Chúng con yêu quí, Cha đố chúng con, hôm nay chúng ta mừng lễ gì nào?

– Lễ Thiên Chúa Ba Ngôi.

– Chúng con rất giỏi. Nhưng ai dạy cho chúng ta biết về Thiên Chúa Ba Ngôi nào?

– Chúa Giêsu.

– Lại giỏi nữa. Thiếu nhi của cha rất giỏi.

– Nhưng một Chúa mà lại có Ba Ngôi nghĩa là thế nào chúng con? Ai có thể nói cho cha biết không?

–  …Có Ngôi thứ nhất là Cha, Ngôi thứ hai là Con và Ngôi thứ ba là Chúa Thánh Thần.

– Đúng rồi. Nhưng làm sao để có thể cắt nghĩa cho mọi người hiểu được một Thiên Chúa mà lại có Ba Ngôi? Khó quá phải không chúng con? Cha thấy để hiểu được Thiên Chúa Ba Ngôi thì không nên dùng trí khôn để tìm hiểu, nhưng nên dùng trí khôn để nhìn vào những công việc Thiên Chúa làm mà hiểu về Thiên Chúa thì hay hơn và dễ hiểu hơn.

Thế thì Thiên Chúa đã làm những gì để cho người ta nhìn vào mà biết được Thiên Chúa nào?

Cha đọc trong thư của Thánh Gioan, cha thấy ngài viết một câu rất hay. Ngài nói: Thiên Chúa là Tình thương. Tình thương của Thiên Chúa luôn có việc làm minh chứng. Bởi thế người ta mới nói:

1. Thiên Chúa Cha là Tình thương tạo dựng

Tạo dựng là làm sao chúng con? – Là làm nên mọi sự ở trần gian này.

Cha kể cho chúng con câu chuyện: Một ông thông thái người Pháp nọ băng qua sa mạc. Ông dẫn theo vài người Arập làm người dẫn đường. Khi mặt trời lặn, một người trong bọn họ trải một tấm thảm xuống đất và cầu nguyện.

– Ngươi làm gì thế?- Ông thông thái hỏi.

– Tôi cầu nguyện.

– Ngươi cầu nguyện ư? Ngươi cầu nguyện cùng ai?

–  Thiên Chúa.

Ông thông thái mỉm cười.

– Ngươi đã bao giờ thấy Thiên Chúa chưa?

– Chưa!

– Vậy thì ngươi là một kẻ điên nếu tin vào một Thiên Chúa mà ngươi không bao giờ thấy, không bao giờ nghe và không bao giờ đụng chạm đến.

Người Árập không trả lời gì. Sáng sớm hôm sau, trước khi mặt trời mọc, nhà thông thái ra khỏi lều, đã nói lên nhận xét này với người dẫn đường cho ông:

– Đã có một con lạc đà đi qua đây!

Một tia sáng lóe lên trong mắt người Arập.

– Ngài thấy con lạc đà chứ?

– Không.

– Ngài không đụng đến nó chứ?

– Không.

– Vậy thì ngài điên khi tin là có một con lạc đà mà ngài không nghe, không thấy, không ngửi qua chỗ này.

– Ồ! – Ông thông thái đáp trả – nhưng người ta thấy rõ các dấu chân của nó trên cát.

Vào chính ngay lúc ấy, mặt trời mọc lên ở chân trời với tất cả các màu sắc rực rỡ của phương đông. Bằng một cử chỉ gọn gàng, người Árập đưa tay chỉ vào tinh thể rực sáng, rồi nói:

– Ngài có thấy dấu vết của Đấng Tạo Hóa không? Vậy sao ngài không biết rằng có một Thiên Chúa.

Chúng ta hãy nghe lại một trong những lời thánh vịnh đẹp nhất:

Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa
hông trung kể lại những việc tay Người làm.

2. Chúa Con: Tình Thương Cứu Chuộc

Sự cứu chuộc thật là kỳ diệu ngoài sức tưởng tưởng của loài người.

Trong  một nhà thờ ở Tây Ban Nha, người ta tôn kính một cây Thánh Giá cổ xưa mà cánh tay phải của Chúa đã tách rời khỏi đinh. Cây Thánh giá này có lịch sử như sau:

Ngày nọ, một tội nhân thuộc loại “gạo cội”. Gạo cội là làm sao chúng con? Nghĩa là tội ghê gớm lắm. Ông ta đến xưng  thú tội mình dưới cây Thánh giá này với tất cả dấu hiệu của một sự thống hối  chân thật. Cha giải tội do dự ban phép tha tội cho ông ta vì các tội của ông ta nhiều và nặng. Tội nhân cầu xin sự tha thứ.

– Tôi ban phép giải tội cho ông, – Vị linh mục nói – tuy nhiên ông không được tái phạm nữa  nhé!

Tội nhân xin hứa và giữ một được một thời gian. Nhưng rồi, yếu đuối và sã ngã lại. Lòng thống hối thúc đẩy ông đến toà giải tội . Vị linh mục bảo ông:

– Lần này thì tôi không ban phép giải tội cho ông đâu!

– Con thống hối, – tội nhân đáp lời vị linh mục – con rất chân thành khi đoan hứa với cha, nhưng con yếu đuối! Xin hãy tha thứ cho con!

Cha giải tôi tha thứ và nói thêm:

– Đây là lần cuối cùng đó nhé!

Một thời gian khá lâu sau, một phần theo thói quen, một phần vì yếu đuối, ông lại rơi vào vòng tội lỗi.

– Bây giờ thì dứt khoát! – Vị linh mục bảo – ông luôn phạm lại trong cùng một tội lỗi, điều đó chứng tỏ ông không có sự thống hối chân thành.

– Thưa Cha, con rất chân thành thống hối. Con sa ngã vì con yếu đuối. Con thẳng thắn, chân thực, nhưng con bệnh hoạn.

– Không, không còn sự tha thứ cho ông nữa.

Vào chính lúc đó, người ta nghe như có tiếng ai khóc. Rồi người ta nghe thế tiếng động phát xuất từ cây Thánh giá: một cánh tay của Chúa rời khỏi đinh, giơ lên và vạch trên đầu tội nhân dấu hiệu sự tha thứ, đồng thời  có một tiếng nói: “ Ngươi, ngươi không đổ máu ngươi cho nó!”

Vâng! Sự cứu chuộc thật là kỳ diệu con ngoài chẳng làm sao mà hiểu nổi.

3. Chúa Thánh Thần: Tình Thương Thánh Hóa

Thánh Thần là Thần thánh hóa. Một trong những công việc đặc biệt nhất là ơn tha tội. Chúng con hãy nghe lời của Chúa Giêsu: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.”(Ga 20,22-23). Đây là một ơn ban đặc biệt của Thánh Thần. Và ơn ban này chỉ trong Giáo Hội mới có.

Cha kể cho chúng con câu chuyện có thật này:

Linh mục Bernado thuộc hội Giáo Hoàng thừa sai người Ý truyền giáo tại Hongkong. Ngài kể lại rằng:

“Trong một ngày thứ Sáu tuần thánh, sau khi nói về cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá và ơn tha thứ của Chúa, tôi giải thích về ý nghĩa của Bí tích Giải Tội và kêu gọi mọi người xưng tội để cảm nhận được ơn tha thứ của Chúa. Sau nghi lễ, có một người Hồi giáo đến gặp tôi nói như sau:

– Thưa Cha, tôi muốn xưng tội để được ơn tha thứ.

Vị linh mục giải thích rằng: “Vì chưa được rửa tội, ông không thể lãnh nhận Bí Tích Giải tội”, nhưng người tín hữu Hồi giáo nài nỉ:

– Thưa Cha, trong Hồi giáo của chúng tôi không có sự tha tội, nhưng tôi cảm thấy cần phải được Chúa tha thứ và có được một dấu chỉ về sự tha thứ của Ngài.

Vị linh mục liền chúc lành cho người tín hữu Hồi giáo và người này ra về trong bình an.”

Đúng như vậy chúng con. Chỉ trong Giáo Hội của Chúa mới có sự tha thứ. Và đây là ân ban của Chúa Thánh Thần. Chúng ta hãy cám ơn Chúa vì hồng ân cao cả này. Amen.

Chúng con yêu quí,

Bài Tin mừng chúng con vừa nghe rất vắn nhưng qua đó thánh Gioan cũng đã đủ để cho chúng ta thấy được những ơn ban của Chúa Thánh Thần, giúp chúng ta thấy được sự có mặt của Chúa Thánh Thần trong cuộc sống của chúng ta.

Cha đố chúng con những ơn ban đó là những ân ban nào?

1- Trước hết chúng con hãy nghe Chúa Giêsu: “Chúc anh em được bình an!“(Ga 20,19)

Như vậy ơn ban đầu tiên và cao trọng nhất của Chúa Thánh Thần là ơn Bình an. Thế nhưng cha hỏi sự bình an mà Chúa Thánh Thần ban tặng là thứ bình an như thế nào?

Cha kể cho chúng con nghe một câu chuyện này do báo Tuổi Trẻ Chúa nhật số ra ngày 2.9.2001 đăng. Bào báo có tựa đề là “Sự bình an“. Câu chuyện như thế này: Một vị vua kia treo giải thưởng cho nghệ sĩ nào vẽ được một bức tranh đẹp nhất về sự bình an. Nhiều họa sĩ đã cố công. Nhà vua ngắm tất cả các bức tranh nhưng chỉ thích có hai bức và ông phải chọn lấy một.

Một bức tranh thứ nhất vẽ một hồ nước yên ả. Mặt hồ là tấm gương tuyệt mỹ vì có những ngọn núi cao chót vót bao quanh. Bên trên là bầu trời xanh với những đám mây trắng mịn màng. Tất cả những ai ngắm bức tranh này đều cho rằng đây là một bức tranh diễn tả về sự bình an thật hoàn hảo.

Bức tranh kia cũng có những ngọn núi nhưng những ngọn núi này trần trụi và lởm chởm đá. Ở bên trên là bầu trời giận dữ đổ mưa như trút, kèm theo những tiếng sấm chớp long trời. Ở giữa là một dòng thác nổi bọt trắng xóa đang xuống bên vách núi là. Bức tranh này trông thật chẳng bình an chút nào.

Nhưng khi nhà vua ngắm nhìn, ông thấy đàng sau dòng thác là một bụi cây nhỏ mọc lên từ khe nứt của một tảng đá. Trong bụi cây ấy có một con chim mẹ đang xây tổ. Ở đó giữa dòng thác trút xuống một cách giận dữ, có một con chim mẹ đang thản nhiên đậu trên tổ của mình… Bình an thật sự.

Nhà vua công bố: “Ta chấm bức tranh này!”

Bình an không có nghĩa là một nơi không có tiếng ồn ào, không khó khăn, không cực nhọc. Bình an ở ngay trong sự yên tĩnh trong trái tim. Đó mới chính là ý nghĩa thật sự của bình an.

Sau khi Đức Giêsu chịu chết, các tông đồ sợ người Do Thái lùng bắt, nên đã trốn vào phòng, cửa đóng then cài.

Giữa cơn lo sợ đó, Đức Giêsu sống lại, hiện ra với các ông, như chim mẹ an nhiên đậu trên tổ canh giữ bầy con, Người mang lại cho các ông sự bình an đích thực: “Bình an cho anh em!”.

2- Tiếp đến ơn tha tội: chính nhờ được tha tội mà con người được bình an thật.

Linh mục Bernado thuộc hội Giáo Hoàng thừa sai người Ý truyền giáo tại Hongkong kể lại rằng: Vào một ngày thứ sáu tuần thánh, sau khi nói về cái chết trên thập giá và ơn tha thứ của của Chúa Giêsu, Ngài giải thích về ý nghĩa của Bí Tích Giải tội và kêu gọi mọi người xưng tội để hiểu được được ơn tha thứ của Chúa. Sau nghi lễ, có một người Hồi giáo đến gặp ngài và nói như sau:

– Thưa Cha, con muốn xưng tội để được ơn tha thứ.

Vị linh mục giải thích rằng: Vì chưa được rửa tội, ông không thể lãnh nhận Bí Tích Giải tội, nhưng người tín hữu Hồi giáo nài nỉ:

– Thưa Cha, trong Hồi giáo của chúng con không có sự tha tội, nhưng con cảm thấy cần phải được Chúa tha thứ và có được một dấu chỉ về sự tha thứ của Ngài.

Cha liền chúc lành cho người tín hữu Hồi giáo và sau đó người này trở thành người con của Chúa. Từ ngày đó người ấy nói rằng anh ta luôn được sống trong sự bình an.

3- Ơn ban cuối cùng là ơn được sai đi để loan báo Tin Mừng cứu độ cho mọi người cho tới ngày tận thế. Thánh Phaolô đã quả quyết: “Làm sao mà rao giảng, nếu không được sai đi? (Rm 10,15). Chúa Giêsu bảo “Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”.(Ga 20,21)

Linh mục Natarinô Rochky, một thừa sai người Ý làm việc truyền giáo lâu năm ở Nhật Bản, đặc biệt là Ngài làm Cha sở họ đạo Elsaye. Cách thủ đô Tôkyô khoảng 100 km. Ngài kể lại câu chuyện sau đây:

“Có một giáo sư đại học trẻ tuổi người Nhật xin gặp tôi mỗi tuần 2 buổi tối để thảo luận về các vấn đề tôn giáo và Phúc Âm, mặc dù ông chưa phải là tín hữu Công giáo. Những cuộc thảo luận như vậy kéo dài hơn một năm trời. Vị giáo sư này trình bày cho tôi những nghi ngờ, thắc mắc về đạo, đồng thời ông cũng xin tôi giải thích thêm về Tin Mừng,  về Giáo hội và về luân lý của đạo Công giáo.

Sau hơn một năm, tôi cảm thấy vị giáo sư thông minh đó có vẻ đã sẵn sàng đón nhận Bí Tích Thanh Tẩy, nên tôi hỏi ông có muốn được rửa tội và gia nhập vào Hội thánh Công Giáo hay không. Tôi ngạc nhiên khi thấy ông từ chối cách lịch sự. Và từ đó, tôi không thấy không lui tới với tôi nữa… Bẵng đi hơn 10 tháng, khi tôi hầu như đã quên đi vị giáo sư đó, thì một hôm. Ông trở lại gặp tôi và nói:

– Thưa Cha, Cha đã thuyết phục được con. Bây giờ con sẵn sàng đón nhận Bí Tích Rửa tội và con cũng đã chuẩn bị cho vợ con cũng như hai đứa con của con.

Nghe đến đây, tôi rất ngạc nhiên. Tôi hỏi ông điều gì đã khiến ông thay đổi ý kiến như thế. Ông ta đáp:

– Trong những tháng qua, con đã âm thầm theo dõi xem Cha đã sống như thế nào. Cha đã từng nói với con rằng Cha thường dâng thánh lễ một mình trong nhà thờ mỗi ngày lúc 7 giờ sáng. Đó cũng là giờ con ra ga xe lửa để đến Tôkyô dạy học, vì thế con vẫn có dịp đi qua Nhà thờ của Cha. Con dừng lại một lát nhìn Cha qua cửa sổ, xem Cha làm gì trong đó. Bao giờ con cũng thấy Cha trong Nhà thờ và cầu nguyện thật sốt sắng. Ngoài ra, con cũng dò hỏi nhiều người về cách sống của Cha. Qua các cuộc điều tra đó, con thấy quả thật Cha đã tin và đã sống những điều Cha đã chia sẻ cho con về đạo. Xét về mặt kiến thức thì con đã xác tín về sự thật Phúc Âm, nhưng con muốn xem Cha có sống Phúc Âm thực sự hay không”.

Cha Rochky không những đã truyền giáo bằng lời nói, giảng dạy, nhưng còn bằng cuộc sống thường nhật của mình nữa!

Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài hãy đến như ngọn gió mát, thổi vào cuộc đời chúng con luồng sinh khí mới để cả trái đất này được thay da đổi thịt trong cùng một Thánh Thần Tình Yêu. Amen. **

 ** Lời Chúa:

19 Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Dothái. Ðức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Chúc anh em được bình an!” 20 Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. 21 Người lại nói với các ông: “Chúc anh em được bình an! như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. 22 Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. 23 Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”.

Chúng con yêu quí,

Hôm nay chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội mừng lễ Chúa lên trời. Hay nói cho có văn vẻ và đẹp hơn thì chúng ta gọi là lễ Thăng Thiên. Thăng thiên hay lên trời cũng là việc Chúa Giêsu của chúng ta không còn có mặt trên trái đất này như một con người nữa mà Chúa đã đi vào một thế giới khác rồi.

Cha thử hỏi qua sự việc này Chúa muốn nhắn nhủ gì với mỗi người chúng ta?

Có nhiều điều Chúa muốn nhắn nhủ:

1. Trước hết là Chúa muốn củng cố niềm tin của chúng ta vào cuộc sống mai sau, cuộc sống đàng sau cuộc sống hôm nay của chúng ta.

Cha thấy đọc ở trong Tin mừng có mấy trường hợp người chết được Chúa cho sống lại, chẳng hạn như người con gái ông Giarô, người thanh niên con một bà góa thành Naim và nhất là Lagiarô, người đã chết 4 ngày mà Chúa đã cho sống lại…Nhưng tất cả những người ấy chẳng có người nào để lại cho thế hệ mai sau một chút kinh nghiệm gì về cái chết họ đã trải qua.

Thánh Gioan Maria Vianney một lần kia đã nói thật lớn với các bổn đạo của Ngài rằng: “Sự chết có thật chứ không phải Thiên Chúa bày đặt ra để hù dọa anh chị em đâu” – Vâng sự chết là có thật. Bao nhiêu cái chết của người đã ra đi trước chúng ta nói cho chúng ta điều đó. Nhưng đàng sau cái chết là cái gì thì chẳng ai trong chúng ta biết được.

Chính thánh Augustinô vị thánh tiến sĩ của Hội thánh, khi đứng trước thực cái chết, Ngài cũng cảm thấy bất lực.

Chỉ có Chúa Giêsu, bằng cái chết và sự phục sinh của Người, Người đã hé mở cho chúng ta thấy và hiểu một phần nào về cuộc sống đàng sau cái chết là gì để rồi đối với chúng ta là những người có niềm tin thì chúng ta ít ra cũng thấy được rằng cuộc sống không phải là con đường cụt mà nó đã có một lối ra.

2. Tiếp theo, việc Chúa lên trời đã đem đến cho chúng ta một niềm hy vọng và chính niềm hy vọng này là một nâng đỡ lớn lao cho mỗi người chúng ta để chúng ta xây dựng cho mình một cuộc sống cao cả, tốt đẹp và có ý nghĩa trong cõi đời này.

* Không thể sống mà không có hy vọng.

Cha nhớ một vở kịch đã được các sinh viên Y khoa diễn cách đây khá lâu, nhưng mỗi khi nhớ lại cha vẫn cảm thấy thấm thía. Vở kịch co tên là Vì những bước đi”. Kịch diễn lại cảnh một cô nữ điều dưỡng giúp một chàng thanh niên vì một tai nạn nên chân anh đã bị liệt. Bây giờ phải tập luyện để trả lại những bước đi cho đôi bàn chân. Trong một lần tập cho người thanh niên tàn tật này, cô Kim Loan, tên của cô nữ điều dưỡng trong vở kịch đó đã khích lệ người thanh niên bằng những lời rất đẹp như thế này:

“Cô gắng một chút nữa anh ạ.

Mỗi bước đi hôm nay là cả một đường dài ngày mai.

Vịn vào vai em mà đi.

Em hát cho anh nghe nhé.

Anh thích nhất là bài ca hy vọng phải không? ”

Thánh Antôn sống một cuộc sống thật khắc khổ trong rừng. Một ngày kia có mấy người đạo đức đến thăm Ngài. Thấy Ngài sống như thế mà vẫn tươi vui. Họ thắc mắc hỏi Ngài về cái bí quyết làm sao mà Ngài có thể sống tươi vui được như thế, thì Ngài dẫn họ đi vào sâu trong hang, tới một chỗ có cái lỗ có thể nhìn lên trời được. Ngài dừng lại và chỉ cho họ biết: Đó là tất cả bí mật về cuộc sống mà tôi đang sống: Bầu trời…niềm hy vọng của ngày mai.

3. Vấn đề còn lại là trong khi chờ đợi niềm hy vọng vào cuộc sống vĩnh cửu trở thành sự thật, mỗi người chúng ta phải làm gì?

Thánh Augustino nói hay lắm chúng con. Thánh nhân bảo:” Hãy tập sống cuộc sống thiên đàng ngay từ hôm nay”. Đúng vây chúng con. Hãy sống thiên đàng mai sau bằng chính thiên đàng hôm nay. Đó là cách chuẩn bị chắc ăn nhất. Nhưng chuẩn bị bằng cách nào? Bằng cách can đảm sống noi gương Chúa Giêsu nhất là đối với giới luật yêu thương của Chúa. Trong Tin Mừng thánh Luca 17,20 Chúa Giêsu đã nói rất hay: “Thiên đàng ở ngay trong lòng của các ngươi”.

Đức Cha Tiamer Toth trong một cuốn sách gửi cho các bạn trẻ, đã nói một câu mà cha nhớ mãi. Đức Cha nói: “Trong trận đại chiến vừa qua, người ta đã nhắc đi nhắc lại câu châm ngôn: “Tấn công là cách phòng thủ tốt nhất”. Câu châm ngôn thật hợp lý. Người ta không thể không thấy rằng khi bắt đầu cuộc chiến đấu tức là đã có một phần thắng quân địch. Trong cuộc chiến đấu vĩ đại của tâm hồn cũng vậy, phương pháp tốt nhất để phòng bị những thất trận là hằng ngày phải “đột kích” với quân đích ẩn  náu trong mình: lười biếng, vô tâm, vị kỷ, hay thay đổi, tò mò và còn nhiều nữa.

Ngày nọ có một hiệp sĩ Samurai thô lỗ hung bạo tìm đến với một vị thiền sư. Chàng nói với thiền sư.

– Xin ngài chỉ dạy cho cha biết thiên đàng và hỏa ngục là gì?

Vị thiền sư đưa mắt nhìn con người thô bạo từ bàn chân đến đỉnh đầu rồi thất vọng trả lời:

+ Dạy cho ngươi biết thế nào là thiên đàng, thế nào là hỏa ngục ư? Ta không thể dạy cho ngươi bất cứ điều gì cả. Ngươi là một con người hung bạo thô lỗ. Ngươi là nỗi nhục cho hàng hiệp sĩ Samurai. Hãy cút khỏi mặt ta, ta không thể chịu đựng được ngươi nữa.

Nghe những lời sỉ vả ấy, chàng hiệp sĩ liền rút gươm và định chém đầu vị thiền sư. Nhưng vị thiền sư đã giơ tay cản lại và nói:

+ Hỏa ngục là thế đó!

Chợt nhận ra bài học cụ thể của nhà tu hành, chàng hiệp sĩ dừng tay lại. Sự hối hận và cản thông bỗng trào dâng lên trong tâm hồn, chàng hiệp sĩ mới hiểu ra rằng vị thiền sư muốn hy sinh cả mạng sống của mình để dạy cho chàng bài học về hỏa ngục. Từ từ hạ gươm xuống, cho vào vỏ, rồi chàng đến quì gối trước mặt vị thiền sư với tất cả lòng thành và sám hối. Đỡ chàng dậy, vị thiền sư nhìn sâu vào đôi mắt của chàng và nói nhỏ :

– Thiên đàng là thế đó.

Thánh Phaolô bảo: Trên Thiên đàng sẽ chỉ còn một điều duy nhất: Đó là tình yêu. Sống tình yêu thương tức là sống thiên đàng hôm nay để chuẩn bị cho thiên đàng vĩnh cửu mai sau vậy.

Cha chúc chúng con kiên trì và chiếm được hạnh phúc thiên đàng Chúa hứa mai sau. Amen.

Thiếu nhi chúng con yêu quí,

Chúng con vừa được nghe một bài Tin Mừng nữa của Chúa Giêsu nói về luật yêu thương của Ngài.

1. Tuần trước cha đã nói với chúng con về hai tiếng yêu thương. Chắc chúng con còn nhớ những lời Chúa nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con thương yêu nhau”. Khi nói như thế Chúa, thứ hỏi Chúa muốn ám chỉ điều gì chúng con? Chúa muốn nói rằng người ta có thể phân biệt được ai là người thuộc về Chúa và ai là người không thuộc về Chúa. Người thuộc về Chúa là người biết yêu thương còn người không thuộc về Chúa là những không biết đến hai tiếng yêu thương. Như vậy điều chính yếu cho thấy những người thuộc về Chúa không phải là những người có mầu da, tiếng nói hay phong tục thói quen tốt nhưng là những người có trái tim.  Có trái tim có nghĩa là những người biết yêu thương. Chúng con có thấy trên mấy cái áo người ta hay in hình trái tim không. Cha thì dụ bằng tiếng Anh nhé. T+trái tim+Việtnam. Cha đố chúng con câu đó là gì nào? Thưa là tôi yêu Việt Nam.

Và hôm nay, chúng con được nghe Chúa nói thêm: “Ai yêu mến Thầy thì giữ Lời Thầy. Và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Và chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy”. Khi nói như thế Chúa Giê-su muốn nói điều gì?

Chúa muốn bảo rằng để Chúa biết ai là người yêu mến Chúa thật và ai là người không yêu Chúa thì cứ xem người đó có giữ Lời Chúa hay không. Cũng như chúng con yêu mến Cha mẹ thì chúng con giữ lời vâng lời cha mẹ vậy. Còn yêu mến Chúa thỉ phải giữ Lời Chúa.

“Ai yêu mến Thầy thì giữ Lời Thầy”  Như vậy việc giữ Lời Chúa làm cho mọi người trở thành người yêu mến Chúa. Và đây là lời hứa của Chúa dành cho những người yêu mến Chúa: “Và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Và chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy”. Thật là những lời hứa hết sức đặc biệt và cảm động. Được Thiên Chúa yêu mến, còn gì hạnh phúc hơn. Rồi còn được Chúa đến và ở trong. Chúng con thử nghĩ xem có ai trên đời làm được điều đó không? Cha tưởng chỉ có Chúa mới có thể làm được.

2. Nhưng làm thế nào để biết được người nào yêu và người nào không yêu mến Chúa? Dễ lắm! Chúng con hãy nghe lời thánh Gioan bảo:  “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì làm sao có thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy được (1Ga 4,20). Như vậy chúng con thấy yêu người là dấu chỉ (lại dấu chỉ nữa) yêu mến Thiên Chúa. Mà yêu người thì có đễ không chúng con?

Cha kể cho chúng con câu chuyện này:  Chuyện được đăng ở trên báo Tuổi trẻ ngày 28-12-2005. Tác giả kể lại câu chuyện này đặt cho nó một tựa đề là “Bà cụ lẩm cẩm”

Chuyện như sau: Ở khu tập thể nọ có rất nhiều người ở nhưng không ai lạ gì bà Ba. Mỗi sáng bà hay ngồi ở chiếc ghế đá trước cổng khu tập thể nhìn người này đưa con đi học, người khác đi chợ hoặc vội vàng đến công sở. Chiều, ai trở về cũng thấy bà vẫn ngồi chỗ ấy, bắt chuyện, hỏi thăm.

Nghe đâu trước đây bà đã từng lập gia đình. Nhưng chỉ vài năm sau người chồng bạc mệnh của bà đã mãi mãi ra đi trong một lần đánh cá ngoài khơi. Bà ở vậy từ đó đến giờ.

Nga là thư ký cho một tổng giám đốc người nước ngoài cũng ở trong khu tập thể đó. Cũng như bao người khác ở khu tập thể, Nga rất ít thời gian nên chưa bao giờ dừng lại để nói chuyện với bà. Bà có thói quen cứ mỗi lần thấy một người quen là bà luôn chào hỏi. Bà cũng rất muốn làm quen với mọi người. Có lần Bà đã muốn bắt chuyện với Nga nhưng việc đó làm Nga khó chịu và coi đó như là việc lẩm cẩm của một bà già!

Một lần kia khi Nga phải đi công tác xa, đi từ lúc trời chưa sáng. Oái oăm thay hôm đó do ngủ quên Nga vội vàng ào ra khỏi nhà mà quên khóa cửa. Gần cả ngày công tác trôi qua, Nga rụng rời tay chân khi nghĩ đến số tiền dành dụm được bấy lâu và số nữ trang cất trong tủ; rồi tivi, đầu đĩa, máy nghe nhạc…

Ruột gan Nga như lửa đốt trên đường về. Phải chi Nga biết số điện thoại của một vài người trong khu tập thể để hỏi thăm tình hình. Ờ, mà nếu biết, làm gì mình biết bụng dạ người ta…

Chiều tối vừa về tới nhà, Nga vội vàng lao vào nhà. Một bóng người nhỏ nhắn ngồi trước băng đá: đó là bà Ba. Thấy Nga, bà nói gì đó nhưng… mặc kệ, Nga vờ như không nghe thấy. Lúc này đây mớ tài sản của Nga trong nhà có còn hay không mới là điều quan trọng nhất.

Nga sững người đứng nhìn căn phòng đã khóa chặt cửa của mình, ghé mắt lại gần, xem kỹ: căn phòng được khóa bằng một ổ khóa lạ. Chưa biết thế nào thì bà Ba lom khom bước tới, trên tay cầm chìa khóa đưa cho Nga. Thì ra sáng dậy bà không thấy Nga đâu mà cửa lại mở toang. Biết Nga quên khóa cửa nên bà đã dùng khóa của mình khóa lại giúp. Bà ngồi đợi Nga đến khuya vì sợ cô về không vào được nhà.

Đêm đó Nga như thức trắng nghĩ về một bài học về sự quan tâm, chia sẻ trong cuộc sống – bài học từ một bà cụ “lẩm cẩm và lạc hậu” như cô đã từng nghĩ.

Đây có phải là yêu thương không chúng con?

Yêu thương là đừng để mình trở thành một người xa lạ, vô tâm, vô cảm với những người chung quanh mình. Nhưng hãy trở thành những người có trái tim rộng mở, biết chạnh lòng thương xót, biết chia sẻ, phục vụ. Cha nhớ có lần nhà Bác học Albert Einstein đã nói: “Một cuộc sống vì một cuộc sống khác mới là một cuộc sống xứng đáng.”

Còn mẹ thánh Têrêsa thì bảo:Bạn hãy là biểu lộ lòng nhân ái của Thiên Chúa ra ngay  trên nét mặt, trong ánh mắt, trong nụ cười và cả trong những lời chào nồng nhiệt của mình.”

Cha chúc chúng con làm được như thế. Amen.

Chúng con thân mến,

Hôm nay cha muốn dùng một ít phút này để nói với chúng con về hai chữ yêu thương

Chúng con đã biết yêu chưa?

Tình yêu màu gì chúng con?

Cha đố chúng con tình to như thế nào đấy?

Tình yêu có thơm không chúng con?

Đúng là tình yêu không có màu sắc, không có mùi vị, không có to hay nhỏ…nhưng có ai dám bảo là không có tình yêu không? Ai dám nói là không có tình yêu giơ tay lên cho cha xem nào.

Đúng là không ai dám bảo không có tình yêu.

Tình yêu là một cái gì đó rất thật, nhưng người ta không dùng giác quan để thấy được tình yêu. Người ta chỉ có thể thấy được tình yêu qua “Dấu chỉ” của nó.

Chúng con hãy tập làm quen với từ này. Từ dấu chỉ rất quan trọng. Cha cho chúng con một thí dụ: khi chúng con nhìn thấy trên trời có thật nhiều mây, chúng con bảo trời sắp có mưa. Vậy “Mây là dấu chỉ trời sắp có mưa”. Chúng con thấy một người mẹ nghèo thật nghèo đang ẵm một đứa con trên tay và đang chăm chút đú từng muỗm bột cho con, chúng con thấy đó là “Dấu chỉ” của tình….tình gì chúng con .. tình mẹ hay gọi cho nó văn chương hơn…gọi là tình mẫu tử.

Trong Tin Mừng Chúa có kể một dụ ngôn: dụ ngôn người Samaritanô nhân lành mà ai cũng biết. Dụ ngôn kể rằng: có một người kia đi từ Giêrusalem xuống Giêricô. Dọc đường ông bị sa vào ổ cướp. Chúng lột hết quần áo và đánh ông nhừ tử, rồi bỏ mặc người ấy dở sống dở chết mà đi

Tình cờ có một thầy cả đi qua, trông thấy người ấy nhưng ông tránh qua một bên mà đi.

Sau đó đến một ông thầy Levi.

Sau có một người Samaria cũng đi qua lối đó. Ông thấy, ông động lòng thương. Ông lấy dầu, lấy rượu xoa bóp vết thương cho người bị nạn rồi ông đặt người đó lên lưng lừa của mình chở vào quán trọ.

Hôm sau ông trao cho người chủ quán 2 quan tiền và nói: “Xin săn sóc người này, có tốn kém hơn bao nhiêu thì lúc về tôi sẽ trả thêm”

Trong 3 người đó, ai là người biết yêu thương kẻ bị cướp chúng con?

– Người Samaritanô.

– Rất trúng. Cha khen chúng con đã có con mắt yêu thương.

Phần cha, mỗi lần đọc lại câu chuyện này, cha cảm thấy mình phải xét mình lại.

Thầy cả là người chuyên giúp người ta giữ luật của Chúa, nhưng luật căn bản là bác ái yêu thương thì ông lại không giữ.

Thầy Lêvi thuộc hạng người có thế giá, chăm lo việc đạo, nhưng điều răn chính của đạo là luật yêu thương thì ông lại không thực hành.

Còn người Samarianô này là người dân ngoại thường bị những người Do thái khinh bỉ và cấm không nên tiếp xúc với họ, thì lại biết yêu người.

Ông không yêu bằng môi miệng nhưng ông yêu bằng hy sinh, bằng việc làm.

Ông đã mất nhiều thời giờ và tiền bạc cho người bị nạn chẳng có họ hàng quen biết gì vối ông. Đó là tình yêu thực sự.

2. Bây giờ chúng con hãy nghe Chúa dạy: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34).

Yêu như Chúa yêu là làm sao?

Cha thấy trước khi nói điều này Chúa đã làm ba việc;

Thứ nhất Chúa cởi áo quì xuống rửa chân cho các môn đệ.

Thứ đến Chúa lập Bí tích Thánh thể.

Cuối cùng Chúa chịu chết trên cây Thánh giá.

Với ba việc đó, Chúa muốn bảo yêu như Chúa là phải phục vụ, phục vụ quên mình.

Yêu như Chúa là phải biết cho đi, cho đi như Chúa ban chính mình qua bí tích Thánh thể.

Yêu như Chúa là phải sẵn sàng hy sinh, hy sinh như Chúa hy sinh trên thập giá.

Chúa bảo: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người dám hiến thân vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).

Một hôm có người đến kể cho cho công chúa Eugenie về những việc đang làm cho người đó rất buồn. Công chúa sẵn sàng lắng tai nghe. Sau đó người ấy nói cho công chúa biết về những người dân nghèo khổ trong thành không được ai săn sóc gì cả. Khi họ đau, họ bị bỏ mặc cho đến chết và cái họ cần bây giớ là một nhà thương.

Công chúa Eugenie nghe thấy thế thì bỡ ngỡ lắm. Công chúa đi thẳng xuống thành phố và thấy đúng như vậy.

Lập tức về nhà, bà bán tất cả các nữ trang bà có để lấy tiền và xây ngay một nhà thương. Không bao lâu nhà thương đã được hoàn thành.

Một hôm bà vào thăm nhà thương. Bà vào thăm và thấy mọi người bị bệnh được chăm sóc rất tử tế. Khi tới một giường của một bệnh nhân đàn ông nghèo khó. Vừa nhìn thấy bà, người này bật khóc thành tiếng và nói:

– Công chúa bán tư trang để xây nhà thương này… tôi xin hết lòng biết ơn công chúa.

Nói xong ông khóc to hơn. Công chúa mỉm cười, quay lại nói với đoàn tùy tùng:

– Ta đã cho đi các đồ nữ trang và bây giờ ta lại tìm thấy. Nước mắt của người này đáng giá hơn tất cả những vàng ngọc châu báu của ta.

Yêu thương là như thế chúng con.

Cha kể cho chúng con câu chuyện thứ hai:

Vào thời các nhà tu hành còn sống trong rừng, trong sa mạc Ai Cập … có một nhóm các thầy ẩn tu sống với nhau… mỗi người một chỗ, ăn chay cầu nguyện.

Một hôm có một người đưa đến biếu thày Giuse một chùm nho rất ngon. Thầy Giuse đọc bài Tin Mừng thấy Chúa bảo phải thương yêu nhau… nên thầy đem chùm nho này biếu một thày ẩn tu khác ở không xa chỗ thầy bao nhiêu.

Sau thầy này thấy có một thày ẩn tu già hơn mình nên thầy đem biếu thầy ẩn tu già này chùm nho vùa nhận được.

Sau đó cứ như thế, chùm nho được chuyển từ thầy này đến thầy khác cho đến hết mọi thầy trong rừng… và cuối cùng chùm nho lại trở về với thày Giuse.

Đó cha kể cho chúng con 2 câu truyện để chúng con biết yêu trong việc làm là yêu như thế nào.

Cha nhắc lại cho chúng con một câu cha đọc trong một cuốn sách của một đức cha:

“Yêu là biết cho đi

Cho đi nhiều là dấu chỉ yêu nhiều

Cho đi ít là dấu chỉ yêu ít

Cho tất cả là dấu chỉ của một tình yêu không bờ không bến”

Chúc chúng con biết sống yêu thương như Chúa.

Thiếu nhi chúng con yêu quí,

Trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, chúng ta thấy Chúa Giêsu nói về người mục tử và đàn chiên.

Mục tử là người như thế nào vậy chúng con?

– Mục tử là người chăn chiên.

Gọi người chăn chiên là mục tử cho nó sang. Cũng giống như người ta gọi con của vua là hoàng tử vậy. Con gái của vua thì gọi là….. là…là………công chúa. Công chúa của vua và bạn Lan Phương đây có khác gì nhau không chúng con?

– Chẳng khác gì nhau cả vì đều là con gái cả.

Ở nhà có khi nào những người con gái chúng con được cha mẹ gọi là công chúa hay không?

– Dạ có.

Bây giờ chúng con hãy nghe Chúa nói: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi”.

1. Trước hết Chúa bảo: “Chiên tôi thì nghe iếng tôi”

Con chiên thì nghe tiếng của người chăn chiên. Đây là đức tính rất tốt của một con chiên.

Cha kể cho chúng con câu chuyện này: Một người Mỹ đi du lịch qua xứ Syrie, thấy có ba người chăn chiên dẫn bầy chiên của mình ăn cỏ chung một chỗ với nhau. Một lúc sau, một trong ba người chăn này kêu chiên mình:

– Men ah! Men ah! (Theo tiếng Ả rập có nghĩa là “Hãy theo ta! Hãy theo ta!”)

Các con chiên của người này liền tách khỏi bầy chung và đi theo người ấy lên đồi.

Người chăn thứ hai cũng kêu như vậy, và chiên của anh ta liền đi theo anh ta.

Người Mỹ nói với người chăn thứ ba:

– Xin anh vui lòng cho tôi mượn đồ đạc của anh để tôi kêu như anh kêu, xem các con chiên này có nghe theo tôi hay không.

Anh ta sẵn sàng cho người Mỹ này mượn đồ đạc. Xong xuôi, người Mỹ kêu:”Men ah! Men ah!”, nhưng chẳng có con chiên nào nhúc nhích. Lạ quá Người Mỹ ngạc nhiên hỏi:

– Thế chiên không nghe tiếng ai khác, ngoại trừ anh thôi sao?

Người chăn Syrie trả lời:

– Ồ! có chứ! Vài con chiên bị bệnh, nó sẽ đi theo bất cứ ai.

Đó chúng con thấy chiên ngoan và khoẻ mạnh thì lúc nào cũng nghe theo tiếng của người chăn chiên như là người chủ của mình.

2. Tiếp theo Chúa bảo: “Tôi biết chúng”

Tiếng “Biết” ở đây trong Tin Mừng của thánh Gioan là: “Yêu thương”

Mục tử tốt lành thì luôn yêu thương cả đàn chiên và từng con chiên của mình. Yêu thương là luôn lo lắng và bảo vệ đàn chiên, không bao giờ để cho một con chiên nào bị nguy hiểm.

Một người đi du lịch qua xứ Palestine. Người hướng dẫn cho ông ta biết rằng, tại xứ này, đúng như Đức Chúa Giêsu đã dạy trong Gioan 10: “Người chăn đi trước dẫn chiên và chiên đi theo sau người chăn, chớ không bao giờ người chăn đi sau bầy chiên.”

Một ngày nọ, ông thấy một người đang đi ở phía sau lùa bầy chiên đi tới. Lạ quá vì ông thấy không đúng như những gì ông được chỉ dẫn, nhất là không đúng với Kinh thánh Gioan đoạn 10 mà ông đã đọc. Ông liền chạy đến hỏi người chăn chiên:

– Anh ơi! Tôi được biết là ngươi chăn ở xứ này khi chăn chiên thì đi trước, chiên theo sau. Tại sao anh chăn chiên mà ở phía sau lùa chiên đi tới như thế?

Người lùa chiên trả lời:

– Ông nói đúng lắm! Người chăn phải đi trước, chiên theo sau. Nhưng tôi đâu phải là người chăn chiên, tôi đang lùa chiên đi làm thịt đấy!

3. Và cuối cùng Chúa bảo: “Và chúng theo tôi”

Chiên thì nghe tiếng chủ chiên. Nghe rồi còn phải đi theo nữa. Nghe mà không đi theo thì cũng chẳng khác gì khi cha mẹ bảo chúng con làm việc gì giúp cha mẹ, chúng con ngoan ngoãn thưa “Vâng” nhưng sau đó chúng con chăng làm gì. Như vậy có tốt không chúng con? Chắc là không! Phải không?

Và bây giờ cha hỏi chúng con: Chúng ta có thể làm gì để được gọi là theo Chúa.

Cha kể cho chúng con câu chuyện này:

Sau những tháng năm làm đầy tớ cho một gia đình quí tộc, cô Sophie Berdanska phải thất nghiệp, đói rách, tang thương. Một ngày kia, gia đình ông Hersten, một gia đình Do thái thuê cô về chăm sóc cho mấy đứa trẻ trong nhà họ. Ngay hôm đầu tiên, khi biết được cô Sophie là người công giáo, ông chủ đặt điều kiện là không được “giảng đạo” cho con cái của ông.

Cô Sophie nhận lời. Chiều hôm ấy lúc còn lại một mình trong phòng, cô lấy một miếng giấy nhỏ viết một dòng chữ, xếp lại và bỏ vào chiếc huy chương do cha cô để lại rồi đeo vào cổ.

Lũ trẻ trong nhà nhiều lần đòi cô cho coi chiếc huy chương đó nhưng cô nhất định không cho: “Bí mật của đời cô mà”.

Dưới sự chăm sóc của cô Sophia, những đứa trẻ trong gia đình Hersten càng ngày càng trở nên dễ thương, ngoan ngoãn.

Cuộc sống đang yên bình thì bỗng một hôm, tai họa dồn dập xảy ra.

Bé Naim đau nặng – cả nhà cuống quít đưa đi bệnh viện. Cô Sophia tình nguyện ở lại đêm ngày chăm sóc em, rồi thêm hai đứa nữa cũng ngã bệnh. Gánh đã nặng bây giờ nặng thêm – Tuy nhiên cô Sophia vẫn bình tĩnh tận tình phụ trách vui vẻ cho đến khi 3 đứa nhỏ trở lại bình thường .

Nhưng vì quá lao lực… sau đó cô Sophie ngã bệnh và từ trần.

Hai năm sau, một buổi sáng người ta thấy cả gia đình ông Hensten dậy sớm và cùng nhau đi đến một nhà thờ để dự lễ. Hỏi ra mới biết gia đình đó đi dự lễ giỗ năm thứ 2 của cô Sophia.

Rồi họ kể lại truyện “Tại sao họ trở lại”

Sau khi cô Sophie mất, tình cờ người ta mở chiếc huy chương của Sophie còn để lại – lúc đầu không ai để ý – mở ra thì thấy trong đó có một mảnh giấy trong đó có ghi:

“Khi người ta cấm tôi nói về đạo của tôi

Tôi quyết sống đạo của tôi trước mặt họ như một chứng tích hùng hồn”

Cả gia đình Hensten .. cảm phục … Xin học đạo và rửa tội.

Đó chúng con thấy: Một tâm gương của một người theo Chúa.

Cha ước mong chúng con cũng biết sống thật tốt. Sống như vậy là theo Chúa rồi. Amen.

Chúng con yêu quí,

1. Chúng con lại được nghe một bài Tin Mừng dài nữa thuật lại cho chúng ta câu chuyện về việc Chúa Giêsu Phục sinh.

Cha đố chúng con câu chuyện hôm nay xảy ra ở đâu?

– Ở biển hồ Tibêria.

– Biển hồ này ở miền nào của nước Do thái vậy?

– Ở miền Bắc!

– Miền này cò tên gọi là miền gì?

– Miền Gallilê.

– Chúa hiện ra với ai nhỉ?

– Với các môn đệ của Chúa.

– Có phải với tất cả các môn đệ không?

– Thưa không….Chỉ hiện ra với 7 môn đệ là những người trước đây đã sinh sống tại miền này mà thôi.

Đối với Chúa Giêsu thì đây là nơi có thật nhiều kỷ niệm êm đềm.

Chúng con biết nơi đây có làng Nagiareth thân yêu. Và đây là nơi Chúa bắt đầu công cuộc rao giảng Tin Mừng của Chúa.

Chính ở nơi đây Chúa đã chọn các môn đệ đầu tiên. Đó là ông Phêrô, An drê, Giacôbê và Gioan.

Vâng đúng là Chúa đã bắt đầu những việc hết sức quan trọng từ vùng đất này và phần lớn công việc rao giảng Tin Mừng của Chúa diễn ra tại ở đây. Hằng năm Chúa có về Giêrusalem nhưng chỉ về vào những dịp quan trọng nhất là những dịp lễ, về vì bổ phận.

Cha đố chúng con Giêrusalem ở chỗ nào trong nước Do thái?

– Thưa ở miền Nam đất nước Do Thái.

–  Miền này gọi là miền nào chúng con?

– Miền Giuđêa nơi có một địa điểm rất quan trọng và cũng rất nổi tiếng đó là thành thánh Giêrusalem.

Giêrusalem là thủ đô của nước Do thái, nơi mà Chúa Giêsu mới trải qua những ngày đau khổ tột cùng và chết một cách tất tưởi như một tên tử tội tại đây.

Chúng con biết sau khi Chúa từ cõi chết sống lại, đầu tiên Chúa đã hiện ra với Bà Maria Mađalena. Và cũng chính bà là người đầu tiên mang Tin Mừng Phục sinh báo cho các môn đệ. Rồi Chúa hiện ra với hai môn đệ trên đường Emmau. Sau đó đích thân Chúa hiện ra cho các môn đệ. Chúng con còn nhớ không. Lần đầu tiên Chúa hiện ra thì không có mặt ông Tôma ở đó. Tới lần thứ hai ông Tôma mới có mặt. Chúng con còn nhớ câu chuyện của ông Tôma không? Trong câu chuyện này chúng con còn nhớ Chúa nói với ông Tôma thế nào không? Ai nhớ được nói cho cha nghe coi nào?

– Chúa nói với ông Tôma: “Phúc cho những ai không thấy mà tin”

Sau lần hiện ra này như đã báo trước, Chúa hẹn gặp các môn đệ ở Gallilê. Và hôm nay là ngày Chúa thực hiện lời hứa.

2. Theo Tin Mừng thì sau lần hiện ra với các môn đệ trong đó có cả ông Tôma, Chúa Giêsu không hiện ra một lần nào ở Giêrusalem nữa. Chính vì thế mà các môn đệ “Giải tán” và như Tin Mừng ghi lại thì ông Phêrô cũng như nhóm các môn đệ đầu tiên của Chúa cũng trở về quê quán của mình. Quê quán của họ đều ở miền Gallilê.

Trong khi chờ đợi Chúa thực hiện lời hứa thì hôm đó Phêrô nói với một nhóm anh em: “Tôi đi đánh cá đây”. Các ông khác đáp: “Chúng tôi cùng đi với anh”. Đêm hôm ấy họ không bắt được con cá nào…sự việc rất giống với lần đầu tiên lúc họ mới gặp Chúa. Rồi có một người đứng đó. Người ấy bảo đem lưới mà thả bên phải mạn thuyền. Họ làm như thế và bắt được rất nhiều cá. Gioan thốt lên:

– Thầy đó.

Phêrô choáng váng. Ông vội khoác áo vào, nhảy xuống khỏi thuyền bơi thật nhanh vào bờ.

Trên bờ, Chúa đã nhóm lửa sẵn và bảo họ đi lấy cá.

Phêrô vội vàng thi hành. Ông không dám hỏi một lời.

Sau bữa ăn Chúa phá vỡ im lặng. Ngài quay về phía Phêrô. Ông vẫn im lặng. Chúa hỏi:

– Simon con Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không? (Chúa gọi ông bằng tên riêng của ông chứ không gọi bằng tên Chúa đặt: Phêrô: Đá)

Ông cảm thấy như đau nhói ở trong lòng. Trả lời với Chúa làm sao bây giờ. Nhìn vào tận cõi lòng ông thấy lòng yêu Chúa vẫn còn nóng bỏng. Ông nói thật và để cho Chúa phán xét:

– Thưa Thầy, thầy biết con yêu mến Thầy.

Chúa lại nhìn ông một lần nữa rồi Ngài lặp lại cũng một câu hỏi như trên:

– Simon con Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?

Ông cũng lập lại câu trả lời như ông đã trả lời ở trên.

– Thưa Thầy có. Thầy biết con yêu mến Thầy.

Rồi lần thứ ba Chúa lại hỏi để được nghe lại một lần nữa lời tuyên xưng tình yêu của một kẻ được Chúa yêu thương nhất, nhưng cũng đã vấp phạm nhiều nhất.

– Simon con Gioan, con có yêu mến Thầy không?

– Thưa Thầy, thầy biết mọi sự. Thầy biết rằng con yêu mến thầy.

Ba lần ông chối Ngài,

Ba lần Chúa cho ông cơ hội để nhắc lại tiếng nói tình yêu để tuyên xưng lòng tin tưởng của mình.

Không một lời rầy la

Không một lời trách móc

Không một lời buộc tội

Chỉ là cơ hội để xác định lại mối dây liên hệ yêu thương.

Đó là cách Chúa cư xử với những kẻ khiêm nhường và rồi sau đó ông bắt đầu một đoạn đời mới:

– Hãy chăn giữ các chiên của ta.

Phêrô được sai đi đến Giêrusalem, trở về chính nơi ông đã vấp ngã và lúc này ông đủ can đảm để không phản đối.

Ông vâng lời trở về Giêrusalem và ở đó lần đầu tiên ông rao giảng là rao giảng cho những người đã hò la muốn giết chết Thầy của mình.

Ông dùng khả năng của ông để đem về cho Chúa 3000 tín hữu sau bài giảng đầu tiên.

Ông phải giáp mặt với gian nguy, bắt bớ.

Trước kia ông run sợ trước câu hỏi của một đứa con gái. Giờ đây ông đối diện với cả một đám đông mà không hề run rẩy.

Câu chuyện truyền kỳ về những ngày cuối cuộc đời ông chắc chắn cũng chứa đựng ít nhiều sự thật. Ông đến Roma trong thời kỳ bắt đạo. Lúc cơn bách đạo dâng cao, ông đã sợ hãi và muốn lẩn trốn nhưng vừa ra khỏi thành thì ông gặp một người vai mang thập giá đang đi ngược hướng về phía thành.

Ông hỏi:

– “Quo vadis”: Ngài đi đâu đó?

Người ấy trả lời:

– Ta đi vào Roma để cho người ta đóng đinh Ta một lần nữa

Phêrô hiểu ý. Ông quay đầu trở lại. Ông vào Roma và chịu tử đạo tại đó. Truyền thống kể rằng ông cảm thấy không xứng đáng được chịu đóng đinh một cách như thầy nên ông xin được chết trên thập giá trong tư thế đầu lộn ngược xuống đất.

Ông thực hiện đúng lời của Chúa:

– Khi về già ngươi sẽ dang tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho và lôi ngươi đi đến nơi ngươi không muốn” (Ga 21,18-19)

Đó là câu chuyện về ông Phêrô.

1. Thiếu nhi chúng con yêu quí,

Chúng con đang ở trong những ngày mừng Chúa phục sinh.  Cha thấy trong những câu chuyện xảy ra ở trên trần thế này không có câu chuyện nào lại lạ lùng và đem lại nhiều biến đổi lớn lao nơi cuộc sống con người cho bằng sự việc Chúa phục sinh cả.

Vâng! Đúng như vậy. Việc Chúa phục sinh đã để lại rất nhiều những thay đổi lạ lùng. Cha kể cho chúng con một vài bằng chứng:

Thí dụ như câu chuyện của ông Phêrô trong sách Tông Đồ Công Vụ.

Cái chết của Chúa đã làm cho ông thất vọng, hèn nhát…

Nhưng sau khi Chúa phục sinh ông ấy đã là một người can đảm khác thường.

Trước kia ông không dám nói về Chúa. Người ta mới nhìn mặt ông mà nói: “ông này cũng ở trong nhóm với người ấy… ” ông đã vội chối ngay.

Nhưng sau khi Chúa phục sinh, không những ông không chối mà còn can đảm làm chứng cho Chúa. Ông nói trước toàn thể Hội đông tôn giáo Do Thái: “Chúng tôi không thể không nói về những điều chúng tôi đã mắt thấy tai nghe”

Rồi chúng con thấy: Trước kia, quyền hành ông chẳng có là mấy.

Bây giờ Chúa cho ông nhiều quyền hành lắm.

Một lần ông và Gioan lên đền thờ – gặp một người què từ khi mới sinh ngồi ăn xin tại cửa Đẹp (Cvtd 3,1-10). Thấy hai ông, anh cũng đưa tay xin. Phêrô và Gioan nhìn anh ta và nói:

– Hãy nhìn chúng tôi đây.

Anh ta nhìn, tưởng sẽ được gì… nhưng không . Phêrô nói:

– Vàng bạc thì tôi chẳng có.

Vậy có gì thì tôi cho anh cái ấy. Nhân danh đức Giêsu Nazareth… hãy đứng dậy mà đi.

Nói rồi Phêrô cầm tay người ấy nâng anh lên… anh ta thấy bàn chân và mắt cá chân trở nên cứng cáp… và anh ta bước đi… anh ta vừa đi vừa nhảy… người què… bây giờ không còn phải lê lết nữa.

Khỏi rồi, hết què rồi.

2. Bây giờ bước qua bài Tin Mừng. Chúng con vừa nghe bài Tin Mừng do thánh Gioan kể lại (Jn 20,19-3)

Cha hỏi chúng con: Chúa Giêsu làm thế nào để các môn đệ và các bà đạo đức biết là Chúa đã phục sinh?

Nhưng trước hết cha hỏi chúng con nhờ cái gì mà người ta biết được những cái ở bên ngoài mình là có thật?

– Nào nói đi…

Nhờ các giác quan: là mắt, là mũi, là tai, là lưỡi, là da.

Chúng ta vẫn gọi

Mắt  là thị giác

Mũi là khứu giác

Tai là thính giác

Lưỡi là vị giác

Da là xúc giác

Khi Chúa sống lại, Chúa cho con người dùng giác quan để nhận ra Chúa.

Tin Mừng kể; ” Đức Giê-su gọi bà: “Ma-ri-a! ” Bà quay lại và nói bằng tiếng Híp-ri: “Rápbuni! ” (nghĩa là “Lạy Thầy”).Đức Giê-su bảo: “Thôi, đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha.  Bà Maria Mácđalena đi báo cho các môn đệ: “Tôi đã thấy Chúa”, và bà kể lại những điều Người đã nói với bà.(Ga 20,16-17). Chúa Giêsu gọi và Maria Mađalena đã thấy, đã nghe.

Tin Mừng kể tiếp: “Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Dothái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em! “Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa” (Ga 20,19-20).

Chưa hết. Cũng Tin Mừng Gioan còn ghi: “Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tôma, cũng gọi là Điđymô, không ở với các ông khi Đức Giê-su đến. Các môn đệ khác nói với ông: “Chúng tôi đã được thấy Chúa!” Ông Tôma đáp: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.”Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Tôma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em.” Rồi Người bảo ông Tôma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.”Ông Tôma thưa Người: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con! “Đức Giê-su bảo: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin! “(Ga 20,25-29)

Cuối cùng Thánh Luca còn kể:” Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giêsu đứng giữa các ông và bảo: “Bình an cho anh em! ” Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma. Nhưng Người nói: “Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây? “Nói xong, Người đưa tay chân ra cho các ông xem. Các ông còn chưa tin vì mừng quá, và còn đang ngỡ ngàng, thì Người hỏi: “Ở đây anh em có gì ăn không? ” Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng. Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông.(Lc 24,37-42)

Như vậy là các môn đệ của Chúa đã sử dụng các giác quan Chúa ban để thấy được Chúa Giêsu sau khi sống lại là một người thật, bằng xương bằng thịt để các môn đệ có thể nhận ra và tin vào Ngài.

3. Vấn đề còn lại hôm nay là thái độ của các tông đồ và của mỗi người chúng ta.

Các môn đệ của Chúa đã tin vào Chúa. Niềm tin đó đã biến các ngài trở thành những chứng nhân bằng cả cuộc sống của mình.

Phần chúng ta như Chúa Giêsu đã nói với Ông Tôma: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin! “(Ga 20,29)

Chúa đã sống lại. Ngài đã hiện ra cho các Tông Đồ, Ngài đã hiện ra cho Tôma, Ngài cũng đã hiện ra cho một số những người khác. Đó là sự kiện các tông đồ đã làm chứng. Và đức tin công giáo của chúng ta đã không sợ sệt khi đặt nền tảng trên những sự thật này.

Như vậy dù chúng ta tin hay không tin thì Chúa cũng vẫn là như thế: Ngài là Con Thiên Chúa. Ngài đã chết và đã sống lại. Ngài luôn ở giữa chúng ta. Thánh Gioan đã có lần nói:”Ở giữa các ông có một Người mà các ông không biết” (Ga 1,26).

Vâng! Chúng ta hãy tin vào Ngài.

Sau thế chiến thứ hai ít lâu, trong khi dọn dẹp những ngôi nhà bị chiến tranh tàn phá người ta còn thấy được những lời rất cảm động này được ghi trên một bức tường của một ngôi nhà thờ đã đổ nát. Những lời đó như sau:

Tôi tin vào mặt trời ngay cả khi nó không còn chiếu sáng.

Tôi tin vào tình yêu ngay cả lúc tôi không cảm thấy sự hiện diện của nó.

Tôi tin vào Thiên Chúa ngay cả lúc Người hoàn toàn thinh lặng.

Hãy tin vào Ngài và để cho Ngài dìu dắt chúng ta đi trên mọi nẻo đường của cuộc sống.

Hãy tin vào Chúa. Ngài không bao giờ lừa dối chúng ta.

Hãy để Ngài cùng cùng bước đi với chúng ta để Ngài dạy cho chúng ta biết phải sống như thế nào cho xứng đáng với danh nghĩa là con của Thiên Chúa

Hãy tin vào tình thương của Ngài. Hãy phó thác đời ta cho Ngài. Làm được như thế chắc chắn cuộc đời của chúng ta sẽ thành công,

“Phúc cho những ai không thấy mà tin” Amen.

Chúng con thân mến!

Hôm nay chúng ta mừng lễ gì chúng con?

– Lễ Phục sinh!

– Phục sinh là thế nào nhỉ?

– Phục sinh là chết rồi sống lại.

– Chúng con đã thấy người nào chết rồi sống lại chưa?

– Chưa thấy bao giờ.

– Cha cũng chưa thấy nhưng đọc trong Tin Mừng cha có thấy. Đố chúng con biết câu chuyện của ai đó?

-……của con gái ông Giarô, của con trai bà goá thành Naim và đặc biệt là của Lazaro.

– Giỏi! Chúng con giỏi.

– Bạn nào kể sơ cho cha biết về ba câu chuyện này xem nào.

Một là chuyện của người con gái ông Giarô. Ông Giarô là ông trưởng hội đường của người Do thái. Con gái ông mới chết. Ông Giarô không biết làm sao cho con ông sống lại. Ông nghĩ đến Chúa. Ông tin là chỉ có Chúa mới có thể giúp ông. Ông tìm đến với Chúa và quả thực ông đã được Chúa giúp. Con gái ông được sống lại. Thật là không còn gì vui hơn!

Chuyện thứ hai là chuyện người thanh niên con trai của một bà goá thành Naim. Cậu ta đã chết được mấy ngày rồi. Hôm đó người ta đem cậu đi chôn. Trên đường đi, họ may mắn gặp Chúa Giêsu. Nhìn cảnh đau thương của người mẹ mất con, Chúa thương quá. Chúa cho dừng đoàn người đang tiễn đưa người thanh niên đi chôn lại. Tự ý Chúa làm điều này chứ chẳng có ai xin Chúa. Khi đoàn người đã dừng lại, Chúa đến bên nói với người thanh niên đã chết: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy! “(Lc 7,15). Lạ thật chỉ bằng một Lời của Chúa vậy mà người đã chết đang được người ta đem đi chôn được sống lại. Chẳng cần nói nhiều chúng ta cũng biết người mẹ của người thanh niên đó vui mừng đến thế nào.

Và cuối cùng mới là chuyện đáng nói. Lazaro là người em của hai bà chị Matta và Maria. Ba chị em chưa ai lập gia đình. Chúa Giêsu rất thân với gia đình này. Mỗi khi có dịp lên Giêrusalem, Chúa Giêsu thường nghe thăm gia đình này. Giữa Chúa Giêsu và gia đình này có một sự thân tình hiếm có.

Anh Lazarô còn trẻ nhưng không biết lý do tại sao anh chết. Lúc anh chết thì Chúa ở xa. Lạ thật chẳng ai báo tin mà Chúa biết. Chúa nói với các tông đồ: “Lazarô, bạn của chúng ta, đang yên giấc; tuy vậy, Thầy đi đánh thức anh ấy dậy.”(Ga 11,12) và Tin Mừng thánh Gioan ghi: “Đức Giêsu nói về cái chết của anh Ladarô, còn họ tưởng Người nói về giấc ngủ thường. Bấy giờ Người mới nói rõ: “Ladarô đã chết. Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin. Thôi, nào chúng ta đến với anh ấy.”(Ga 11,13-14)

Khi tới nơi Chúa hỏi: “Các người để xác anh ấy ở đâu? ” Họ trả lời: “Thưa Thầy, mời Thầy đến mà xem.” Và Tin Mừng ghi: “Đức Giê-su liền khóc.” Chúa Giêsu khóc chúng con ạ! Chứng kiến việc Chúa khóc người Do thái đã phải thốt lên: “Kìa xem! Ông ta thương anh Lazarô biết mấy!” Chúa thương Lazarô thật, thương đến nỗi xúc động mà khóc lên được.

Rồi sau Tin Mừng bảo Chúa đi tới mộ. Ngôi của người Do thái không giống mộ bên chúng ta. Ngôi  mộ đó là một cái hang có phiến đá đậy lại. Đứng trước ngôi mộ của Lazarô Chúa ra lệnh: “Đem phiến đá này đi.” Lệnh truyền của Chúa khiền chính cô Matta cũng phải sợ. Cô nói: “Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày.” Một người đã chết, đã chôn trong mộ 4 ngày. Nói một cách dễ hiểu: đã bắt đầu “thối rồi”. Một người như thế làm sao có thể làm được gì nữa. Vậy mà Chúa đứng trước mộ ngước mắt lên và nói: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con. Phần con, con biết Cha hằng nhậm lời con, nhưng vì dân chúng đứng quanh đây, nên con nói để họ tin là Cha đã sai con.” Nói xong, Người kêu lớn tiếng: “Anh Lazarô, hãy ra khỏi mồ! ” Người chết liền ra, chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn. Đức Giê-su bảo: “Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi.”

Có lạ không chúng con? Chúa đã cho một người chết đã được bốn ngày sống lại. Chỉ có Chúa mới làm được như thế.

2. Bây giờ cha hỏi chúng con, các phép lạ trên Chúa làm để làm gì? Theo cha thì Chúa làm là để chuẩn bị cho mọi người đón nhận việc Chúa Phục sinh dễ dàng hơn. Việc Chúa cho con người được phục sinh và việc chính Chúa tự mình phục sinh cả hai đều có chung một kết quả. Chỉ khác có một điều một đàng là do Chúa làm và một đàng là chính Chúa tự làm cho mình. Điều đó chẳng có gì khó hiểu nếu chúng ta tin vào quyền năng của Chúa.

Nói tới đây cha nhớ tới một câu chuyện rất cảm động đã xảy ra hồi thế chiến thứ hai tại Liên xô.

Một người đàn bà bị bắt làm tù nhân trong một trại giam tại Liên xô cũ. Chính bà kể lại câu chuyện mà bà đã mắt thấy tai nghe, để mọi người tin vào sức mạnh của mầu nhiệm phục sinh của Chúa.

Một buổi chiều kia, một cô gái trẻ cùng bị giam với chúng tôi đã kề miệng vào tai tôi hỏi khẽ:

– Chị biết hôm nay là ngày gì không?

Rồi không đợi tôi trả lời, cô ta nói tiếp:

– Hôm nay là ngày lễ Phục sinh.

Nghe thế tôi tự hỏi:

– Lễ Phục sinh đã đến rồi sao? Lễ của niềm vui và của hy vọng nhưng trong tù niềm vui của chúng tôi đã héo úa, khô cằn, còn niềm hy vọng thì ta để lại trong lòng và không dám suy nghĩ tiếp.

Bỗng một tiếng reo vang nổi lên phá tan bầu không khí nặng nề:

– Đức Kitô đã sống lại!

Tôi quay lại nhìn mặt cô gái vừa cất tiếng tuyên xưng đức tin và bắt gặp đôi mắt cô ánh lên sự lung linh huyền diệu. Cùng lúc ấy, từ mọi phía của các phòng giam khác vang lên câu trả lời:

– Ngài đã sống lại thật.

Quá sửng sốt, các nhân viên trại giam đứng bất động như tượng gỗ. Có lẽ trong tâm trí họ đang giận dữ lên án một việc chưa bao giờ xảy ra tại đây. Sau một lúc yên lặng, tôi nghe tiếng giày nặng nề tiến đến phòng giam của chúng tôi, rồi phòng bị mở tung cửa, hai nhân viên hỏi ai đã xướng câu mê tín dị đoan đó, và hùng hổ túm lấy cô gái lôi sền sệt ra khỏi phòng.

Qua tuần lễ Phục sinh, họ giam riêng cô vào phòng không có lò sưởi để qua cái lạnh thấu xương và cơn đói hành hạ một con người mà họ cho là cuồng tín sẽ phải gục ngã.

Một tuần sau, cô gái được trả lại phòng giam chung với chúng tôi. Mặt cô xanh xao, người cô gầy đi thấy rõ. Sau khi nằm yên tại một góc phòng, cô gái khều bọn tôi lại, và thều thào:

– Dù sao tôi cũng đã tuyên xưng niềm tin vào sự Phục sinh trong trại giam, những cái khác không quan trọng gì cho lắm.

Nói xong, cô cố gắng mỉm cười và tôi thấy ánh mắt cô vẫn ánh lên như dạo nào.

Lạy Chúa Giêsu phục sinh, xin cho chúng con được can đảm sống cuộc đời tràn đầy ánh sáng Phục sinh của Chúa. Amen