thấy người ta bảo truyền thanh, truyền hình trực tiếp. Trực tiếp nghĩa là làm sao?  Nghĩa là thu một cái rồi phát ngay. Người nghe hay người xem có thể thấy ngay những gì đang diễn ra ở một nơi nào đó trên thế giới này. Ai cho cha một thí dụ xem nào.

Thí dụ cụ thể nhất là bóng đá hay thế vận hội… Ở một nơi nào đó trên thế giới, các cầu thủ đang tranh tài ở trên sân cỏ, dù ở xa thật xa vậy mà đài truyền hình mang tất cả các hình ảnh thật sống động đó tới mình ngay làm cho mình có cảm tưởng là mình cũng đang có mặt để tham dự trận cầu đó vậy. Hay qua phải không chúng con?

II. Bây giờ cho nói về truyền giáo. Nếu có ai hỏi cha truyền giáo là gì thì cha có thể trả lời thật dễ hiểu như sau: Là đem Chúa đến cho người khác. Đem Chúa đến cho những người chưa biết Chúa.

Chúa Giêsu ngày xưa đã làm điều này trước tiên.

Thiên Chúa Cha là Đấng mà chẳng ai có thể biết được. Vậy mà Chúa Giêsu đã làm cho người ta biết được Thiên Chúa Cha. Chúa Giêsu làm hay lắm. Chúa vừa nói vừa làm. Chúa nói để người ta biết có một Thiên Chúa yêu thương con người. Rồi Chúa sống những lời Chúa dạy để qua cuộc sống của Chúa, người ta thấy được hình ảnh của Thiên Chúa Cha, một Thiên Chúa là tình yêu, luôn yêu thương hết mọi người.

Đây là một số thí dụ nhờ Chúa Giêsu mà người ta nhận ra được Thiên Chúa. Người ta thấy Thiên Chúa qua Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu nói: “Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha.(Ga 6,46)

Chúng con nhớ lại câu chuyện của Philipphê trong Tin Mừng Gioan Chương 14,8-11: Ông Philípphê nói: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện.”Đức Giêsu trả lời: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philípphê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha”? Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm”.

Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.

Đó chúng con thấy, Chúa Giêsu làm cho người ta thấy Thiên Chúa Cha.

Hôm đó Chúa cùng đi với các môn đệ của Chúa trên một con thuyền. Bỗng nhiên sóng gió bão táp nổi lên. Chúa dẹp yên sóng gió bão táp ngay. Những kẻ ở trong thuyền bái lạy Chúa và nói: Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa!”( Mt 14,33)

Ông Nathanaen nói: “Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa, chính Thầy là Vua Israel!” (Ga 1,49)

Ông Simôn Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.” (Mt 16,16)

Thấy động đất và các sự việc xảy ra, viên đại đội trưởng và những người cùng ông canh giữ Đức Giêsu đều rất đỗi sợ hãi và nói: “Quả thật ông này là Con Thiên Chúa.” (Mt 27,54)

Còn các thần ô uế, hễ thấy Đức Giêsu, thì sấp mình dưới chân Người và kêu lên: “Ông là Con Thiên Chúa!”( Mc 3,11) và kêu lớn tiếng rằng: “Lạy ông Giêsu, Con Thiên Chúa Tối Cao, chuyện tôi can gì đến ông? Nhân danh Thiên Chúa, tôi van ông đừng hành hạ tôi!”( Mc 5,7)

Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Đức Giêsu, thấy Chúa tắt thở trên Thánh Giá lạ lùng quá liền nói: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa.” (Mc 15,39)

Quỷ cũng xuất khỏi nhiều người, và la lên rằng: “Ông là Con Thiên Chúa!” Người quát mắng, không cho phép chúng nói, vì chúng biết Người là Đấng Kitô.( Lc 4,41)

Thấy Đức Giêsu, anh la lên, sấp mình dưới chân Người, và lớn tiếng nói rằng: “Lạy ông Giêsu, Con Thiên Chúa Tối Cao, chuyện tôi can gì đến ông? Tôi xin ông đừng hành hạ tôi !” (Lc 8,28)

Mọi người liền nói: “Vậy ông là Con Thiên Chúa sao?” Người đáp: “Đúng như các ông nói, chính tôi đây.”( Lc 22,70)

Nghe vậy, Đức Giêsu bảo: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh.”(Ga 11,27)

Bây giờ đến lượt chúng ta. Muốn đem Chúa đến cho người khác chúng ta phải làm gì? Trước hết phải biết Chúa trước. Cũng giống như người ta muốn truyền thanh, truyền hình thì phải thu trước. Thu bằng cách nào chúng con? Thưa bằng cách học về Chúa.

Không có thì không cho được. Muốn cho thì phải có.

Vậy phải biết Chúa trước đã.

Rồi thì phải làm gì tiếp theo?

Có thể có nhiều cách nhưng cách tốt nhất và có thể mang lại nhiều kết quả nhất đó lá cách làm chứng. Làm chứng bằng chính đời sống tốt đẹp thánh thiện của mình. Cha kể cho chúng con câu chuyện này:

Linh mục NATARINÔ ROCHKY, một thừa sai người Italia làm việc truyền giáo lâu năm ở Nhật Bản, đặc biệt là Ngài làm Cha sở họ đạo Elsaye. Cách thủ đô Tôkyô khoảng 100 km. Ngài kể lại câu chuyện sau đây: “Có một giáo sư đại học trẻ tuổi người Nhật xin gặp tôi mỗi tuần 2 buổi tối để thảo luận về các vấn đề tôn giáo và Phúc Âm, mặc dù ông chưa phải là tín hữu Công giáo. Những thảo luận như vậy kéo dài hơn một năm trời. Vị giáo sư này trình bày cho tôi những nghi ngờ, thắc mắc về đạo, đồng thời ông cũng xin tôi giải thích thêm về Phúc Âm, về Giáo hội và về luân lý của đạo công giáo.

Sau hơn một năm, tôi cảm thấy vị giáo sư thông minh đó có vẻ sẵn sàng đón nhận Bí Tích Thánh Tẩy, nên tôi hỏi ông có muốn được rửa tội và gia nhập vào Hội thánh Công Giáo hay không. Tôi ngạc nhiên khi thấy ông từ chối cách lịch sự. Và từ đó, tôi không thấy không lui tới với tôi nữa… Bẵng đi hơn 10 tháng, khi tôi hầu như đã quên đi vị giáo sư đó, thì một hôm. Ông trở lại gặp tôi và nói:

Thưa cha, cha đã thuyết phục được con. Bây giờ con sẵn sàng đón nhận Bí Tích Rửa tội và con cũng đã chuẩn bị cho vợ con cũng như hai đứa con của con.

Nghe đến đây, tôi rất ngạc nhiên. Tôi hỏi ông điều gì đã khiến ông thay đổi ý kiến như thế. Ông ta đáp:

          – Trong những tháng qua, con đã âm thầm quan sát xem cha đã sống như thế nào. Cha đã từng nói với con rằng cha thường dâng thánh lễ một mình trong nhà thời mỗi ngày lúc 7 giờ sáng. Đó cũng là giờ con ra ga xe lửa để đến Tôkyô dạy học, vì thế con vẫn có dịp đi qua nhà thờ của cha. Con dừng lại một lát nhìn cha qua cửa sổ, xem cha làm gì trong đó. Bao giờ con cũng thấy cha trong nhà thờ và cầu nguyện thật sốt sắng. Ngoài ra, con cũng dò hỏi nhiều người về cách sống của cha. Qua các cuộc điều tra đó, con thấy quả thật cha đã tin và đã sống những điều cha đã chia sẻ cho con về đạo. Xét về mặt kiến thức thì con đã xác tín về sự thật Tin Mừng, nhưng con muốn xem cha có sống Tin Mừng thực sự hay không”.

          Đúng là cha Rochky đã làm cho ông giáo sư này thấy được Đạo qua cách sống của cha. Không những cha đã truyền giáo bằng lời nói, giảng dạy, nhưng còn bằng cuộc sống thường ngày của cha nữa chúng con. Cha chúc chúng con cũng làm được như thế.

Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe là một trong những bài gây nhiều ấn tượng nhất trong Tân Ước. Vì thời giờ có hạn cho nên tôi chỉ xin được gợi lên một vài hình ảnh để chúng ta cùng suy nghĩ. Với bài Tin Mừng hôm nay thánh Marcô ghi lại cho chúng ta 3 cái nhìn của Chúa Giêsu. Ba cái nhìn nói lên ba thái độ của Ngài.

1. Cái Nhìn Thứ Nhất Là Cái Nhìn Đầy Yêu Thương

Chúa dành cái nhìn này cho người người thanh niên đến với Chúa. Nhưng anh ta là một con người như thế nào?- Là một con người có địa vị – có thế lực – và nhất là anh ta có nhiều của cải tiền bạc.

Một con người như thế đối với nhiều người thì có lẽ đã là quá đủ. Nhưng đối với người thanh niên này thì chưa đủ. Anh ta còn muốn một cái gì hơn thế nữa. Chính vì thế mà anh ta mới tìm đến với Chúa.

Đến với Chúa anh ta tỏ ra một thái độ rất khiêm nhường. Tin Mừng ghi rõ: anh “quì” xuống trước mặt Chúa. Cách anh xưng hô cũng nói lên điều đó: “Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời”.

Chúa nhẹ nhàng kéo anh về với quá khứ, một quá khứ có lẽ chính Chúa cũng đã thấy là tốt đẹp rồi. Chúng ta thấy ở đây Chúa không đả động gì đến bổn phận của con người đối với Chúa. Chúa chỉ đề cập đến những gì mà giới răn Chúa đòi buộc trong mối tương quan giữa những con người với nhau.

Phải nhận rằng trong mối tương quan giữa người với người thì người thanh niên này đã sống thật tốt: “Lạy Thầy, những điều ấy tôi đã giữ từ thuở bé”.

Tin Mừng ghi: Chúa Giêsu chăm chú nhìn người ấy và đem lòng yêu thương.

Vâng! Chúa chăm chú nhìn người ấy và đem lòng yêu thương. Một thái độ hết sức tốt đẹp.

2. Cái Nhìn Thứ Hai Là Cái Nhìn Cảnh Giác.

Sau khi người thanh niên giầu có bỏ đi, Chúa Giêsu nhìn chung quanh và nói với các môn đệ: “Người giầu có vào nước Thiên Chúa khó biết bao” và để tăng thêm sức mạnh cho ý nghĩa những lời vừa nói, Chúa nói thêm: “Thầy bảo thật các con, con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu có vào nước Thiên đàng”.

Chúng ta không có mặt lúc Chúa nói những lời như thế này. Chúng ta không thấy hết được sự ngỡ ngàng đến phát sợ của các môn đệ. Đây là những lời cảnh cáo hết sức nghiêm trọng Chúa đưa ra để dạy dỗ những môn đệ của Người. Câu truyện vừa mới xảy ra là một bằng chứng rất cụ thể về sự nguy hiểm của cuộc sống khi mà người ta đặt tiền bạc lên trên tất cả… cả sự sống đời đời.

Chúng ta hãy nhớ lại những lời Chúa kêu gọi người thanh niên: “Anh chỉ còn thiếu có một điều. Hãy về bán tất cả những gì anh có, phân phát cho người nghèo khó…anh sẽ có một kho báu ở trên trời… rồi đến mà theo ta.”

 Anh đã không chấp nhận điều kiện cho nên anh đã không đạt tới mục đích. Cơ hội để trở thành môn đệ của Chúa đã ở ngay tầm tay nhưng anh đã để cho nó vuột mất. Lý do rất rõ rệt là bởi vì anh có nhiều của cải quá.

Của cải đáng lý ra phải là một trợ lực để giúp con người thăng tiến thì ngược lại nó lại trở thành một trở lực cản bước tiến của con người. Đó là mối nguy hiểm mà Chúa muốn cảnh giác các môn đệ của Ngài. Người ta dễ biến tiền bạc thành mục đích hơn là biết dùng nó như một phương tiện. Hoàn cảnh ngày xưa đã là như thế… ngày nay sự thế lại càng đúng hơn.

3. Cuối Cùng Là Cái Nhìn Có Tính Cách Quyết Đáp

Sau khi Chúa mạnh mẽ cảnh giác về mối nguy cơ do tiền bạc đem lại và cũng như những khó khăn trên con đường vào nước trời thì các môn đệ xem như không còn kiên nhẫn thêm được nữa. Họ đã phản ứng và phản ứng của họ thật rõ rệt: “Như vậy thì ai sẽ được cứu độ”. Tin Mừng ghi tiếp: Chúa Giêsu nhìn thẳng, một cái nhìn hướng thẳng vào những đối tượng được chọn lựa. Chúa nhìn thẳng vào các mộn đệ, một cái nhìn trực diện vào những đối tượng Chúa muốn dạy cho một bài học nhưng đây cũng là một cái nhìn hoàn toàn thông cảm trước lòng tin tưởng còn yếu kém của các ông và rồi Chúa nói: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng không phải đối với Thiên Chúa”. Qua lời những lời đó chẳng cần nói chúng ta cũng thừa biết Chúa muốn nói đến điều gì rồi: vấn đề ơn thánh… ơn của Chúa.

Lời quả quyết của Chúa hẳn phải làm cho các môn đệ và cả chúng ta phải suy nghĩ. Làm gì có truyện con lạc đà to lớn cồng kềnh lại có thể chui qua lỗ kim. Vậy thì việc một con người vào nước Thiên Chúa cũng tương tự như thế. Tự sức của con người thì họ chẳng có thể làm được việc gì… nhất nữa việc đó lại là việc có liên quan đến vận mạng đời đời của con người. Như vậy vấn đề còn lại là ơn của Chúa và việc con người có biết hợp tác với ơn Chúa hay không.

Người thanh niên giầu có đến với Chúa để xin Ngài chỉ cho anh một con đường để anh có thể có được sự sống đời đời. Chúa đã mở ra cho anh ta một con đường thế nhưng anh đã từ chối.  Anh đã làm mất đi một cơ hội để anh có thể trở thành những con người được lưu danh muôn thuở.

Ngược lại với người thanh niên này là thái độ quảng đại của các tông đồ. Sau khi người thanh niên bỏ đi Phêrô đại diện cho anh em thưa với Chúa: “Lạy Thầy chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy”.

Thực ra cái mà Phêrô gọi là “mọi sự” đối với Chúa cũng chẳng là bao thế nhưng ở đây chúng ta thấy Chúa đã tỏ ra thật quảng đại. Charles Erdman khi chú giải về đoạn Tin Mừng này đã đưa ra một lời nhận định rất hay như sau: “Chính sự thỏa mãn tràn ứ trong tâm hồn của những người theo Chúa đã là phần thưởng gấp trăm gấp ngàn lần những cái mà họ từ bỏ” và sau đó Chúa còn hứa một phần thưởng rất to lớn hơn gấp bội lần những phần thưởng ở đời này đó là sự sống đời đời… điều mà mọi người ở mọi thời đều mong ước.

Để kết thúc tôi xin được kể một câu truyện vui. Một linh mục nọ qua đời và được đưa đến trước mặt thánh Phê-rô để được Ngài thẩm vấn:

– Ở dưới thế cha làm được điều gì nào?

– Dạ thưa Thánh cả, con xây được một ngôi thánh đường rộng lớn.

Thánh nhân lấy bút cho một điểm rồi Ngài hỏi tiếp:

– Cha còn làm được gì nữa?

– Dạ con còn xây được một ngôi trường cho 1.000 học sinh.

Thánh Phê-rô cho thêm được một điểm nữa.

– Và còn gì nữa?

Linh mục bắt đầu suy nghĩ rồi trả lời:

– Dạ con làm rất nhiều công tác xã hội và từ thiện.

Ngài nhìn rồi cho thêm một điểm.

– Còn gì nữa? Ngài hỏi tiếp.

– Dạ thưa Thánh cả… bao nhiêu điểm thì được vào Thiên đàng?

Thánh nhân vui vẻ trả lời : 1000 điểm.

Nghe nói thế linh mục cảm thấy chột dạ… tự nghĩ trong lòng: Không biết làm sao cho đủ được 1000 điểm bây giờ… Rồi linh mục bắt đầu cảm thấy lo lắng không còn tự tin như trước nữa. Đang lúc đó thì Thánh Phê-rô lại muốn được biết kết quả ngay. Ngài hối:

– Cha còn làm được điều gì nữa… cứ kể hết đi! Với một giọng đầy lòng khiêm tốn + một chút lo sợ, linh mục thưa:

– Thưa thánh cả, NHỜ ƠN CHÚA con còn làm thêm được ít việc nho nhỏ nữa.

Vừa nghe xong thánh Phêrô lấy bút ghi ngay: 1000 điểm. Rồi Ngài vui vẻ nói với linh mục: “Thế là cha đã được 1003 điểm. Cha dư điểm vào Thiên đàng rồi đấy… mời cha vào.”

Vâng tất cả là nhờ ơn của Chúa. Amen.

Thiếu nhi chúng con yêu quí,

Chúng ta vừa nghe một bài Tin Mừng thật hay do Thánh Marcô thuật lại.

Theo câu chuyện thì chúng con thấy người thanh niên giầu có này là người thế nào? Anh ta có phải là người tốt không chúng con?

– Dạ thưa cha… tốt.

– Đúng, con trả lời rất đúng. Đây chúng con hãy nghe lại cuộc nói chuyện giữa anh và Chúa Giêsu: “Hôm ấy, Ðức Giêsu vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người và hỏi: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” 18 Ðức Giêsu đáp: “Sao anh nói tôi là nhân lành? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa. 19 Hẳn anh biết các điều răn: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ kính cha mẹ”. Anh ta nói: “Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ”.(Mc 10,17-20)

Quá tốt phải không chúng con!

Cha thấy ở đời khó có người giữ được như vậy nhất là ngày hôm nay. Chính vì thế mà sau khi nghe anh ta trả lời chúng con thấy chính Chúa Giêsu cũng phải phục: “Ðức Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến”(Mc 10,21).

Thế nhưng câu chuyện có được diễn tiến theo chiều hướng tốt đẹp mãi như thế hay không thì Tin Mừng cho chúng ta biết là không. Lý do tại sao thì Chúa cho chúng ta biết: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi”( Mc 10,21) Và kết quả như thế nào chúng con?.”Anh ta sa sầm nét mặt vì lời đó, và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.”(Mc 10,22). Thế là kết thúc một câu chuyện ban đầu thật đẹp nhưng cuối cùng thì thật buồn. Buồn cho cả Chúa và buồn cả cho người thanh niên. Lý do vì anh ta đã không dám sống chia sẻ như Chúa mời gọi anh.

Cha kể cho chúng con câu chuyện này. Một bác nông dân người Anh nọ có dịp nghe John Wesley giảng. John Wesley là một nhà giảng thuyết nổi tiếng: hôm ấy ông giảng về việc sử dụng tiền của.

Wesley bắt đầu bài giảng bằng tư tưởng: Phải ra công tích luỹ tối đa, phải dùng hết khả năng tìm cách làm giàu. Bác nông dân gật gù bảo người bạn ngồi bên cạnh:

– Đúng lắm!

Rồi Wesley triển khai điểm thứ hai: Phải tiết kiệm tối đa. Ông lên án thói phung phí tiêu xài quá đáng.

Bác nông dân xuýt xoa:

– Bài giảng thật tuyệt vời! Cám ơn Chúa, mình vẫn sống tiết kiệm như vậy.

Cuối cùng, nhà giảng thuyết đi tới điểm thứ ba: Phải chia sẻ tối đa. Hãy coi hoàn cảnh thiếu thốn của người chung quanh là thuộc trách nhiệm của mình.

Nghe đến đây, bác nông dân lắc đầu rồi bỏ nhà thờ đi ra…

Tiền bạc nguy hiểm vậy đó chúng con.

Nó nguy hiểm vì nó có sức huỷ hoại cả những ước muốn tốt đẹp nơi một con người.

Thánh Antonio, là giám mục của vùng Firenze nước Ý vào khoảng thế kỷ thứ 15, có kể lại một câu chuyện mà ngài đã tận mắt chứng kiến trong đời mục vụ tông đồ của ngài:

Một hôm, đang đi trên đường thì Thiên Chúa cho ngài thấy có một vị thiên thần cứ bay lượn bên trên một ngôi nhà nghèo nàn lụp xụp. Ngài ghé vào hỏi thăm cha sở vùng ấy thì được biết gia đình này tuy rất nghèo nhưng lại rất đạo đức và tốt bụng, luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi người. Thánh Antonio động lòng thương, hiểu ra ý Chúa muốn soi sáng cho mình, ngài bèn trích quỹ từ thiện, kín đáo trợ cấp hàng tháng một số tiền vừa đủ để gia đình này có vốn liếng mà chí thú làm ăn cho đỡ nghèo khổ.

Bẵng đi một thời gian, ngài lại có việc đi qua vùng ấy. Ngài chợt giật mình trông thấy một tên quỉ xấu xa đang bay lượn trên mái một ngôi nhà khang trang đẹp đẽ nhất vùng. Ngài lại ghé vào cha sở để hỏi thăm, thì hóa ra đó chính là ngôi nhà của gia đình mà ngài đã từng trợ cấp lâu nay. Ngài biết họ đã cố gắng ăn nên làm ra, nhưng dần dần, vì tham lam, họ đã học đòi những thủ đoạn mánh khóe bất lương để làm giàu nhanh chóng, đời sống họ hoàn toàn vô đạo đức, trở nên ích kỷ và độc ác, khinh bỉ xua đuổi những người nghèo khổ láng giềng ngày xưa. Hiện tại họ lại còn thói ăn chơi trụy lạc.

Thánh nhân đau lòng quyết định cắt đứt nguồn trợ cấp, mong cho họ sớm hiểu ra mà sám hối quay về đường ngay nẻo chính.

Quả thật, của cải vật chất xa hoa dễ làm cho con người ra hư đốn xa đường lối của Thiên Chúa.

Và đây là câu chuyện khác:

Một người giàu có thường đến xưng tội với thánh Philiphê Neri, nhưng không thấy tiến bộ trên đường thiêng liêng nên ông đã chán nản thất vọng đến nỗi bỏ luôn việc xưng tội. Thánh nhân tìm đến nhà ông, sau một lúc chuyện trò thân mật, ngài nhìn lên cây thánh giá treo trên tường và cân nhắc độ cao của thánh giá, rồi đề nghị với người giầu có rằng:

– Ông thử đưa tay với thánh giá xem có tới không?

Người đàn ông cao lớn vươn cánh tay dài của mình ra, nhưng không thể nào chạm tới được thánh giá. Bấy giờ thánh nhân mới dùng hết sức đẩy cái tủ đựng tiền của người giàu có đến bên cạnh ông rồi ngài bảo ông hãy đứng lên cái tủ ấy để với tới thánh giá.

Quả thật ông đã sờ được Chúa Giêsu trên thập giá.

Lúc đó thánh nhân mới nói:

– Để có thể chạm được Chúa Giêsu, để tiến bộ trên đường thiêng liêng, chúng ta cần phải ở “đứng trên tiền bạc”

Làm sao để có thể đứng trên tiền bạc chúng con?

– Khi Steve Jobs thấy nhiều người trong công ty Apple của ông vì tranh giành quyền lợi mà sinh ra bất hoà với nhau, ông đã nghiêm chỉnh đưa ra một quyết định cho cuộc đời của mình: “Tôi thề sẽ tránh sống xa hoa và tôi thề không để tiền bạc hủy hoại cuộc đời tôi.” Và ông đã giữ được điều đó cho tới khi ông qua đời.

– Năm 1830 khi thánh Gioan Vianey sửa lại nhà thờ xứ Ars, có một bà già đem đến cho ngài một đồng bạc, một loại tiền thời bấu giờ để dâng cúng vào việc tu bổ thánh đường. Thấy bà già quá nghèo nàn và vất vả, thánh Gioan không dám nhận, nên đã nói với bà rằng:

– Cha cám ơn lòng tốt của bà, và Chúa cũng đã nhìn thấy lòng rộng rãi và sốt sắng của bà rồi; nhưng vì bà quá vất vả và thiếu thốn, nên bà hãy giữ lấy đồng bạc, để tiêu xài những thứ cần thiết.

Lúc ấy bà già đã thưa lại cách khiêm tốn rằng:

– Thưa cha, nếu Chúa cho con có của, con sẽ dâng cúng cho Chúa nhiều hơn, nhưng vì con nghèo, nên con dâng cúng cho Chúa ít, nhưng với cả tấm lòng yêu mến của con. Vậy xin cha hãy nhận lấy đồng bạc của con. Với đồng bạc này, nếu cha không mua được cái gì cao quí, thì xin cha hãy mua một viên gạch lát trong nhà thờ, để mỗi khi Chúa Giêsu ngự trong nhà tạm nhìn ra trông thấy viên gạch ấy, Chúa sẽ nhớ tới con.

Đẹp quá phải không chúng con?

Anh chị em thân mến

Hôm nay toàn thể Giáo hội hân hoan mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi.

A. Xét về phương diện lịch sử thì việc lần chuỗi đã có từ rất lâu.

+ Ngày xưa ở Roma, khi người ta muốn tỏ lòng biết ơn kính trọng đối với người nào thì người ta thường kết những đóa hoa hồng thành một vòng hoa và đội lên đầu vị ấy.

+ Bắt nguồn từ tập quán tốt lành đó, Giáo Hội cũng có thói quen kết những kinh kính mừng như những bông hồng thiêng liêng làm thành một chuỗi hay một tràng hoa mân côi dâng lên Đức Trinh Nữ Maria để tỏ lòng tôn kính yêu mến Đức Mẹ đồng thời xin Đức Mẹ cầu bầu trước tòa Chúa Giêsu cho Giáo Hội giống như xưa Mẹ đã từng làm trong bữa tiệc tại Cana xưa. (Ga 2,1-11)

+ Việc đạo đức này đã được chính Đức Mẹ chấp nhận khi Người hiện ra với thánh Đaminh vào thế kỷ thứ XIII. Thời ấy bè rối Albigeois tấn công Giáo Hội ở khắp nơi, nhiều tín hữu Công Giáo bỏ Giáo Hội mà đi theo lạc giáo. Tòa thánh đã trao trách nhiệm cho thánh Đaminh để tìm phương đối phó.

Lúc đầu thánh Đaminh cũng chỉ biết đi thuyết giáo cho họ nhưng xem ra công việc không được mấy thành công.

Sau đó thánh Đaminh đã được Đức Mẹ hiện ra dạy cho Ngài phép lần hạt Mân Côi, coi như vũ khí thiêng liêng hữu hiệu để chống lại lạc giáo.

Chính nhờ việc biết kết hợp giữa lời giảng dạy Lời Chúa  và việc truyền bá xâu chỗi Mân Côi mà thánh nhân và các anh em trong dòng của Ngài đã thành công trong việc đưa người theo lạc giáo trở về với Giáo Hội. Đó là một kết quả không ai còn dám nghi ngờ. Nhờ việc lẫn chuỗi Mân Côi mà Giáo hội đã đem được con cái xa lạc trở về với mình.

Đó là nguồn gốc xa xưa.

B. Riêng đối với thánh lễ ngày hôm nay thì chúng ta lại thấy có một lý do khác.

Hồi ấy các nước Hồi Giáo liên minh với nhau. Đứng đầu là nước Thổ. Họ đem hàng ngàn chiến thuyền với một đạo quân hùng hậu định tiến về Roma thủ đô của Giáo hội Công giáo. Họ đe dọa sẽ biến đền thờ thánh Phêrô thành cái chuồng ngựa.

Trước cuộc tiến công như vũ bão của quân địch, các nước Âu Châu Công giáo bó buộc đã phải hiệp lực lại, chiêu mộ các binh sĩ tình nguyện để đi chiến đấu chống lại với quân xâm lược. Họ đã lập được một phòng tuyến ngăn chặn quân địch tại Vịnh Lépante.

Bên cạnh công việc có tính cách quân sự, Giáo hội còn mở thêm một mặt trận thiêng liêng bằng việc kêu gọi các tín hữu ở khắp mọi nơi tham gia vào việc lần chuỗi Mân Côi.

Nhờ ơn Chúa giúp, qua lời cầu bầu của Đức Mẹ mà đạo quân Công giáo mặc dầu với một số lượng ít hơn đồng thời cũng là một đạo quân rất ô hợp, thế nhưng họ đã chiến thắng như một phép lạ cuộc chiến tại Lépante. Hôm đó là ngày 7-10-1571. Để tỏ lòng biết ơn Đức Mẹ, Đức Thánh Cha Piô V đã truyền lập lễ kính Đức Mẹ Mân côi vào ngày 7-10 mỗi năm.

Kính thưa anh chị em

Quả thực kinh Mân Côi đã giúp Giáo hội vượt qua được rất nhiều khó khăn và thử thách. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II của chúng ta đã nhiều lần kêu gọi con cái của Giáo hội hãy biết dùng kinh Mân Côi như một thứ vũ khí thiêng liêng để nâng đỡ Giáo hội. Tại sao Giáo hội lại muốn chúng ta dùng kinh Mân côi với những mục đích cao trọng như thế.

Theo Đức Thánh Cha Phaolô VI trong tông huấn “Marialis cultus” (việc sùng kính Đức Maria) thì

Kinh Mân côi là một lời nguyện đơn giản: Kết cấu kinh Mân côi chỉ gồm các kinh Lạy Cha, kính mừng, sáng danh. Do đó kinh Mân côi rất phù hợp với tâm lý của giới bình dân và những người có tinh thần đơn sơ khiêm hạ.

– Kinh Mân côi là một lời kinh chiêm niệm: Khi đọc kinh Mân côi người tín hữu được mời gọi kết hợp với Đức Mẹ Maria chiêm ngắm những mầu nhiệm quan trọng nhất trong cuộc đời của Chúa Giêsu như mầu nhiệm nhập thể, Tử nạn và Phục sinh.

– Kinh Mân côi là lời kinh gắn liền với cuộc sống. Đọc kinh Mân côi chúng ta cùng kết hiệp với Mẹ Maria sống những giờ phút vui – thương – mừng để nhờ đó mà chúng ta biết được cách phản ứng sao cho phù hợp với đức tin mỗi khi chúng ta gặp những biến cố vui – thương – mừng trong cuộc sống hằng ngày.

– Kinh Mân côi còn giúp cho cả việc tu đức nữa. Vì Kinh Mân côi làm sống lại cuộc đời của Đức Mẹ và Chúa Giêsu với tất cả những đức tính cao đẹp của các Ngài trước mắt chúng ta. Đọc kinh Mân côi chúng ta có thể dễ thấy được những đức tính ấy một cách rõ ràng hơn, qua đó chúng ta cũng có thể áp dụng vào đời sống chúng ta cách cụ thể hơn.

Hôm ấy trên chiếc xe lửa đi từ thành phố Lyon về lại thủ đô Paris của nước Pháp người ta nhìn thấy một chàng thanh niên ngồi đối diện với một ông cụ già.

Chàng thanh niên ăn mặc bảnh bao, đúng mốt. Vẻ thanh lịch trí thức được lộ ra từ đỉnh đầu cho đến đôi chân.

Còn ông già thì không được như thế. Xem ra còn có vẻ quê mùa. Bộ quần áo thì lấm đất. Đôi giầy thì đã quá cũ. Mái tóc cắt ngắn và gương mặt có vẻ phong trần. Hai tay ông mân mê xâu chuỗi và miệng ông lẩm bẩm câu kinh, nét mặt ông toát ra một vẻ đạo đức lạ thường.

Chàng thanh niên nhìn ông cụ được một lúc rồi anh ta bước sang chỗ ông cụ và làm như muốn gợi ý nói truyện. Ông già biết ý nên ngừng việc lần chuỗi lại.

Chàng mạnh miệng nói:

– Tôi thấy cụ còn tin tưởng vào chuỗi tràng hạt có từ thời trung cổ này. Vậy chắc là cụ còn tin vào Đức Mẹ đồng trinh và các tín điều mà mấy ông cố đạo dạy chứ?

Ông lão thanh thản trả lời:

– Đúng thế.

Rồi ông hỏi lại:

– Còn cậu thì sao?

Được ông lão chú ý đến chàng thanh niên cảm thấy mình có vẻ quan trọng, anh cao  giọng trả lời:

– Tôi ấy à! Tôi mà lại còn tin vào những điều vô lý và dị đoan đó sao. Tôi đã tìm được sự thật ở các đại học. Nếu cụ muốn sống hợp thời hơn, cụ hãy ném cái sâu chuỗi đó đi và ghi tên học một số khoa học tân tiến!

Ông lão tỏ vẻ thắc mắc:

– Khoa học tân tiến? Tôi sợ không hiểu nổi khoa học.

Rồi ông tự nhún nhường nói tiếp:

– Chắc là cậu có thể giúp tôi.

Chàng thành niên đã thấy mình quan trọng lại càng cảm thấy mình quan trọng hơn cho nên anh cao hứng đáp lại:

– Được! Nếu ông biết đọc. tôi rất sung sướng được gửi tặng cụ một số sách.

Ông cụ trả lời một cách quả quyết:

– Tôi biết đọc.

– Rất tốt…Vậy tôi phải gửi cho cụ theo địa chỉ nào đây?

Ông cụ bình thản rút từ túi áo mình ra một tấm danh thiếp và trao cho người thanh niên. Người thanh niên nhìn vào, mặt anh ta bỗng bị tái đi như người bị mất hết máu. Trên tấm danh thiếp anh nhìn thấy mấy dòng chữ này: LOUIS PASTEUR – Viện nghiên cứu khoa học Paris. Thật anh không ngờ anh được giáp mặt với một nhà bác học, một đại ân nhân của cả nhân loại như thế.

Lạy mẹ Maria mến yêu của con

Cách đây gần 2000 năm

Dưới chân cây Thánh giá của Chúa Giêsu

Mẹ đã nhận cả nhân loại làm con của mẹ

Và từ dạo ấy cho đến hôm nay mẹ yêu đã yêu nhân loại chúng con chúng con bằng tấm lòng từ mẫu của mẹ.

Bao nhiêu lần hiện ra

Mẹ đã cho chúng con biết

nhân loại chúng con đã làm phiền lòng Chúa quá nhiều

Đã nhiều lần chúng con đã chọc giận lòng nhân từ của Chúa.

Nhiều lần Chúa đã muốn trừng phạt chúng con

như xưa Chúa đã trừng phạt đám dân cứng đầu cứng cổ trong thời Cựu Ước.

Thế  nhưng nhờ Mẹ can thiệp mà Chúa đã nương tay.

Hôm nay chúng con xin nghe lời mẹ

ăn năn về tất cả những lỗi lầm của chúng con

chúng con quyết tâm sửa lại đời sống

và như lòng mẹ mong ước tại Fatima

chúng con sẽ lần chuỗi Mân Côi mỗi ngày để làm vui lòng mẹ. Amen.

Thiếu nhi chúng con yêu quí.

Hôm nay chúng ta bắt đầu bước vào tháng 10. Cha đố chúng con tháng 10 có cái gì đặc biệt nào?

– Là tháng Mân côi Đức Mẹ.

+ Rất đúng! Chúng con giỏi lắm.

Thế tháng Mân côi Giáo Hội thường nhắc chúng ta làm gì nào?

– Thưa cha lần chuỗi Mân côi.

+ Thế chúng con có biết lần chuỗi Mân côi không?

– Thưa cha biết.

+ Cha cũng lần chuỗi Mân côi mỗi ngày….Cha nhớ là cha đã biết lần chuỗi Mân côi từ lâu lắm rồi và không ngày nào cha bỏ. Mỗi tối trước khi đi ngủ cha thường vào nhà chầu Thánh Thể và lần một chuỗi kinh Mân côi.

Nếu chúng con hỏi cha tại sao cha yêu mến kinh Mân Côi như thế thì cha trả lời ngay cho chúng con. Cha yêu mến kinh Mân côi như thế bởi vì đây là một lời kinh thật kỳ diệu đối với cha.

Cha yêu mến kinh Mân côi vì đây là lời kinh Đức Mẹ thích nhất.

Cha nhớ khi Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, lần nào Đức Mẹ cũng dạy các em Lucia, Phanxicô và Jacinta: “Các con hãy lần chuỗi Mân Côi hằng ngày!”

Tại Fatima Đức Mẹ đã hiện ra với ba em: Lucia, Phanxicô và Jacinta, tất cả 6 lần. Lần nào Đức Mẹ cũng nói với các em: “Các con hãy lần chuỗi Mân Côi hằng ngày!”

Tại sao tất cả 6 lần hiện ra với 3 em tại Fatima lần nào Đức Mẹ cũng dạy các em hãy lần chuỗi Mân Côi hằng ngày như thế?

Thưa vì lần chuỗi Mân Côi là một phương thế linh nghiệm nhất trong việc đập tan các bè rối và đưa người ta đến chỗ ăn năn hối cải.

Thánh Louis de Montfort với kinh nghiệm là một tông đồ vĩ đại của kinh Mân Côi đã nhắn nhủ những ai đang sống trong tình trạng bi thảm của tội lỗi như thế này:

“Bạn đang sống trong tình trạng tội lỗi đáng thương ư? Bạn hãy kêu cầu Mẹ Maria! Hãy cầu xin Mẹ bằng kinh Mân Côi”

Kinh Mân Côi có sức linh nghiệm, giúp người ta ăn năn hối cải, giúp những người tội lỗi đã bỏ Chúa nhiều năm được ơn thống hối trở về với ơn nghĩa Chúa.

Trong tập hồi ký của mình, chị Lucia đã ghi lại chi tiết những lời Đức Mẹ nói với chị lần hiện ra đầu tiên, ngày 13 tháng 5 năm 1917, như sau:

– Bà muốn con làm gì?

– Mẹ muốn các con đến đây sáu tháng liền vào ngày 13, cũng giờ này. Sau này, Mẹ sẽ nói cho con hay Mẹ là ai và Mẹ muốn gì.

– Con có được về trời không? Được con sẽ về.

– Còn em Jacinta?

– Jacinta cũng được về.

– Còn em Phanxicô?

– Phanxicô cũng sẽ được về, nhưng em phải đọc nhiều kinh Mân Côi đã.

Một lúc sau Đức Mẹ bảo:

“Các con hãy lần chuỗi Mân Côi hằng ngày để cầu xin cho hòa bình thế giới và chấm dứt chiến tranh. ”

Kinh Mân Côi, lời kinh đơn sơ

Vâng, Kinh Mân Côi thật đơn sơ vì ta có thể đọc một cách dễ dàng mọi nơi, mọi lúc, chẳng cần đến sách vở hay tài liệu gì phức tạp. Cả những người bình dân ít học cũng có thể đọc một cách thoải mái. Những người già nua, đau yếu cũng đọc Kinh Mân Côi được. Những người mới tìm hiểu đạo cũng có thể tìm gặp được niềm vui nhẹ nhàng khi đọc Kinh Mân Côi. Thậm chí, cả những người ngoại đạo cũng đón nhận được sự bình an, thanh thản cho tâm hồn khi thử đọc kinh này.

Kinh Mân Côi lời kinh được yêu mến.

Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu (1873-1897) quả quyết: “Với Kinh Mân Côi, tín hữu Công giáo xin gì cùng Thiên Chúa, Ngài cũng nhận lời”.

Thánh Vinhsơn Phaolô (1581-1660) gọi Kinh Mân Côi là Kinh Nhật Tụng của tín hữu giáo dân.

Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã bày tỏ: “Từ thuở niên thiếu, lời kinh này đã có một chỗ đứng quan trọng trong đời sống thiêng liêng của tôi. Nơi lời kinh ấy tôi đã luôn tìm được sự nâng đỡ”

Chúng con hãy nghe câu chuyện đặc biệt này:

Một nhà tư vấn doanh nghiệp tên Jim Castle 45 tuổi, mệt mỏi trở về sau một tuần họp hành và hội thảo. Trên chuyến bay từ Ohio trở về nhà ở Kansas City, Miami, ông đang ngồi thoải mái trong ghế của mình thì đột nhiên bỗng thấy tiếng ồn ào của hành khách im bặt. Quay lại nhìn ông kinh ngạc nhận ra hai nữ tu trong bộ áo sari viền xanh đơn sơ đang đi đến chỗ ngồi. Và ông nhận ra ngay một khuôn mặt quen thuộc đã xuất hiện trên bìa tạp chí Time. Khuôn mặt nhăn nheo và đôi mắt tinh anh ấm áp của Mẹ Têrêsa. Hai nữ tu dừng lại nơi hàng ghế của ông và ngồi ngay cạnh ông trong chuyến bay.

Khi mọi người đã ổn định chỗ ngồi thì hai nữ tu rút xâu chuỗi ra lần hạt. Jim để ý thấy là mỗi chục hạt lại có một màu khác nhau. Sau này Mẹ Têrêsa đã giải thích cho Jim hiểu rằng mỗi một chục tượng trưng cho một vùng của thế giới. Mẹ còn nói thêm “Tôi cầu nguyện cho những người nghèo và hấp hối trên mỗi lục địa”.

Trong lúc họ lần chuỗi thì Jim nhận mình tuy là người Công giáo không sốt sắng mấy chỉ giữ đạo theo thói quen không hiểu sao cũng hiệp ý với họ. Khi họ đã đọc kinh xong. Mẹ quay sang phía Jim. Lần đầu tiên trong đời Jim hiểu được thế nào là một người có “hào quang” thánh thiện. Mẹ nhìn ông và ông cảm thấy tràn đầy sự bình an, rồi Mẹ hỏi:

– Này, người bạn trẻ, anh có bao giờ lần chuỗi không?

– Dạ không, quả thật là không!

Mẹ cầm lấy tay anh, nhìn vào mắt anh rồi Mẹ mỉm cười:

– Vậy thì bây giờ anh sẽ làm. Và Mẹ đặt vào tay anh xâu chuỗi của Mẹ.

Một giờ sau, Jim xuống phi trường Kansas City và gặp Ruth vợ ông ra đón. Bà ngạc nhiên khi nhìn thấy xâu chuỗi trên tay chồng mình và thốt lên:

– Cái gì lạ lùng thế này?

Jim đã kể cho vợ nghe chuyện diễn ra trên máy bay. Trên đường lái xe về nhà ông đã thú nhận: “Anh cảm thấy dường như mình đã gặp người em gái thật sự của Chúa”.

Chín tháng sau, hai vợ chồng đến thăm một người bạn nhiều năm qua tên là Connie. Chị đang bị ung thư buồng trứng. Chị thổ lộ:

– Bác sĩ nói trường hợp này khó lắm nhưng tôi sẽ chiến đấu và sẽ không bỏ cuộc.

Jim lấy từ trong túi xâu chuỗi của Mẹ Têrêsa choàng vào tay Connie và kể cho chị nghe câu chuyện của mình rồi nói:

– Chị giữ lấy xâu chuỗi này. Nó sẽ giúp chị.

Dù Connie không phải là người Công giáo nhưng chị cũng rất sẵn sàng nhận xâu chuỗi và nói:

– Cám ơn. Hy vọng tôi sẽ trả lại anh.

Một năm sau, Jim gặp lại Connie. Khuôn mặt chị hồng hào rạng rỡ. Chị ào tới phía anh, chìa xâu chuỗi và nói:

– Tôi giữ nó bên người suốt cả năm qua. Tôi đã được giải phẫu và hoá trị. Tháng trước bác sĩ làm xét nghiệm lần thứ hai và tuyên bố khối u đã hết. Hết hoàn toàn

Chị nhìn Jim và nói:

– Tôi biết đã đến lúc trả lại xâu chuỗi này cho anh.

Cuộc đời của Jim Castle đã thay đổi từ cuộc gặp gỡ kỳ diệu ấy.

Đây không phải là chuyện phù phép, ma thuật mà là một lời nhắn gửi cho những ai cần tìm đến với Mẹ, tỏ bày lòng yêu mến Mẹ bằng những Kinh Mân Côi. Chắc chắn họ sẽ nhận được nhiều điều diệu kỳ hơn nữa.

Hãy cầm lấy xâu chuỗi Mân Côi với lòng tin tưởng. Hãy tái khám phá Kinh Mân Côi dưới ánh sáng của Kinh Thánh, trong sự hài hoà với Phụng Vụ và trong bối cảnh của đời sống hằng ngày (Tông thư Rosarium Virginis Mariae, 43).

Lạy Mẹ Maria con yêu mến Mẹ. Amen.

Trong bài Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu dạy chúng ta hai bài học:

A. Trước hết là bài học về lòng bao dung và hợp tác:

Người đời, nhất là ngày hôm nay, thường có óc bè phái, ích kỷ chỉ lo bảo vệ quyền lợi của nhóm mình, đồng thời chèn ép, đố kỵ ganh ghét với những người không thuộc nhóm mình. Phương châm của họ là “Ai không theo ta tức là nghịch với ta”.

Còn Chúa Giêsu thì khác: Ngài dạy các môn đệ chớ nhìn ai bằng cặp mắt thành kiến đố kỵ. Hãy sẵn sàng hợp tác với mọi người nhất là những người thiện chí. Phương châm Chúa đưa ra là “Ai không chống đối ta tức là ủng hộ ta”. (Mc 9,40)

Tại sao Chúa Giêsu lại dạy như thế? Thưa vì mọi người sinh ra đều là con Thiên Chúa và mọi người đều có quyền sống và phục vụ theo đúng ơn gọi Chúa dành cho mình. Dưới con mắt của Chúa thì không có người nào xấu đến nỗi phải loại trừ. Đã là người thì ai mà không muốn sống tốt và sống có ích cho mọi người. Thế nhưng thực tế chưa được như thế không phải vì họ mà vì những nguyên nhân khác. Tự bản chất con người là “Nhân chi sơ tính bản thiện” như cổ nhân vẫn nói. Sở dĩ có người hư hỏng là vì họ đã không nhận được sự quan tâm, yêu thương, giáo dục tốt từ xã hội, từ nhà trường nhất là từ gia đình.

Đây là câu chuyện đã xảy ra tại một thiền viện.

Một buổi sáng, khi vừa thức dậy, một số thiền sinh phát hiện mình bị mất cắp một vài vật dụng cá nhân. Họ bảo nhau cùng để ý rình rập, và họ đã bắt được quả tang một chú thiền sinh mới đến đang lấy cắp đồ dùng của họ. Họ liền ập vào bắt giữ, giải lên cho thầy viện trưởng. Thầy im lặng, và cho chú thiền sinh nọ trở về phòng.

Ít lâu sau đó, chú thiền sinh lại bị phát giác đang ăn trộm lần thứ hai, và lại bị dẫn đến viện trưởng. Lần này cũng như lần trước, thầy vẫn im lặng, không nói năng gì, chỉ đưa tay ra hiệu cho phép chú trở về phòng. Mọi người đều thấy tấm tức bực bội về thái độ xử lý quá rộng lượng của thầy mình… Đến lần thứ ba, chú thiền sinh có tật ăn cắp kia lại tái phạm. Tất cả các môn sinh đều tập trung lại, đòi thầy phải có thái độ trừng phạt xứng đáng. Họ đưa ra yêu sách:

– Thưa thầy, hoặc là tất cả chúng con, thầy phải lựa chọn, nếu không chúng con sẽ rời bỏ nơi này ngay lập tức!

Im lặng một lát, thầy viện trưởng điềm đạm trả lời:

– Tất cả các con đều đã sống tốt lành với nhau, còn chú này thì chưa được như thế vậy, thầy muốn chú ấy sẽ ở lại với thầy để thiền định tập tành cho được tốt hơn. Các con thì không cần phải làm như thế nữa, các con có thể chia tay với thầy được rồi đấy!

Mọi người đều chưng hửng, cúi đầu, lần lượt từng người không dám nói gì nữa, lặng lẽ ai về phòng nấy.

Riêng chú thiền sinh tội lỗi kia vẫn quì đấy, đôi giòng lệ lăn dài trên gò má.

Vâng! Hãy biết mở cõi lòng đón nhận mọi người chúng ta sẽ thấy đời của chúng ta đẹp và cuộc sống của chúng ta phong phú dồi dào và hạnh phúc sẽ đến với chúng ta.

B. Bài học thứ hai: là vấn đế gương mù gương xấu.

Lời của Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay với một cung giọng nghiêm khắc khác thường làm cho nhiều người cảm thấy như nó quá cứng cỏi nếu không nói là hơi tàn bạo.

Điệp khúc: “Làm cớ sa ngã” được nhắc đi nhắc lại tới 4 lần và lần nào cũng kèm theo những lời cảnh cáo khắt khe khiến chúng ta thấy tính cách nghiêm trọng của vấn đề.

Chúa nói như thế để làm gì? – Rõ ràng Chúa muốn bênh vực những ai tin Chúa và bảo vệ họ. Không phải chỉ bảo vệ họ khỏi những hiểm nguy của thân xác mà còn bảo vệ cái giá trị đích thực của cuộc sống làm con của Thiên Chúa nơi mỗi kẻ tin Ngài.

Tự mình phạm tội đã là chuyện khủng khiếp rồi, nhưng dạy kẻ khác phạm tội, lại càng vô cùng tệ hại hơn.

Chúa rất thương và khoan dung với những người tội lỗi nhưng lại rất nghiêm khắc với những người làm cớ vấp phạm cho những người khác phạm tội.

O. Henry, nhà văn Mỹ lừng danh về truyện ngắn đã sáng tác câu truyện về một em bé gái mồ côi mẹ như thế này. Cha cô bé có thói quen mỗi khi đi làm về là ngồi ngay xuống ghế, mở cặp, lôi giấy tờ ra, đốt ống điếu và gác chân lên ngăn kệ đặt gần lò sưởi. Một lần kia con ông là một bé gái mở cửa bước vào. Em xin ông chơi đùa với em một lát vì em cảm thấy rất cô đơn. Lần này cũng như những lần trước ông luôn bảo ông rất mệt, hãy để cho ông yên. Và ông bảo con ông hãy ra đường mà chơi. Thế là cô bé đi ra chơi ở ngoài đường, và truyện không tránh được đã xảy ra là sau những ngày tháng chơi ở ngoài đường, em đã trở thành một cô gái đứng đường. Thời gian trôi qua, ông bố chết và cô cũng chết. Linh hồn cô được đưa lên đến Thiên Đàng. Thánh Phêrô vừa trông thấy cô liền thưa với Chúa Giêsu:

– Thưa Thầy, đây là cô gái thật xấu nết. Con nghĩ phải đưa thẳng cô ta xuống hỏa ngục.

Nhưng Chúa Giêsu ôn tồn đáp:

– Không, hãy cho cô ấy vào.

Rồi đôi mắt ngài trở nên nghiêm nghị:

– Và con hãy đi tìm người cha đã từ chối không chịu chơi đùa với con gái nhỏ của mình, đuổi nó ra thiên đường, và đưa hắn xuống hỏa ngục.

Ai làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin vào Thầy, thà buộc cối đá xay vào cổ nó…”

Vâng! Nhìn vào cuộc sống của con người trên thế giới hôm nay quả thực không ai mà không thấy có thật nhiều dịp tội làm con người có thể sa ngã. Ngay chính bản thân chúng ta cũng có thể là những dịp tội, khiến chúng ta lỗi luật Chúa.

Khi bảo phải móc mắt, chặt chân, chặt tay, Chúa không bảo chúng phải áp dụng triệt để theo từng câu từng chữ theo nghĩa đen. Ở đây Đức Giêsu chỉ có ý đòi buộc chúng ta phải quyết tâm mạnh mẽ để khử trừ các dịp tội, các cơm cám dỗ.

Chúa muốn chúng ta “cắt bỏ” một thói hư tật xấu, cắt bỏ một lời nói cay độc, cắt bỏ một ánh mắt căm hờn, cắt bỏ một cử chỉ khinh khi, cắt bỏ một lối sống buông thả, cắt bỏ một mối quan hệ bất chính. Cắt bỏ như thế có khi còn đau hơn “móc con mắt, chặt chân chặt tay”. Đau vì nó quá thân thiết với cuộc đời chúng ta, đau vì nó quá gắn liền với bản thân chúng ta, vì nó quá ăn sâu trong bản chất con người chúng ta. Nhưng nếu can đảm vượt thắng nỗi đau, chúng ta sẽ lớn lên trong tư cách làm người, và trưởng thành hơn trong địa vị làm con cái Chúa. Ludovic Giraud có viết: “Nỗi đau đối với chúng ta như lưỡi cày đối với mặt đất, nó cầy xới… nhưng để làm cho đất màu mỡ, cũng như việc cắt tỉa cây cối: làm cây cối nhẹ nhàng, mạnh khỏe và đẩy nhanh những dòng nhựa lên cao”.

      Lạy Chúa Giêsu,
sống cho Chúa thật là điều khó.
Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả
để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.

Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa
để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà
để cây đời con sinh thêm hoa trái.
Chúa cương quyết chinh phục con
cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.

Xin cho con dám ra khỏi mình,
ra khỏi những bận tâm và tính toán cho riêng mình
để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa,
dù phải chịu mất mát và thua thiệt.

Ước gì con cảm nghiệm được rằng
trước khi con tập sống cho Chúa
và thuộc về Chúa
thì Chúa đã sống cho con
và thuộc về con từ lâu. Amen.

Thiếu nhi chúng con yêu quí.

Chúng ta vừa nghe một bài Tin Mừng rất đặc biệt do thánh Marcô ghi lại.

Cha đố chúng con biết, qua bài Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu muốn dạy mọi người điều gì không?.

– Dạ thưa cha Chúa muốn dạy mọi người bài học về sự bao dung biết đón nhận mọi người.

– Rất đúng… và còn gì nữa không?

– Dạ thưa cha Chúa muốn dạy về vấn đề phải tránh làm gương mù gương xấu cho người khác.

– Chúng con giỏi! Thật giỏi. Cha khen chúng con. Bây giờ chúng ta bắt đầu vào từng vấn đề.

1. Trước hết là vấn đề bao dung đón nhận mọi người.

Chúng con thấy ở đời, người ta thường có óc bè phái, ích kỷ chỉ lo bảo vệ quyền lợi của nhóm mình, đồng thời chèn ép, đố kỵ ganh ghét với những người khác. Phương châm của họ là “Ai không theo ta tức là nghịch với ta”.

Ông Gioan trong bài Tin Mừng hôm nay là người thuộc loại người này. Chúng con hãy nghe lại lời ông thưa với Chúa: “Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta.”(Mc 9,38)

Còn Chúa Giêsu thì sao chúng con. Chúa hoàn toàn khác. Đây là lời của Chúa “Ðừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta.” Qua câu nói này cha thấy Chúa dạy các môn đệ của Ngài đừng nhìn người khác bằng cặp mắt thành kiến đố kỵ. Hãy sẵn sàng biết đối xứ bao dung hợp tác với mọi người nhất là những người thiện chí. Phương châm Chúa đưa ra là “Ai không chống đối ta tức là ủng hộ ta”.(Mc 9,40)

Cha kể cho chúng con câu chuyện có thật này:

Vào thế kỷ 19, khi tổng thống Lincoln của nước Mỹ lên nắm quyền, bộ trưởng lục quân Stanton tỏ vẻ rất coi thường vị tổng thống này. Ông ta chế giễu Lincoln là “con đười ươi tay dài, dốt nát”, thậm chí còn nói: “Tại sao người ta phải sang mãi Châu Phi để tìm kiếm tinh tinh nhỉ? Chẳng phải có một con đang ngồi trong Nhà Trắng vò đầu gãi tai đó sao?”

Sau khi những lời công kích này đến tai Lincoln, vị tổng thống này không hề tức giận, không hề có ý trả thù, mà còn cho rằng Stanton “tuyệt đối trung thành với quốc gia”, là người có năng lực, cho dù Stanton có mắng chửi như thế nào, thì ông vẫn cất nhắc Stanton làm bộ trưởng lục quân. Sau này, Stanton bị cảm hóa trước tấm lòng bao dung độ lượng của Lincoln. Ý thức được sai lầm của bản thân, ông ta đã tìm gặp Lincoln để xin lỗi.

Ông Lincoln đã biết đặt lợi ích quốc gia lên trên hết. Với khả năng nhận biết, sử dụng cũng như biết tập hợp nhân tài giúp ích cho đất nước, thêm vào đó là sự quang minh lỗi lạc, phẩm chất đạo đức cao thượng, đã làm cho ông nhận được sự yêu quý và niềm tin của người dân. Người đời sau nhận xét rằng: Lincoln là vị tổng thống đáng kính nhất trong lịch sử nước Mỹ.

Trong cuốn sách rất nổi tiếng có tên là “Quảng Gánh Lo Đi Và Vui Sống” của ông Dale Carnegie cha đọc được một lời cầu nguyện thật hay này:  “Lạy Chúa, xin hãy ban tặng cho con tấm lòng rộng mở và sự bao dung độ lượng để con có thể bình thản chấp nhận những gì không thể thay đổi. Hãy ban tặng cho con lòng dũng cảm, để con thay đổi những gì con có thể thay đổi. Hãy ban tặng cho con sự khôn ngoan để con có thể phân biệt được điều gì có thể thay đổi và điều gì không thể thay đổi được”.

Hãy biết mở cõi lòng đón nhận mọi người, chúng ta sẽ thấy đời của chúng ta đẹp và cuộc sống của chúng ta phong phú dồi dào và hạnh phúc sẽ đến với chúng ta.

2. Tiếp theo là vấn đề gương mù gương xấu.

Gương mù gương xấu là một trong những vấn đề gây ra nhiều đau khổ cho cuộc sống của mọi người. Hãy cố tránh đừng bao giờ làm gương mù gương xấu cho nhau.

Một em bé sinh ra trong một gia đình giàu có. Khi lên 4,5 tuổi đã tò mò hỏi xem cha nó làm gì mà giàu có vậy.

Người cha lúc nào cũng nói ông làm ăn buôn bán nên giàu có.

Một hôm đứa bé cứ đòi đến chỗ cha nó buôn bán để xem công việc này có thích không. Người cha nói:

– Không, con không nên đến nơi ba làm việc vì con còn nhỏ lắm. Hơn nữa, chỗ này người ta không cho con nít đến.

Thằng bé nghe cha nói thế, lại càng thắc mắc tại sao chỗ ấy người ta không cho nó đến. Nó năn nỉ mãi, cuối cùng cha nó phải cho nó đi theo.

Người cha đưa con đến cửa cấm trẻ em vô, rồi chỉ cho con:

– Đây là chỗ ba làm việc.

Đứa bé hỏi:

– Người ta làm gì trong đó hở ba?

Người cha trả lời:

– Người ta làm việc.

– Làm việc gì hở ba?

Thấy không thể giấu nổi con, người cha trả lời:

– Người ta đánh bạc.

– Đánh bạc là gì hở ba ?

Thế là người cha giải thích thế nào là đánh bạc. Đứa bé nghe xong, mỉm cười sung sướng và nói:

– Sau này lớn lên con sẽ không lo lắng gì cả. Con sẽ đến đây đánh bạc như cha là sẽ giàu có.

Người cha nghe câu nói của con mà lạnh người. Ông suy nghĩ và không nói gì nữa. Từ đó ông bỏ hẳn nghề đánh bạc.

Gương mù gương xấu là như thế đấy chúng con!

Chính vì thế mà chúng con thấy thái độ của Chúa Giêsu đối với vấn đề gương mù gương xấu thật là nghiêm khắc khác thường!

Chúa nhắc đi nhắc lại tới 4 lần điệp khúc: “Làm cớ sa ngã” và lần nào Chúa cũng kèm theo những lời cảnh cáo thật khắt khe khiến ai cũng cảm thấy sợ.

Thử hỏi Chúa muốn gì khi nói như thế? – Rõ ràng Chúa muốn bênh vực những ai tin Chúa và bảo vệ họ. Không phải chỉ bảo vệ họ khỏi những hiểm nguy của thân xác mà còn bảo vệ cuộc sống tốt đẹp của những người làm con của Thiên Chúa nơi mỗi kẻ tin Ngài nữa.

Tự mình phạm tội đã là chuyện chẳng tốt lành gì rồi. Làm cớ cho những người đang sống tốt lành khiến họ sa ngã phạm tội thì quả thật là tội vô cùng đáng trách.

Đọc trong Tin Mừng chúng ta thấy Chúa rất thương và khoan dung với những người tội lỗi nhưng lại rất nghiêm khắc với những người làm cớ cho những người khác phạm tội.

Cha kể cho chúng con câu chuyện này. Câu chuyện do ông O. Henry, một nhà văn Mỹ lừng danh về chuyện ngắn viết. Ông đã viết một câu chuyện về một em bé gái mồ côi mẹ rất hay như thế này. Cha cô bé có thói quen mỗi khi đi làm về là ngồi ngay xuống ghế, mở cặp, lôi giấy tờ ra, đốt ống điếu và gác chân lên ngăn kệ đặt gần lò sưởi. Một lần kia con ông là một bé gái mở cửa bước vào. Em xin ông chơi đùa với em một lát vì em cảm thấy rất cô đơn. Lần này cũng như những lần trước, ông luôn bảo ông rất mệt, hãy để cho ông yên. Và ông bảo con ông hãy ra đường mà chơi. Thế là cô bé đi ra chơi ở ngoài đường, và truyện không tránh được đã xảy ra là sau những ngày tháng chơi ở ngoài đường, em đã trở thành một cô gái đứng đường. Thời gian trôi qua, ông bố chết và cô bé cũng chết. Linh hồn cô được đưa lên đến Thiên Đàng. Thánh Phêrô vừa trông thấy cô liền thưa với Chúa Giêsu:

– Thưa Thầy, đây là cô gái thật xấu nết. Con nghĩ phải đưa thẳng cô ta xuống hỏa ngục.

Nhưng Chúa Giêsu ôn tồn đáp:

– Không, hãy cho cô ấy vào.

Rồi đôi mắt ngài trở nên nghiêm nghị:

– Và con hãy đi tìm người cha đã từ chối không chịu chơi đùa với con gái nhỏ của mình, đuổi nó ra thiên đường, và đưa hắn xuống hỏa ngục.

Chúng ta hãy xin Chúa cho mỗi người chúng ta được luôn sống làm gương sáng cho mọi người. Amen.

Bài Tin Mừng hôm nay có hai phần tương đối rõ rệt.

Phần thứ nhất Chúa báo trước về cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa

Phần thứ hai Chúa đề nghị một lối sống mới cho tất cả những ai muốn theo Ngài.

I. Hôm ấy Chúa Giêsu đang đi với các môn đệ. Ngài tránh không muốn cho ai biết Ngài. Ngài sợ người ta nô nức đi theo Ngài như chạy theo một “Người lớn”. Và chính trong bối cảnh này Ngài loan báo cho các môn đệ về cuộc khổ nạn Ngài sắp phải chịu. Đây là lần thứ hai Ngài làm như thế.

Ngài sử dụng lại các từ ngữ hầu như y hệt lần trước (8,31) “Con Người” sẽ bị “nộp” vào tay người ta.

Và cũng như lần trước lời hứa Phục sinh được thêm vào ngay sau đó, thế nhưng lời hứa này xem ra chẳng an ủi được các môn đệ trước viễn ảnh đớn đau của cái chết. Tệ hơn nữa các ông ấy còn tỏ ra hầu như chẳng hiểu gì về những lời giáo huấn của Thầy mình. Lần trước thì Phêrô đã biểu lộ sự phản kháng. Còn lần này tuy không nói ra nhưng thái độ “khép lòng” của họ được ghi nhận qua nỗi sợ hãi không dám “hỏi Ngài” chứng tỏ họ cố tránh né những khó khăn và thử thách đang chờ đợi Chúa.

Đứng trước hoàn cảnh như thế Chúa phản ứng lại như thế nào?

Một lần nữa Marco cho chúng ta thấy Chúa lại kiên trì và nhẫn nại giáo dục dạy dỗ họ.

Ngài khởi đầu công việc dạy dỗ bằng cách kéo các môn đệ về với những gì mới xẩy ra. Ngài hỏi họ về nội dung cuộc tranh luận giữa họ với nhau ở dọc đường. Nghe lời Chúa Giêsu hỏi, họ không trả lời. Thực ra họ đã tranh luận với nhau xem ai là người “lớn” nhất.

Chúa Giêsu cảm thấy có bổn phận phải can thiệp để làm cho các môn đệ mình thoát khỏi cái khuynh hướng đua đòi, chạy theo quyền lực và Ngài cho họ một bài học sống động (9,35).

Marco diễn tả Chúa ngồi xuống để biểu lộ cung cách của một vị sư phụ mà các đệ tử phải chú tâm lắng nghe. Đây là tư thế của một người giảng dạy đầy uy quyền.

Chúa Giêsu nói với họ một cách thật rõ ràng. Trong lời ngỏ với những vị lãnh đạo tương lai của dân Chúa, Chúa Giêsu đã đảo ngược cái phẩm trật thông thường của nhân loại. “Muốn làm đầu thì phải làm cuối, muốn chỉ huy thì phải làm ‘đầy tớ tất cả”.

II. Nhưng thử hỏi sứ điệp của Chúa có được đón nhận hay không? Ngài tin là có. Và để cho lời của Ngài được cụ thể hóa Ngài đặt một em bé giữa các ông, ôm nó vào lòng. Cử chỉ này tạo nên một ảnh hưởng bất ngờ. Dắt một em bé vào giữa họ rồi ôm hôn nó: Đây là một việc làm hoàn toàn trái với tập tục đương thời. Xã hội lúc đó không hề quan tâm đến trẻ em. Người ta coi rẻ trẻ em như một sinh vật vô nghĩa, thậm chí họ còn xua đuổi khai trừ chúng ra khỏi cộng đoàn vì cho rằng chúng ngu dốt không biết gì về lề luật.

Vậy khi đón nhận một em bé như thế Chúa Giêsu đã làm một công việc hết sức quan trọng. Đó là Ngài trả lại giá trị cho những con người bị loại trừ và Chúa còn nhấn mạnh thêm là việc đón tiếp những con người bị khai trừ như thế cũng chính là đón tiếp Ngài. Đây quả thật là một sứ điệp bất ngờ và cũng rất là mới mẻ của những trang Tin Mừng khả ái này.

Kính thưa anh chị em

Tới đây thì ý nghĩa của Bài Tin Mừng đã khá rõ. Điều Chúa Giêsu muốn ở nơi các môn đệ của Ngài ngày xưa cũng là điều mà Chúa muốn đối với chúng ta hôm hay. Vấn đề đặt ra là khi theo Chúa, sống cuộc đời tự hạ phục vụ như thế, Chúa sẽ dẫn chúng ta đi đến đâu. Câu trả lời tương đối cũng dễ: Đến vinh quang. Đối với Chúa thì vinh quang đã rõ. Đó là sự phục sinh của Ngài. Còn đối với chúng ta thì xem ra vinh quang còn bị che phủ chưa ló dạng. Nhưng chúng ta có cơ sở để tin rằng vinh quang đó sẽ tới.

Xin chứng minh bằng một thí dụ.

Anh chị em biết Mẹ Têrêsa, một con người sống rất gần gũi với chúng ta trong thời gian. Giáo Hội đã phong thánh cho Mẹ. Tại sao thế? Tại vì mẹ xứng đáng được tôn vinh như thế. Một con người khi còn sống chỉ biết phục vụ những người nghèo khó, bệnh tật, bị bỏ rơi….Vậy mà khi qua đời, không biết bao nhiêu danh hiệu cao quí người ta đã đặt ra để ca tụng mẹ.

Ngay khi vừa được tin Mẹ qua đời các báo đã đưa ngay lên trang nhất những bản tin với những những hàng tít thật lớn: “Mẹ của những người nghèo đói đã ra đi” – “Vị nữ thánh của những người cùng khổ không còn nữa” – “Vị nữ thánh giữa đời thường đã vĩnh viễn ra đi”

Bên cạnh những lời ca tụng của báo chí, nhiều nhà lãnh đạo trên thế giới cũng bày tỏ lòng thương tiếc sâu sắc. Tổng thống Pháp Jacques Chirac đã gửi đến Calcutta bức điện chia buồn như sau: “Buổi tối hôm nay đã có ít tình yêu hơn, ít lòng trắc ẩn hơn và cũng ít ánh sáng hơn trên thế giới”

Tại Mỹ tổng thống Bill Clinton đã nói: “Mẹ là người luôn gây ngạc nhiên, một trong những vĩ nhân của thời đại này”

Nữ hoàng Elizabeth II nước Anh gửi một bức thư chia buồn với dòng Nữ Tu thừa Sai Bác Ái đã viết: “Mẹ Têrêxa và công Chúa Diana mỗi người một cách đã nói lên tấm gương: Là con người hãy biết đối xử với nhau bằng lòng nhân ái” – Còn thủ tướng Tony Blair đã gửi đến Calcutta lời thương tiếc: “Trong một tuần đầy bi kịch, thế giới lại càng buồn hơn vì một trong những người phục vụ nhiều lòng trắc ẩn đã ra đi”

Tại Albani quê hương thứ nhất của mẹ, thủ tướng Fatos Nano đã nói: “Đất nước Albani quê hương thương tiếc mẹ vô vàn và muốn đưa thi hài của mẹ về an táng tại quê hương, nhưng ý nguyện này không thành tựu được. Albani sẽ để tang Mẹ trong ba ngày”

Còn tại Châu Á, chính phủ Indonesia bày tỏ lòng thương tiếc và kính phục. Chính phủ Philippin tổ chức lễ tang Mẹ trọng thể tại một trong những quận nghèo nhất ở thủ đô Manila. Tại Singapore thủ tướng Goh Chok Tony đã nói: “Mẹ Têrêxa là một trong những phụ nữ nổi bật nhất của thế kỷ 20” Tại Hàn quốc tổng thống Kim Yong Sam nói: “Nhân loại sẽ mãi mãi ghi nhớ sự hy sinh cả cuộc đời của Mẹ Têrêxa cho những người bần cùng trên thế giới”

Đó không phải là vinh quang sao kính thưa anh chị em? Là vinh quang chứ! Có rất nhiều nhà lãnh đạo trên thế giới này thèm được cái vinh quang đó nhưng nào có ai cho! Có nhiều người giầu có muốn được một chút vinh quang như thế nhưng làm sao mà có được.

Để kết thúc bài suy niệm hôm nay, tôi xin được mượn lời của tờ Báo Lao động để nói lên tâm tư của tôi: “Trong cuộc đời bình thường của mình, Mẹ Têrêsa chỉ sống bên cạnh nhưng người bần hàn cơ cực, sắp chết, lở lói, đói ăn, không nhà, không thân nhân, nhưng ngày thứ bảy vừa qua có đến hai nữ hoàng, bốn vị tổng thống đương nhiệm, ba đệ nhất phu nhân, hai thủ tướng và rất nhiều người cao sang quyền quí đã đến dưới chân bà nghiêng mình tiễn biệt. Kể từ ngày cố thủ tướng Javahartal Nerhu qua đời dến nay, chưa bao giờ người dân Ấn độ chứng kiến được một đám tang vĩ đại như vậy.”

Và lời của Chúa Giêsu: “Ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ.”+” Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy.”(Ga 12,26).

Thiếu nhi chúng con yêu quí,

Thánh Marco vừa thuật lại một câu chuyện mà cha chắc là phải Chúa buồn.

Chúng con biết tại sao không?

– Thưa cha, tại các môn đệ của Chúa cãi nhau.

– Rất đúng! Chúng con giỏi quá. Đúng là như vậy.

– Môn đệ của Chúa cãi nhau về vấn đề gì nào?

– Thưa cha…cãi nhau xem ai là người lớn nhất.

– Giỏi nữa. Thế chúng con đã cãi nhau bao giờ chưa?

– Dạ rồi.

– Cãi nhau về vấn đề gì?

…………

Đây cha kể cho chúng con nghe câu chuyện này:

Một ngày nọ, các màu sắc nổ ra một cuộc tranh cãi lớn. Màu nào cũng cho rằng mình mới là sắc màu tuyệt vời nhất, quan trọng nhất và được hết thảy mọi người yêu thích.

Màu xanh lá cây nói:

– Rõ ràng mình là màu quan trọng nhất. Mình là dấu hiệu của sự sống và hy vọng. Chính vì thế mà mình được chọn là màu của cỏ cây, của hoa lá. Không có mình, cả thế giới này chỉ là một nơi khô cằn, chết chóc. Các cậu thử nhìn khắp các vùng làng quê xem, đâu đâu cũng thấy mình trên đó.

Màu xanh dương vội ngắt lời:

– Sự tồn tại của bạn chỉ giới hạn trên đất đai mà thôi, sao bạn không thử nhìn bầu trời và mặt biển xem. Không phải nước là nguồn sống cơ bản của mọi vật à? Còn bầu trời lại cho bạn không gian, sự bình an trong tâm hồn. Rõ ràng, nếu không có tôi, thế giới này sẽ không hoàn hảo chút nào.

Nghe vậy, màu vàng mỉm cười và lên tiếng:

– Sao các bạn lại quan trọng hóa những vấn đề nhỏ nhặt như thế nhỉ? Chính mình là người mang lại tiếng cười, niềm vui và sự ấm áp cho hành tinh này, bởi mình là màu của mặt trời, mặt trăng, của các vì sao. Hãy ngắm nhìn màu vàng rực rỡ của đóa hướng dương mà xem, chẳng phải nó khiến các bạn thấy cả thế giới đang mỉm cười với mình hay sao? Không có mình sẽ không có niềm vui đâu.

Màu da cam lớn tiếng:

– Còn mình là màu tượng trưng cho sức khỏe và sự mạnh mẽ. Có lẽ các bạn ít thấy mình, nhưng mình quý lắm đấy nhé! Mình chứa đựng những vitamin quan trọng cho con người. Tuy không phải lúc nào mình cũng có mặt, nhưng khi mọi người ngắm nhìn bầu trời lúc bình minh hay hoàng hôn, không ai tránh được sự cảm phục trước vẻ kiều diễm của mình cả.

Không thể chờ đợi lâu hơn nữa, màu đỏ cất giọng phản đối:

– Mình mới là màu thống trị thế giới. Mình là màu của máu, và ai cũng biết rõ máu là thứ quan trọng nhất cho sự sinh tồn của loài người. Mình cảnh báo hiểm nguy và tượng trưng cho lòng dũng cảm. Mình sẵn sàng chiến đấu vì chính nghĩa, kêu gọi lòng nhiệt tình, tự tin chiến thắng. Không có mình, trái đất này sẽ vô vị và vắng lặng như chốn hoang mạc. Mình cũng chính là màu tượng trưng cho đam mê và tình yêu, là màu của hoa hồng, hoa trạng nguyên và của trái tim đang nồng cháy.

Đến lúc này thì màu tím mới đứng dậy, hết sức duyên dáng nhưng cũng thật sắc sảo:

– Mình là sắc màu của hoàng gia và sức mạnh. Các vì vua, các nhà lãnh đạo và các vị quyền cao chức trọng đều chọn mình cho dấu hiệu của uy quyền và thông thái. Khi đứng trước mình, mọi người đều không bao giờ dám thắc mắc. Họ chỉ biết lắng nghe và phục tùng.

Khi tiếng xôn xao còn chưa kịp lắng xuống, màu chàm đã cất giọng, rụt rè nhưng cũng khá quyết liệt:

– Còn mình, mình là màu của sự im lặng. Bạn khó mà nhận ra mình giữa đám đông, nhưng nếu không có mình, các bạn chỉ là những kẻ hời hợt, nông cạn và thiển cận. Mình tượng trưng cho tư duy, cho bề dày của lịch sử, của những điều bí ẩn… Các bạn phải cần mình mới có cân bằng, tương phản, cho những lúc lắng đọng tâm hồn và cho sự bình ổn bên trong.

Lời lẽ của màu sắc nào cũng đầy thuyết phục, nên chẳng ai chịu ai. Thế là chúng lại tiếp tục lớn tiếng đề cao bản thân và tranh cãi với nhau. Ai cũng muốn mình là sắc màu tuyệt vời nhất. Tiếng tranh cãi càng lúc càng lớn dần. Bỗng nhiên một ánh sáng lóe lên, bầu trời phủ kín đầy mây mù, sấm sét giật liên hồi. Mưa bắt đầu rơi. Các màu sắc sợ hãi nép sát vào nhau như để tìm chốn nương tựa. Giữa âm thanh hỗn độn đó, mưa bắt đầu lên tiếng:

– Các ngươi thật là một lũ ngu ngốc, tranh cãi nhau chỉ vì cái tôi ích kỷ, hẹp hòi, chỉ vì muốn mình nổi trội hơn người khác.

Đó là lý do khiến người ta hay cãi nhau. Cải nhau vì cái tôi ích kỷ, hẹp hòi, chỉ vì muốn mình nổi trội hơn người khác.

Các môn đệ của Chúa Giêsu hôm nay cãi nhau cũng vì những lý do đó. Ai cũng muốn làm lớn. Ai cũng muốn hơn người. Đó là cái gốc sinh ra những bất hoà giữa người với người và là cớ sinh ra sự cãi nhau.

2. Bây giờ cha hỏi chúng con đứng trước việc đó Chúa Giêsu đã có thái độ như thế nào?

Câu trả lời: Chúa kiên nhẫn giáo dục các môn đệ của Ngài. Chúa không giận, không la rầy. Bằng một thái độ của một bậc Thầy Chúa ôn tồn dậy dỗ các môn đệ.

Chúng con hãy nghe lời Chúa nói: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người.” “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Ðấng đã sai Thầy.”

Chúa nói hay quá chúng con. Đây có thể coi là một toa thuốc chữa bệnh cãi nhau. Toa thuốc này gồm có hai thứ:

– Thứ nhất là sống khiêm nhường và phục vụ nhau

– Thứ hai là biết mở lòng đón tiếp và tôn trọng nhau.

Biết dùng hai loại thuốc này thì căn bệnh cãi nhau sẽ hết.

Cha mượn câu chuyện dụ ngôn này để chúng con thấy được ý của Chúa. Câu chuyện về con Ngựa và con Trâu.

Ngựa và trâu cùng ăn cỏ trên một cánh đồng. Bỗng ngựa liếc nhìn trâu và khinh bỉ nói:

– Này tên thợ cày kia! Cớ sao mi dám ngọam cỏ cạnh ta? Đứng xa ra một tí đi! Có khôn thì biến đi cho khuất mắt ta!

Trâu rất bực, nhưng cũng cố nhịn mà nói lại:

– Sao anh lại giương vây giương cánh mà coi thường tôi thế?

– Hừm! Thế mi không thấy trên lưng ta có bộ yên đẹp hay sao? -ngựa đáp- Mi không thấy người ta đã dùng vàng bạc châu báu để trang điểm cho ta hay sao? Nhà vua thân chinh cưỡi ta, thường xoa bườm, vuốt ve và khen ngợi ta. Ta vừa có tài chạy mau, lại vừa có ích. Còn mi là cái thá gì? Nhà vua đâu có thèm nhìn tới.

– Điều đó rất đúng!- Trâu cất giọng ồ ồ đáp-, nhưng dẫu sao tôi vẫn có ích hơn bạn. Tôi tuy chậm chạp nhưng có sức. Giả sử tôi không cày ruộng, không vò lúa, không kéo xe chở thóc về kinh đô, không quay bánh xe ở cối xay bột, thì chẳng những anh mà ngay cả đến nhà vua phúc hậu cưỡi anh cũng nhăn răng mà chết. Tôi đã đem sức lao động của mình làm cho nhân dân khắp thế gian được no ấm.

– Cha cái tên khốn kiếp kia!- Ngựa hí lên- , đừng có già mồm nói láo, ta đá cho lòi ruột ra bây giờ !

-Trâu cũng không lép vế, lớn tiếng mắng lại ngựa. Hai con vật sắp ẩu đả thì vừa lúc ấy voi đi tới. Voi đã nghe rõ đầu đuôi câu chuyện, liền nói :

– Hai tên mất trí kia, cãi nhau như vậy thì được tích sự gì. Cả hai chú đều vô ích, mỗi chú làm được một việc khác nhau. Này, chú ngựa hãy nghe ta nói: Trâu không làm được việc của chú, còn chú cũng không thay được trâu. Chú hầu hạ người, còn trâu thì làm việc cho người, cả hai đều có ích. Những lời chú tự khen mình chỉ là những lời rỗng tuếch. Thôi đừng cãi nhau nữa, người nào việc nấy đi làm đi!

Nghe xong, thấy Voi nói phải, Ngựa đâm ngượng. Từ đó trở đi, ngựa không bao giờ khoe khoang và gièm pha người khác nữa. Ngựa hiểu rằng ai lao động thì cũng đều đem lại lợi ích cho mọi người.

Nếu ai cũng biết mình thật sự là ai và sống để làm gì thì chắc là thế giới này sẽ tốt đẹp biết bao! Amen.