Thiếu nhi chúng con thân mến,

Chúng con vừa nghe thánh Luca thuật lại cho chúng ta một câu chuyện rất cảm động xảy ra vào những ngày cuối đời của Chúa Giêsu trên trần thế.

Cha hỏi chúng con: Qua câu chuyện hôm nay chúng con thấy được cái gì nổi bật nhất?

Chúng con cho cha ý kiến nào.

– Chúng con thấy lòng dạ của người ta thay đổi nhanh quá.

– Đúng! Cha cũng thấy vậy. Nhanh quá! Không thể tưởng tượng nổi.

–  Sao mà người ta ác quá!

– Đúng. Người ta ác với Chúa Giêsu quá. Chúa Giêsu đâu có thù hằn gì với ai. Nhiều người còn chịu ơn Chúa. Vậy mà sao họ nỡ tâm đối xứ ác với Chúa như thế.

– Thật là buồn lòng cho Chúa! Riêng đối với cha, điều cha cảm phục nhất là cách Chúa phản ứng và đối xử với mọi việc xảy ra một cách hết sức bình thản và đầy lòng yêu thương. Đây cha chứng minh cho chúng con.

Trước hết chúng con thấy Chúa thanh thản và chủ động bước vào cuộc Thương khó khi Người nói với các môn đệ: “Thầy ước ao dự bữa tiệc Vượt qua với các con”. Đứng trước cái chết, con người ai mà chẳng run sợ, vì con người nghĩ rằng chết là hết, chẳng có gì tồn tại. Nhưng với Chúa Giêsu, chết là đi về cùng Chúa Cha. Chúa yêu mến Chúa Cha, khao khát kết hiệp với Chúa Cha, nên Người thanh thản bước vào cuộc khổ nạn để được về cùng Chúa Cha.

Lúc quân lính hung hăng đến bắt Chúa, Chúa vẫn hiền hòa không kháng cự.

Bị vây bọc trong bầu khí sát máu, Chúa vẫn cư xử với lòng nhân hậu khoan dung. Chúa chẳng lo cho an toàn của bản thân: nên giữa lúc khó khăn khốn đốn Chúa vẫn mở rộng bàn tay nhân ái chữa lành vành tai bị đứt của người đày tớ vị thượng tế.

Khi Giuđa đến hôn mặt Chúa, Chúa vẫn đối xử một cách lịch sự, tế nhị. Đối lại tội phản nghịch tày trời, Chúa chỉ nhẹ nhàng nhắc nhở, hi vọng đánh thức lương tâm người học trò mê tiền mà đi đến phản bội.

Lúc đang bị xét xử, dù phải chịu nhục nhã đắng cay, Chúa vẫn quan tâm đưa mắt nhìn  Phêrô. Vị đại diện các tông đồ, sau khi chối Thầy, đã nhận được ánh mắt kín đáo của Thầy. Ánh mắt hiền dịu mà đau khổ. Ánh mắt trách móc thì ít mà tha thiết van xin thì nhiều. Ánh mắt nhân từ tha thứ đã khiến Phêrô ray rứt khôn nguôi.

Rồi trên con đường lên Núi Sọ, dù vai phải mang cây thánh giá nặng nề, dù bản thân yếu mệt và tủi nhục, Chúa vẫn còn đứng lại an ủi những người phụ nữ khóc lóc, an ủi đám dân đã tố cáo, đã kết án Chúa.

Trên thập giá, lúc đớn đau đã thấm vào đến tận xương tuỷ, lúc sức lực đã cạn kiệt, vậy mà Chúa vẫn còn quan tâm lắng nghe người trộm lành. Ôi sao mà lạ lúng quá. Thật là tuyệt vời!

Và còn hơn thế nữa, Chúa đã tha thứ cho những sĩ quan, những binh lính hành hạ Chúa. Chúa không chỉ tha thứ mà còn cầu nguyện xin Chúa Cha tha cho tất cả mọi người có dính líu đến việc xử án Chúa.

Cha hỏi chúng con Chúa làm tất cả những điều ấy để với mọi người điều gì?

Câu trả lời không khó. Chúa muốn cho mọi người thấy tình yêu của Chúa.

Tình yêu ấy là làn ánh sáng xé tan bóng đêm thù hận, chiếu soi vào lòng của cả những người ghét ghen. Cha nhớ Đức Cha Fulton Sheen một tông đồ của Tin Mừng đã nói một câu rất hay: Tình yêu thương của Chúa giống như loài gỗ quí nhuốm cả hương thơm vào lưỡi búa đã đốn ngã nó.

Giữa những hung hãn tàn bạo, Chúa vẫn hiền lành khiêm nhường.

Giữa những hận thù, Chúa vẫn yêu thương.

Giữa những phản bội, Chúa vẫn tha thứ.

Tình yêu của Chúa đã thắng.

Có một nhà tư tưởng lớn Karl Menninger nói: “Tình yêu là liều thuốc kỳ diệu chữa trị mọi vết thương của cả người cho lẫn người nhận”

Nhà văn lớn người Nga tên là Lev Tolstoy còn nói mạnh hơn “Tình yêu kỳ diệu. Ở đâu có tình yêu, ở đó có sự sống”.

Nói tới đây cha nhớ đến một câu chuyện. Câu chuyện này thật đẹp. Câu chuyện như thế này: Một hiệp sỹ dũng cảm kia tên là Hidebrand bị một bạn đồng nghiệp tên là Bruno nhục mạ nặng nề. Hidebrand thề sẽ trả thù đích đáng. Ông suy nghĩ và chuẩn bị kỹ lưỡng chương trình hành động. Cuối cùng ông chọn địa điểm và thời giờ thuận lợi đễ ra tay. Ông thức dậy sớm giữa đêm, một mình võ trong đầy đủ, đi đến một nơi thanh vằng mà ông biết Bruno sẽ đi ngang qua. Trên đường đi ông gặp thấy một nhà nguyện nhỏ còn mở cửa. Ông vào đó để chờ sáng, và trong khi chờ đợi ông giải trí bằng cách đi quan sát các bức tranh trong nhà nguyện.

Bức tranh thứ nhất vẽ Chúa Giêsu mặc áo choàng đỏ, đầu đội mão gai, phía dưới có ghi câu này bằng tiếng Latinh: “Bị lăng nhục, Ngài không đáp trả lại bằng lăng nhục”.

Bức thứ hai, nhắc lại cảnh đau buồn khi Chúa bị đánh đòn, với hàng chữ “Khi chịu những khổ đau như thế, Ngài không hề đe dọa”.

Và cuối cùng, bức thứ ba vẽ Chúa Giêsu trên Thập giá, hàng chữ là: “Lạy Cha xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm”. Nhìn liên tiếp ba bức tranh như thế, tâm hồn Hidebrand bị xúc động mạnh. Ông quỳ gối xuống và bắt đầu cầu nguyện. Dần dần cơn hận thù giảm đi, rồi biến mất. Ông còn ngồi lại đó chờ kẻ thù của ông đến, nhưng chờ để tha thứ tận tình và để làm hoà với bạn. (Góp nhặt)

Cha chúc chúng con biết yêu thương như Chúa để cuộc đời chúng con giống Chúa nhiều hơn. Amen.

Thiếu nhi chúng con yêu quí,

1. Cha đố chúng con, hôm nay là Chúa nhật thứ mấy trong Mùa Chay vậy chúng con?
– Dạ thưa cha, Chúa nhật thứ năm.
– Giỏi. Thiếu nhi của cha giỏi quá! Hôm nay đã là Chúa nhật thứ năm có nghĩa là chúng ta sắp bước vào một tuần lễ hết sức đặc biệt của năm Phụng vụ. Cha đố chúng con đó là tuần lễ gì?
– Thưa cha đó là Tuần Thánh, chuẩn bị mừng lễ Chúa Phục sinh.
– Chúng con giỏi

Bây giờ chúng con nghe lại câu chuyện hôm nay.

Hôm ấy lúc trời vừa tảng sáng, Đức Giêsu đang ngồi giảng dạy cho đám đông dân chúng nơi đền thờ Giêrusalem, thì đột nhiên những người kinh sư và Pharisêu lôi một người phụ nữ mà họ nói là đã bắt gặp chị ta đang ngoại tình đến trước mặt Chúa. Tin Mừng không nói là họ bắt gặp chị đó phạm tội ở đâu và với ai. Họ đặt chị ta đứng ở giữa mọi người và rồi nói với Chúa:
– Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Theo sách Luật, ông Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?
Đứng trước câu hỏi của họ, Chúa Giêsu không trả lời ngay. Chúa ngồi xuống, lấy ngón tay viết trên đất. Tin Mừng không cho chúng ta biết Chúa viết gì. Chỉ biết việc làm của Chúa làm cho những người hỏi Chúa sốt ruột. Chịu không được, họ cứ hỏi mãi, lúc đó Chúa mới ngẩng đầu lên và bảo họ:
– Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi.
Rồi Chúa lại ngồi xuống và lại viết trên đất. Thật là lạ lùng. Chúa không nói thêm gì nữa. Thế mà Tin Mừng ghi: “Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi.”
Sau đó thì chỉ còn lại một mình Ðức Giêsu, và người phụ nữ đứng ở giữa. Lúc đó Chúa mới ngẩng lên và hỏi:
– Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?
Người đàn bà đáp:
– Thưa ông, không có ai cả
Và đây là những lời của Chúa:
– Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!
Và câu chuyện chấm dứt ở đây.

2. Câu chuyện là như thế, nhưng cha hỏi chúng con: Chúa muốn dạy chúng ta điều gì qua câu chuyện hôm nay?

a. Trước hết, đọc trong Tin Mừng cha thấy: Chúa Giêsu có những nguyên tắc sống mà Ngài luôn theo đuổi. Đây là một trong những nguyên tắc ấy: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.(Ga 12,17

Trong câu chuyện hôm nay, những người Do thái muốn Chúa phải lên án người đàn bà ngoại tình. Trong câu hỏi họ đặt ra cho Chúa, họ tưởng Chúa bắt buộc phải làm như vậy. Lên án thì không xong vì làm như thế là không thương. Bỏ qua cũng không được, vì làm như thế là dung túng cho sự xấu.

Vậy làm thế nào bây giờ ? Chúng con hãy nhìn Chúa Giêsu. Cha thấy Chúa Giêsu thật quá khôn ngoan. Chúa không bị mắc kẹt trong cái bẫy của những kinh sư và Pharisêu. Chúa đã chứng tỏ cho mọi người thấy. Đây chúng con hãy nghe Chúa nói với những thử thách Chúa: “Ai trong các ông không có tội thì hãy ném đá chị này trước đi”(Ga 8,7). Thật tuyệt vời! Sau đó thì Tin Mừng ghi: “Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi. Chỉ còn lại một mình Ðức Giêsu, và người phụ nữ thì đứng ở giữa.(Ga 8,9-10). Lúc đó Chúa mới giải quyết vấn đề. “Tôi cũng không lên án chị đâu. Thôi chị cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa”. Nói thế có nghĩa là Chúa không lên án mà cũng không dung túng, nhưng Ngài cho kẻ có tội một cơ hội. Ngài bảo chị về và đừng phạm tội nữa tức là cho chị một cơ hội để làm lại cuộc đời.

3. Câu hỏi tiếp theo cha muốn hỏi chúng con: “Tại sao Chúa ban cơ hội cho người tội lỗi?” Chúng con hãy nhìn lại bài Tin Mừng. Chúng con thấy nếu Chúa Giêsu bảo đừng ném đá chị ta thì lỗi luật Môsê, nếu Chúa truyền phải ném đá thì Người đã làm sai lời dạy của chính mình là “Các con hãy yêu thương nhau”. Một cái bẫy vừa tinh vi vừa nham hiểm.

Chúa Giêsu cúi xuống vẽ trên đất. Không biết Chúa viết gì, chỉ biết khi họ sốt ruột gặng hỏi Chúa mãi thì Chúa trả lời một câu như mũi dao xoáy vào tâm can họ: “Ai trong các ông vô tội thì hãy ném đá trước đi” (Ga 8,7).

Quả thật, không một ai dám can đảm ném hòn đá đầu tiên, và cũng chẳng có hòn đá cuối cùng. Bởi vì, không ai dám tự hào mình vô tội.

Chúa Giêsu là Đấng duy nhất vô tội mà còn không kết án thì hỏi có ai mà giám: “Tôi không lên án chị đâu? Chị hãy về đi, từ nay đừng phạm tội nữa !” (Ga 8,11). Thật là an ủi biết bao cho chúng ta, những con người tội lỗi. Chúa không răn đe, không sửa phạt, chỉ an ủi, khích lệ, tin tưởng và hy vọng nơi chúng ta. Người không giết chết, nhưng cứu sống. Người không dung túng cho tội lỗi, nhưng nâng đỡ kẻ có tội. Người ghét tội nhưng lại thương xót tội nhân: “Ta không muốn kẻ tội lỗi phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống”.

Nói đến đây cha nhớ tới một câu chuyện. Câu chuyện đơn sơ nhưng nhiều ý nghĩa. Chuyện thế này: Một hôm người ta bắt được một tên ăn trộm.. Họ giải anh ta đến nhà vua, và nhà vua hạ lệnh cho giết hắn. Tên trộm cắp này rất khôn ngoan, nên nói với đao phủ:
– Tôi có một bí mật này rất quý. Nếu tôi chết thì bí mật ấy cũng bị mang theo. Thật là uổng. Cho nên tôi muốn giao nó lại cho nhà vua.
Người ta dẫn hắn tới nhà vua. Hắn nói:
– Bí mật của tôi là tôi có một hạt giống kỳ diệu, đào lỗ chôn xuống đất thì nội trong một đêm nó sẽ mọc lên thành cây và trổ ra toàn những trái bằng vàng.
Nhưng hắn nói thêm:
– Nhưng có điều kiện này là chỉ người nào chưa từng lấy gì của người khác thì mới trồng hạt giống đó được,
Sau đó hắn thú nhận:
– Tôi thì là một thằng ăn cắp nên không thể trồng được rồi. Vậy trong số các quan đây, ai chưa từng lấy gì của người khác hãy trồng nó đi.
Các quan lần lượt viện cớ để từ chối, giống y những người biệt phái trong bài Tin Mừng này vậy. Cuối cùng tên trộm cắp nói với nhà vua:
– Chắc là Bệ Hạ có thể trồng được
Nhưng nhà vua đáp:
– Nói ra thì thật xấu hổ. Hồi còn nhỏ, ta cũng đã từng lấy của người khác vài lần.
Khi đó tên trộm nói:
– Bệ hạ và các quan là những người có đầy đủ mọi thứ thế mà còn lấy của người khác mà không bị hình phạt gì cả. Phần tôi thì nghèo túng thiếu thốn mọi điều, thế mà lại bị xử tử vì tội lấy của người khác.

Nhà vua đành ra lệnh tha cho hắn.

Chúng con yêu quí,

Câu chuyện chúng con vừa nghe chúng con có thấy hay không?

– Hay quá đi mất!

Đây là câu chuyện về một gia đình. Gia đình này có một người cha và hai người con. Theo ý của Chúa trong bài dụ ngôn thì rõ ràng là cả hai người con này đều là những người đáng trách.

Câu chuyện xảy ra xem ra có vẻ rất bất ngờ.

Hai anh em cùng chung một cha. Người em bỏ nhà ra đi vì anh ta quyết định sống cuộc sống riêng của anh ta.

Sau thời gian một mình một cõi, sống buông thả say sưa tiêu hết tiền bạc mình có, thì cuộc sống anh ta rơi vào tình trạng hết sức bi đát. Hết tiền hết bạc thì hết bạn bè, hết mọi thứ mà anh ta mơ tưởng như trước khi bỏ nhà ra đi. Lần đầu tiên trong đời anh ta phải giáp mặt với những cảnh phũ phàng và nhiều đau khổ như thế. Anh ta phải đi làm nghề chăn heo, muốn được ăn những thứ heo ăn cho đỡ đói nhưng cũng không được. Thật là một thảm hoạ.

Rất may là anh ta đã biết nghĩ lại. Anh ta đã hiểu được lỗi lầm của mình. Anh ta hiểu thật rõ những gì anh ta đã làm mất. Và anh ta quyết định trở về nhà. Thái độ lúc này của anh ta thật khiêm tốn và xem chừng có cả một chút sợ hãi. Anh ta xưng thú tội trước mặt người đang giơ tay đón nhận anh. Người ấy chính là cha anh. Người cha đã tha thứ và ban lại cho anh danh nghĩa là con, và ôm chặt anh trong vòng tay yêu thương của mình.

Chúng con thấy người cha đó là một người cha thế nào? Thật là tuyệt vời. Không một lời trách móc. Không một cử chỉ buồn lòng. Trái lại còn hoan hỉ vui vẻ tổ chức tiệc tùng mừng anh trở về.

Câu chuyện được tiếp tục như sau: Người anh cả đi làm về và khi nghe biết những gì đang xảy ra trong nhà. Anh nổi giận. Anh trả lời với người cha đến yêu cầu anh tham gia vào cuộc vui: “Con làm việc như một kẻ làm thuê, con vâng lệnh cha thế mà cha chẳng cho con cái gì đặc biệt cả. Nhưng đứa con của cha kia đã bỏ cha mà ra đi nay trở về, thì cha mở tiệc ăn mừng để đón tiếp anh ta “.

Anh con cả này là một kẻ không tự xem mình như con cái mà chỉ là một kẻ làm thuê. Người cha kia không phải là cha của anh ta nhưng là một ông chủ. Một ông chủ khắt khe, đòi hỏi, chỉ biết ra lệnh.

Và khi người cha trả lời: “Con ơi, con luôn luôn ở với cha và bao giờ cha cũng cho con dư đầy mọi sự. Đối với con, lúc nào cũng là tiệc ăn mừng cả. Nhưng em con đã mất đi và nay tìm lại được. Chẳng phải là chuyện bình thường khi chúng ta vui mừng và mở tiệc vì chúng ta lại được đoàn tụ ư?”.

2. Cha hỏi chúng con, Chúa Giêsu kể câu chuyện này để làm gì?

Để nhắc nhở chúng ta nhớ lại địa vị làm con của mình. Phải, chúng ta là con của Thiên Chúa nhờ ân sủng Ngài ban cho ta chứ không phải nhờ tuân giữ luật lệ. Thiên Chúa ban cho chúng ta tất cả những gì chúng ta cần. Nhưng không phải lúc nào chúng ta cũng biết nhìn ra những gì chúng ta có, những gì chúng ta nhận được.

Như hai người con đều làm phiền lòng người cha. Xét cho cùng, chúng ta cũng thường làm phiền lòng Thiên Chúa như thế.

Là những người con đáng lý ra chúng phải hiểu rõ về cha của mình. Thế nhưng cả hai đã không làm được điều đó. Chính vì thế mà cách cư xử của cả hai người con đối với Cha mình có nhiều điều tắc trách.

Như vậy câu chuyện cho chúng ta thấy: Mọi tội lỗi chúng ta phạm ít nhiều đều bắt nguồn từ chỗ chúng ta còn thiếu sự hiểu biết về tình yêu của Thiên Chúa là Cha chúng ta.

Có một cậu bé tự cho mình là đứa trẻ bất hạnh nhất thế giới này. Trong con mắt của bạn bè, cậu là kẻ nhát gan, yếu đuối. Trên nét mặt cậu thường lộ vẻ sợ hãi. Cậu thở phì phò giống người ta kẻo bễ vậy. Khi bị cô giáo gọi đứng dậy đọc bài hay trả lời câu hỏi, đôi chân cậu lập tức run rẩy, môi liên tục mấp máy. Đương nhiên, cậu trả lời ấp úng và đứt quãng. Cuối cùng, cậu đỏ mặt xấu hổ quay về chỗ ngồi. Nếu cậu có một gương mặt đẹp, thì người khác có thể cảm tình với cậu một chút. Nhưng khi bạn thương hại nhìn cậu ta, thì bạn có thể nhìn thấy hàm răng hô xấu xí của cậu.

Vào một ngày mùa xuân, bố cậu bé xin nhà hàng xóm một ít cây giống. Bố cậu muốn trồng chúng trước nhà. Ông bảo các con, mỗi đứa trồng một cây. Ông còn hứa với chúng, cây của ai lớn nhanh nhất, người đó sẽ được ông tặng cho một món quà giá trị. Cậu bé ấy cũng muốn nhận được món quà.

Nhưng khi nhìn thấy anh chị em hào hứng chạy đi, chạy lại tưới nước cho cây, không hiểu tại sao, trong đầu cậu lại nảy sinh ý nghĩ kỳ quặc: cậu mong cái cây mình trồng, mau chóng chết đi. Vì thế, cậu chỉ tưới nước cho cây hai lần, rồi sau đó bỏ mặc nó.

Một tuần sau, khi xem cái cây mình trồng, cậu bé ngạc nhiên khi phát hiện ra nó không những không héo úa, mà còn mọc ra mấy cái lá xanh nõn nà. So với những các cây mà anh chị em cậu trồng, dường như nó còn tươi tốt hơn và tràn đầy sức sống hơn. Bố cậu thực hiện đúng lời hứa, mua cho cậu một món quà mà cậu thích nhất. Đồng thời, ông còn nói với cậu, cứ xem cách cậu trồng cây, thì sau này chắc chắn cậu sẽ trở thành một nhà thực vật học xuất sắc.

Từ đó trở đi, cậu bé dần dần trở nên lạc quan.

Vào một buổi tối, cậu bé trằn trọc không sao ngủ được. Nhìn ánh trăng vằng vặc ngoài sân, cậu chợt nhớ đến câu nói của thầy giáo dạy sinh vật: thực vật thường lớn lên vào lúc trời tối. Cậu nghĩ bụng, tại sao mình không xem thử xem cái cây mình trồng lớn như thế nào nhỉ? Khi cậu rón rén đi ra ngoài sân. Cậu nhìn thấy bố đang dùng gáo tưới nước cho cái cây cậu trồng. Ngay lập tức, cậu hiểu ra tất cả. Hóa ra, bố cậu âm thầm bón phân cho cây cậu trồng.

Cậu trở về phòng ngủ, gục mặt xuống giương mặc cho nước mắt chảy đầm đìa trên khuôn mặt.

Thấm thoắt mấy chục năm đã trôi qua. Cậu bé với đôi chân tập tễnh ấy, mặc dù đã không trở thành một nhà thực vật học như ước nguyện của người cha, nhưng lại trở thành tổng thống của nước Mỹ. Tên của ông là Franklin Roosevelt.

Chúng con yêu quí,
Chúng con vừa nghe một đoạn Tin Mừng do thánh sử Luca thuật lại.

Trong đoạn Tin Mừng này Thánh Luca nói với chúng ta về sự sám hối.

1. Chúng con vẫn nghe nói về sự sám hối, nhưng cha hỏi chúng con sám hối là gì? Ai trả lời cho cha nào?
– Thưa cha sám hối là ăn năn hối lỗi về tội lỗi của mình.
– Tốt! Rất tốt! Sám hối là ăn năn hối hận về tội lỗi của mình.

Nhưng muốn có được lòng sám hối thật sự thì điều kiện đầu tiên không thể thiếu đó là phải thấy được tội lỗi, thấy lỗi lầm của mình. Nói một cách đơn giản hơn là thấy được mình là người tội lỗi. Phải thấy được mình là người có tội thì mới sám hối được.

Có nhiều người khi vào toà cáo giải mà không biết mình có tội hay không. Chính vì thế mà họ nói: Con xét mình mà chẳng thấy con có tội gì.

Một người Dothái nọ muốn sống thánh thiện nên đến tham khảo ý kiến với một vị Rabbi. Vị Rabbi này hỏi :
– Từ trước tới nay anh sống thế nào ?
– Rất tốt, thưa ngài.
– Anh nói “rất tốt” nghĩa là làm sao?
– Nghĩa là tôi không vi phạm giới luật nào cả. Con không kêu tên Chúa vô cớ. Con không tục hóa ngày Sabát. Con không bất kính với cha mẹ. Con không giết người. Con không bất trung với vợ tôi. Con không trộm cắp. Con không làm chứng dối. Con không thèm muốn của cải và vợ người khác…

Vị Rabbi nói :
– Tôi hiểu. Anh đã không vi phạm giới luật nào cả.
– Đúng vậy, thưa ngài.

Nhưng vị Rabbi hỏi tiếp :
– Nhưng anh có tuân giữ các giới luật không?
– Ngài hỏi vậy nghĩa là làm sao ạ?
– Nghĩa là anh có tôn kính tên Chúa không? Anh có thánh hóa ngày Sabát không? Anh có hiếu kính cha mẹ không? Anh có tôn trọng và bảo vệ mạng sống của người khác không? Lần gần đây nhất anh nói với vợ rằng anh yêu nàng là khi nào? Anh có chia sẻ của cải cho người nghèo không? Anh có bảo vệ danh dự và tiếng tốt cho ai chưa? Anh có thường giúp đỡ người khác không? v.v… Nếu anh chưa làm được những điều này thì anh hãy sám hối và canh tân lối sống của anh.

Người Dothái ra đi và suy nghĩ miên man. Từ trước tới giờ anh nghĩ rằng anh đâu phạm điều luật nào, nên anh không cần sám hối. Nhưng nay vị Rabbi vừa chỉ cho anh một cách nhìn mới hẳn: không làm những việc tốt mà luật chỉ dạy cũng cần phải sám hối ăn năn.

Hãy nhìn lại mình, nhìn lại cây vả đời mình: có phải là cây vả sinh nhiều hoa nhân đức, trái việc lành không? Hay chỉ là cây vả vô sinh chỉ ăn hại, và làm chật đất? Nếu là cây vả vô tích sự, thì hãy mau mắn sửa đổi và canh tân, nếu không muốn bị chủ vườn chặt bỏ.

Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta được khiêm nhường trước mặt Chúa. Tưởng cũng nên nhắc lại đây lời của Thánh Phaolô: “Những ai đang đứng vững hãy coi chừng kẻo té”(1Cor 13,12).

2. Nhưng làm sao để thấy được tội lỗi của mình hay làm sao biết được mình là người có tội?

* Ngày trước người Do thái cho rằng muốn biết ai là người có tội thì cứ căn cứ vào những dấu chỉ bên ngoài thí dụ như bị tai nạn, bị trừng phạt vvv

Tin Mừng hôm nay nói đến hai sự kiện: Một là việc Philatô giết một số người Gallilê – những người Galilê nói ở đây là những người đến Giêrusalem dâng lễ tế, có lẽ họ đã gây ra một vài hỗn loạn trong khuôn viên đền thờ, do đó đội binh Lamã ở trong đồn Antonia đã ra tay can thiệp và tàn sát tại chỗ không nương tay và  sự kiện thứ hai là việc tháp Siloe đổ xuống làm chết 18 người trước đó.

Có phải những người đó có tội nên bị giết và bị đè chết như thế không?

Theo người Do thái thì quả là như vậy.

Nhưng thử hỏi Chúa có nghĩ như vậy không?

Theo như tinh thần của bài Tin Mừng hôm nay thì Chúa đã không nghĩ như vậy mà Chúa lại coi đó như một cơ hội để gúp người ta cảnh tỉnh mà rà lại cuộc sống của mình. Đây chúng con hãy nghe lời của Chúa: “Không phải đâu nhưng nếu các ngươi không sám hối thì các ngươi cũng phải chết như vậy” (Lc 13,5)

Trước mặt Chúa, mọi người chúng ta đều có tội. Chẳng có ai hoàn toàn trong trắng vô tội trước mặt Chúa.

Một mục sư giảng về chiếc thang Giacóp. Cậu con trai ông ấy cảm động. Mấy ngày sau, cậu nói với cha là mình vừa mơ về câu chuyện đó.
– Sao, con mơ thấy gì?
– Con mơ thấy một chiếc thang bác lên tới tận tầng mây. Ở dưới chân thang có rất nhiều phấn và mỗi  người phải lấy phấn viết hết các tội mình đã phạm lên các bậc của chiếc thang đó thì mới lên được.
– Hay thật! Rồi con thấy gì nữa? .
– Con thấy con leo lên, nhứng chưa được bao xa thì con thấy có người leo xuống.
– Ai vậy? .
– Ba chứ ai.
– Ba?
– Thế ba leo xuống để làm gì?
– Ba lấy thêm phấn!

3. Như vậy vấn đề còn lại là mỗi người phải thấy được tội lỗi của mình và can đảm sửa lại. Chúa rất ghét tội, nhưng luôn yêu thương tội nhân và sẵn lòng đổ tràn ơn tha thứ trên họ.

Có hai hành khách ngồi chung trong một chuyến xe lửa từ Tôrinô bên nước Ý tới thủ đô Paris của nước Pháp.

Vào một ngày mùa đông, bầu trời xanh xám không một tia sáng mặt trời, xe lửa chạy tới biên giới nước Pháp thì tuyết bắt đầu rơi. Bên ngoài thì trời giá lạnh, nhưng trong xe thì hơi ấm của lò sưởi rất dễ chịu. Thêm vào đó là tiếng máy đều đặn như tiếng nhạc ru ngủ cho cuộc hành trình thêm thoải mái. Một trong hai người khách tỏ vẻ băn khoăn lo lắng lạ thường, mỗi lần tới một nhà ga thì người ấy lại giựt mình đứng phắt lên, đến gần cửa nhìn nhà ga đọc lớn tên ga rồi ông trở về chiếc ghế ngồi và thở dài một cách thảm não. Sau nhiều trạm như thế, người bạn bên cạnh lên tiếng hỏi với tất cả sự quan tâm và tế nhị.
– Có điều gì làm ông khó chịu hoặc ông bị đau chăng? Ông ta thở dài một cách thảm não và nói:
– Tôi không đau ốm gì cả, chỉ có điều là tôi đã lấy chuyến xe đang chạy ngược chiều với hướng tôi định đi. Lẽ ra tôi phải xuống xe từ những trạm trước kia rồi để đổi sang chuyến xe khác, nhưng tôi không có can đảm bước xuống giữa làn mưa tuyết trắng, ngồi trong xe với hơi ấm thế  này dễ chịu hơn.

Biết mình đang là người tiến trên con đường tội lỗi, thì phải quay về con đường thiện. Nếu không đủ can đảm cởi bỏ những thói quen cũ và những tiện nghi vui sướng tạm bợ của đời sống đang sống thì chắc chắc đích điểm mà mình muốn nhắm tới sẽ càng ngày càng bỏ xa mình. Than vãn thở dài nào có ích lợi gì đâu.

Thống hối cải tà quy chính là phải can đảm, đôi khi phải trả giá rất cao. Qua miệng các ngôn sứ, chúng ta biết Thiên Chúa rất nhân từ và đầy lòng thương xót luôn chờ đợi các tội nhân ăn năn thống hối trở về với Ngài.

Lạy chúa, xin ban cho con cánh cửa tình thương để con biết can đảm trở về với Chúa.

Xin ban cho con lòng khiêm nhượng để con biết nhìn nhận tội lỗi của con.

Xin ban cho sức mạnh để con biết mau mắn chỗi dậy sau khi sa ngã.

Xin hãy thay đổi sự cứng cỏi lòng chai dạ đá, để con chỉ biết ước muốn và thi hành những gì Chúa yêu thích nơi con mà thôi.

Amen./

Thiếu nhi chúng con yêu quí,
Thánh sử Luca vừa thuật lại cho chúng ta câu chuyện Chúa Giêsu biến hình trên núi.

Cha đố chúng con biết Chúa làm như thế để làm gì? Hay nói một cách cụ thể hơn khi Chúa làm như thế Chúa muốn gì? Nếu nhìn vào những việc xẩy ra trước và sau cuộc biến hình của Chúa, chúng ta sẽ thấy ngay câu trả lời. Việc này không có gì khó lắm.

1. Trước hết là để tránh cho các môn đệ của Chúa một sự sụp đổ thấy vọng trước mầu nhiệm Thập giá.

Chúng con hãy nhớ lại hoàn cảnh xảy ra trước đó một chút: Chúa Giêsu vừa được Phêrô đại diện cho nhóm môn đệ tuyên xưng là ĐĐấng Messia con Thiên Chúa hằng sống và ngay sau đó Chúa đã báo cho họ biết về con đường khổ nạn và chết chóc mà Chúa sẽ phải đi qua để hoàn thành sứ mạng của Người. Đây quả thực là một lời loan báo kinh hoàng về một Đấng Cứu thế mà chẳng có ai dám nghĩ như thế.  Chính vì thế mà Phêrô đã tức tốc phản ứng ngay. “Ông liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người”(Mt 13,22)  Khi làm như thế chắc Phêrô tưởng là mình làm đẹp lòng Chúa, ai dè ông lại nhận được một lời quở trách cực mạnh từ Đức Giêsu: “Satan, lui ra đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài Người”(Mt 16,23). Sau đó, Đức Giêsu còn đòi hỏi thêm: “Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”(Mc 8,34). Chúa muốn con đường mà Chúa đi cũng là con đường của các môn đệ Người phải đi. Phêrô đã thật sự choáng váng và cả các môn đệ khác cũng thế.

Thế nhưng thử hỏi khi Chúa đòi hỏi như thế thì điều đó có quá đáng không? Chắc là khi đòi hỏi như thế Chúa có lý do của Chúa. Tuy nhiên, các môn đệ có dám chấp nhận hay không là tùy ở mỗi người. Cha xin mượn một câu chuyện được lấy từ Internet để gợi ý và giúp chúng con hiểu được vấn đề này. Câu chuyện như thế này:
Đã lâu lắm rồi, có một vị hiền triết sống trên đỉnh ngọn núi cao. Dân làng dưới chân núi mỗi khi gặp khó khăn thường tìm đến vị hiền triết này để xin lời khuyên.

Ngày nọ, một chàng trai được xem là khá thành đạt, đang băn khoăn cho chặng đường sắp tới của mình. Chàng quyết định lên núi gặp vị hiền triết.
– Điều gì có thể giúp con thành một người thực sự vĩ đại?  Chàng trai hỏi.
Vị hiền triết nhìn thẳng vào mắt anh và hỏi:
– Con có chắc là con muốn biết điều đó không?
– Vâng! Con thực sự rất muốn biết. – Chàng trai quả quyết trả lời
– Được! – vị hiền triết đáp. – Ngươi hãy tự tìm cho mình câu trả lời qua câu chuyện ta kể sau đây: “Thuở xưa có một chàng thanh niên ở đất nước Hy Lạp mắc bệnh hiểm nghèo. Biết mình không còn sống được bao lâu nữa, anh xung phong gia nhập quân đội lúc đó đang bước vào trận chiến khốc liệt với kẻ thù. Với hy vọng được hy sinh anh dũng trên chiến trường, anh đã chiến đấu hết mình, không ngại phơi mình trước làn tên mũi đạn của kẻ thù và không mảy may lo cho mạng sống của mình. Cuối cùng, khi kẻ thù bị đánh bại, anh vẫn còn sống! Vô cùng cảm phục trước lòng dũng cảm, can trường của người lính nọ vì đã góp phần không nhỏ tạo nên chiến thắng ấy, vị tướng quyết định thăng chức và trao tặng cho anh huân chương danh dự cao quý nhất cho lòng dũng cảm.

Song, lạ thay đến ngày được trao huân chương, trông anh rất u buồn. Ngạc nhiên, vị tướng hỏi lý do thì được biết anh đang phải gánh chịu một căn bệnh nguy hiểm. Làm sao ông lại có thể để cho người lính dũng cảm của mình phải chết! Vị tướng đã cho tìm vị lương y giỏi nhất nước về trị bệnh cho anh. Căn bệnh chết người cuối cùng đã được chữa khỏi.

Nhưng từ đó trở đi người ta thấy người lính can-trường-một-thời đã không còn xuất hiện nơi tuyến đầu vất vả hiểm nguy nữa! Anh luôn né tránh mọi khó khăn và cố gắng bằng mọi cách để bảo vệ mạng sống của mình thay vì đương đầu với thử thách.

Về sau có dịp gặp lại, vị tướng đã nói với người lính nọ một câu: “Giờ đây anh mới thực là người đã chết hoàn toàn.” (First news – Theo Internet)

Chúng ta hãy nhớ lại có lần Chúa đã dạy: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không thối đi, nó sẽ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối đi nó sẽ sinh nhiều bông hạt”(Ga 12,24). Chúa đã chấp nhận con đường tự hủy để cứu chuộc loài người. Và những ai  muốn làm môn đệ của Chúa cũng phải làm như vậy.

2. Lý do thứ hai qua cuộc biến hình trên núi Chúa muốn dạy các môn đệ cũng như mọi người rằng: Chẳng có vinh quang nào mà không phải trả giá. Vinh quang càng cao, cái giá phải trả càng lớn. Vinh quang trần thế và vinh quang Thiên quốc cũng như nhau.

Mẹ Têrêsa Calcutta nói: “Thánh thiện không tùy thuộc những việc phi thường nhưng chính yếu là đón nhận với nụ cười những gì Chúa Giêsu gửi tới. Trọng tâm của đời thánh thiện là chấp nhận và sống theo ý Thiên Chúa”.

Có một nhà vua kia, một hôm cho triệu tập các cận thần lại. Vua đưa cho quan Tể Tướng một viên ngọc trai lóng lánh và hỏi:
– Ông hãy nói viên ngọc này đáng giá bao nhiêu?
– Muôn tâu, nó đáng giá còn hơn số lượng vàng khối mà 100 con lừa có thể chở.
– Ông hãy đẫp vỡ nó ra cho ta!
– Muôn tâu Bệ Hạ, làm sao hạ thần có thể đang tâm phung phí phá đi một báu vật như thế ạ !

Nhà vua thưởng cho quan Tể Tướng một chiếc áo danh dự và lấy lại viên ngọc.

Kế đó vua đưa viên ngọc cho quan Thị Vệ, và cũng hỏi:
– Theo ông, nó đáng giá bao nhiêu ?
– Bằng nửa vương quốc.
– Hãy đập vỡ nó vỡ ra cho ta!
– Đập vỡ viên ngọc này ư? Muôn tâu Bệ Hạ, tay thần không thể nào làm được việc đó.

Nhà vua cũng thưởng cho ông này một chiếc áo danh dự, lại còn tăng lương cho ông.

Sau cùng nhà vua đưa viên ngọc cho Abdul một tên cận vệ tầm thường.
– Ngươi có biết viên ngọc này đẹp đến mức nào không?
– Muôn tâu, đẹp không thể nói được.
– Hãy đập nát nó ra cho ta.

Lập tức Abdul lấy hai viên đá đập vỡ viên ngọc ra và nghiền nó thành bụi. Quần thần thét lên sợ hãi vì sự táo bạo của Abdul.

Họ hỏi :
– Tại sao nhà ngươi dám làm thế chứ ?
Abdul bình tỉnh đáp :
– Lệnh của Hoàng Thượng đáng giá hơn bất kỳ viên ngọc quý nào. Tôi tôn kính Hoàng Thượng chứ không tôn kính viên ngọc.

Nhà vua khen ngợi thái độ của Abdul và thưởng chàng trọng hậu hơn cả hai vị quan kia.

Cha nhắc lại lời của Mẹ Têrêsa Calcutta vừa nói ở trên: “Thánh thiện không tùy thuộc những việc phi thường nhưng chính yếu là đón nhận với nụ cười những gì Chúa Giêsu gửi tới. Trọng tâm của đời thánh thiện là chấp nhận và sống theo ý Thiên Chúa”. Chấp nhận và sống theo ý Thiên Chúa và chúng ta trở thành con yêu dấu của Chúa ở đời này và cả đời sau nữa. Amen.

Lc 4,1-13
“Bấy giờ Ðức Giêsu đáp lại:
Ðã có lời rằng: Ngươi chớ thử thách Ðức Chúa
là Thiên Chúa của ngươi”
(Lc 4,12).
1. Thiếu nhi chúng con yêu quí,
Cha hỏi chúng con: Thánh lễ hôm nay các con thấy có gì đặc biệt không nào?
– Dạ thưa cha, Cha mặc áo lễ mầu tím.
– Phải rồi, cha mặc lễ phục màu tím, thầy cũng đeo dây tím, các bạn lễ sinh cũng mang khăn tím. Vậy là chúng biết chúng ta đã vào một mùa phụng vụ mới, mùa gì chúng con?
– Mùa chay. Đúng rồi, mùa chay. Hôm nay là Chúa nhật I mùa chay. Mùa chay là thời gian thuận tiện để chúng ta theo gương Đức Kitô tập luyện chiến đấu chống lại ma quỉ.Bài Tin Mừng hôm nay cho biết Chúa Giêsu bị ma quỉ cám dỗ ba lần và cả ba lần Chúa đều chiến thắng thật vẻ vang.

Lần thứ nhất, sau khi Chúa Giêsu ăn chay cầu nguyện, không ăn gì cả suốt 40 ngày, Ngài đói meo, lúc đó ma quỉ tới cám dỗ Ngài: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho hòn đá này biến thành bánh đi”. Ma quỉ muốn Ngài dùng quyền phép để dễ dãi thoả mãn cơn đói của riêng mình, chẳng cần phải vất vả làm việc. Chúa Giêsu phản công làm sao? Người đã dùng một câu trong sách thánh: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh”.

Lần thứ hai, quỉ cho Chúa Giêsu thấy tất cả các nước trên thế gian, mọi thú vui và giàu sang phú quí, rồi nó dám lếu láo nói với Chúa: “Nếu ông thờ lạy tôi, tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị các nước đó”. Sức mấy mà Chúa Giêsu chịu thờ lạy nó, Người quả quyết: “Ngươi phải thờ lạy Thiên Chúa và chỉ phụng thờ một mình Người”. Đây cũng lại là một câu trích trong sách thánh.

Lần thứ ba, quỉ đưa Chúa Giêsu lên nóc đền thờ Giêrusalem, nó dụ dỗ Chúa Giêsu: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống đi… vì Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ gìn giữ ông”. Ma quỉ cám dỗ Chúa Giêsu thử thách Thiên Chúa, đồng thời biểu diễn phép lạ để mọi người thấy phải lác mắt thán phục. Chúa Giêsu mắng nó:
– Ngươi chớ thử thách Thiên Chúa là Chúa của ngươi.

Lại một lần nữa Chúa chiến thắng ma quỉ bằng một câu trích trong sách thánh. Cả ba lần ma quỉ đều thua, thế là chúng phải rút lui.

2. Các con thấy đó, Chúa Giêsu mà còn bị ma quỉ cám dỗ huống hồ gì là chúng ta. Mọi người chúng ta đều bị ma quỉ cám dỗ. Các con bị cám dỗ, cha cũng bị cám dỗ và chính cha mẹ các con cũng bị cám dỗ nữa.

Vậy theo các con cám dỗ là gì?
– Cám dỗ là những lời rủ rê chúng ta làm điều xấu, xúi giục chúng ta phạm tội.
– Giỏi lắm.
Cha hỏi chúng con ma quỉ cám dỗ chúng ta bằng cách nào? Phải chăng nó hiện hình thành một thằng quỉ đen thùi lùi, có đuôi dài, trên đầu có hai cái sừng để cám dỗ chúng ta? Không đâu!

Trước hết nó có thể cám dỗ chúng ta qua những người khác. Người đó có thể là những bạn xấu, khi họ rủ rê ta làm điều sai trái. Cũng có thể là những người xấu khi họ muốn lợi dụng chúng ta, làm hại chúng ta. Cha nghe nói, có những bọn xấu, chúng đến tận các cổng trường, cho các em học sinh tiền bạc bánh kẹo, dụ dỗ các em học sinh hút thuốc hay dùng thuốc gây nghiện để rồi biến những em học sinh thành những kẻ nghiện ma tuý, phải mua hàng của chúng.

Trong những trường hợp như thế này, các con phải làm gì? Phải chạy à? Đúng rồi, khi có người đề nghị các con điều gì các con không biết đúng hay sai, các con hãy chạy ngay lại thầy cô, cha mẹ để hỏi xem có được làm như thế hay không. Bọn xấu nghe nói các con đi hỏi cha mẹ thầy cô thì nó lỉnh đi chỗ khác liền.

Ngoài ra ma quỉ cũng có thể trực tiếp cám dỗ chúng con, nó bảo nhỏ vào tai chúng con, nó xúi giục trong tâm trí chúng con, nên chúng con rất khó nhận ra chúng. Chẳng hạn bạn Rong, trên đường đi lễ, ngang qua chỗ trò chơi điện tử, ma quỉ nói nhỏ vào tai:
– Còn sớm mà, vào đây coi một tí rồi ra ngay. Thế rồi Rong bước vào, nó lại rủ rê: chơi 15 phút thôi. Rong mê mải chơi và quên mất thời gian, thế là không đi lễ. Về nhà má hỏi đi đâu về trễ. Nghe ma quỉ xúi giục Rong lại nói dối má: con đi lễ và học giáo lý mới về.

Đức Chúa Arthur Tone có thuật lại một câu truyện thật đau lòng như sau. Trong ngôi nhà tù nổi tiếng có tên là Sing Sing ở New York, một tù nhân bị đem ra hành hình vì tội đã giết một cảnh sát viên. Trước khi chết, người ta cho anh ta được nói những lời cuối cùng. Với một giọng đau đớn đến cực độ anh ta thét lớn lên
– Tất cả đã bắt đầu khi tôi ăn cắp đồng năm xu trong túi của mẹ tôi…..Rồi tôi ăn cắp hai đồng năm xu…sau đó tôi ăn cắp đồ vật ở trường học, ở tiệm tạp hóa, ở tiệm thuốc. Hai đứa bạn và tôi bắt đầu tập luyện… Chúng tôi kiếm được mỗi ngày mỗi nhiều hơn. Sau đó chúng tôi quyết định cướp Ngân hàng và lần đó tôi đã bắn gục viên cảnh sát. Đó, tất cả bắt đầu từ một đồng năm xu.

Chúng ta không thể lường trước được.
Ma quỉ rất khôn khéo và xảo quyệt.
Từ đồng năm xu đi đến chỗ giết người. Con đường tưởng như xa nhưng lại rất gần
Từ một ngụm rượu cho đến tật say sưa…con đường cũng tương tự như thế.

Có ai ngờ được rằng chỉ vì một lần hút thử mà rồi rơi vào cơn nghiện ngập lúc nào không hay. Con đường tưởng xa mà hóa ra lại rất gần.

Vậy muốn thắng được ma quỉ các con phải năng tham dự thánh lễ, lãnh nhận Mình Thánh Chúa. Ước chi trong Mùa Chay này, các con biết luôn tin tưởng bám chặt vào Chúa, được vậy ma quỉ sẽ chẳng thể làm gì hại các con, bởi vì Chúa sẽ luôn trợ giúp và bảo vệ các con như lời Kinh Thánh mà thánh Phaolô lập lại trong bài đọc 2 hôm nay: “Ai đặt niềm tin vào Chúa, sẽ không phải thất vọng” và “Ai kêu cầu danh Chúa, sẽ được cứu thoát”.

Thiếu nhi chúng con yêu quí,
Lại một lần nữa Chúa Giêsu dạy chúng ta về cách sống ở đời.
Cha nhớ tuần trước Chúa dạy chúng ta về sự tha thứ.
Tuần này Chúa dạy chúng ta về sự cẩn trọng trong việc xét đoán nhất là xét đoán về người khác.

1. Chúng con đã có bao giờ xét đoán ai chưa?
Riêng cha, cha thấy nếu mình không cẩn trọng thì mình rất dễ rơi vào cái thói xấu ở đời là hay xét đoán người khác. Cha kể cho chúng con câu chuyện này. Đã lâu lắm rồi, một lần nọ cha bị bệnh mà phải đi nằm nhà thương. Nằm trong nhà thương cha thấy thời giờ ở trong đó sao mà chậm rãi quá. Cha nhờ một người thân ra ngoài sạp báo mua cho cha một tập truyện. Tên của tập truyện nhỏ đó: “Cái chuông điện” Trong tập truyện nhỏ này có nhiều nhưng cha nhớ mãi câu chuyện này.

Trong một gia đình kia có một ông bố có người con đang đi học.

Một hôm ông ấy thấy đứa con đang cầm cuốn sổ liên lạc trong tay. Nhìn thấy thế ông bỗng nhớ tới có lần đọc trong báo, ông thấy người ta khuyên không phải chỉ nhà trường mà cả các bậc phụ huynh cũng phải làm công tác vào công tác giáo dục con cái. Thế là ông quyết định thử bắt tay vào công tác giáo dục này. Ông nói với đứa con:

– Đưa bố xem nào!
Thế là ông lấy từ tay con trai ông cuốn sổ nhầu nát, bẩn thỉu, mất mấy trang. Những trang còn lại thì viết nhằng nhịt toàn chữ nguệch ngoạc đến phát sợ. Chỉ có nét chữ bằng mực đỏ của cô giáo thì còn đọc được. Ông sờ tay vào khoá thắt lưng chuẩn bị sẵn, rồi bắt đầu đọc: “Con trai của Ông bà ngủ gục trong giờ học – Con trai của Ông bà gây gỗ với bảo vệ”. Ông bắt đầu nóng tiết rồi tự nói thầm

A! cái thắng mất dạy! – Bằng ngần này tuổi mà đã gây gỗ với bảo vệ thì không hiểu sau này nó còn kiêng nể ai nữa. Thật đáng sợ! Riêng mấy nhận xét này thôi thì đã đáng cho nó một trận đón rồi! Và Ông bắt đầu cởi giây thắt lưng.

Ông cho một viên Valiđan – thuốc trợ tim- vào miệng rồi đọc tiếp: “Trong giờ vẽ, đáng lẽ phải vẽ con buớm thì lại đi vẽ mụ phù thủy cuỡi chổi – Ném đá làm vỡ Biển Thái bình dương – Yêu cầu mang ba rúp 70 cô pếch đến để bồi thường tiền sửa chữa quả địa cầu địa lý – Giờ toán ngồi săn cá Xê-lêt-ca.”Đọc tới dây ông thấy có gì hơi khác thường, ông tự nhủ: “Khoan khoan….- Hình như có một cái gì đó hơi lạ.” Rồi Ông tra hỏi đứa con của Ông:- Tại sao mày lại ăn cá Xê-lêt-ca trong giờ toán hả? .Con trai tôi đáp

-Cái gì ạ? Chính bố biết là con rất ghét món Xê-lết-ca. Với lại đây có phải là sổ liên lạc của con đâu. Con tìm thấy trong đống sách cũ của bố trên gác xếp đấy chứ ạ.
Nghe con nói thế, ông tự nhủ trong lòng: “Tôi xem lại cuốn sổ – Quả thật như vậy! Ngoài bìa có tên đề là tên của tôi. Trong cuốn sổ cũng quen quen. Thôi thì đích là cuốn sổ liên lạc của tôi rồi.- Chà định giáo dục con mà thành ra như thế này!” Rồi giọng ông dịu hẳn xuống

– Này, thế con đã đọc quyển sổ ấy chưa?

– Con chưa kịp xem – Con trai ông đáp.

Ông thở phào như trút được gánh nặng trong người. Biết giáo dục con kịp thời…may thế đấy! (Bactia: Cái chuông điện)

Đúng là cái rác trong con mắt của người anh em chúng ta thấy rất rõ nhưng cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới ?” (Lc 6,41)

Chúng ta rất dễ nổi quạu, phê bình, nói xấu anh em chúng ta và rất nhiều khi chúng ta quên rằng chính mình nhiều khi còn tệ hơn thế nữa. Chính bản thân chúng ta còn đầy những thói hư tật xấu. Nhưng khi lên án, chỉ trích anh em, chúng ta làm như thể mình vô tội. Thực ra đó chỉ là cái đà lớn che đi con người của tôi mà thôi.

Một hôm, có người chạy tới thì thầm với nhà thông thái Socrates:
– Này Socrates, tôi có tin này về người bạn của ông đây.
Socrates vội đáp:

– Khoan đã! Ông đã lọc cái tin ấy qua ba cái sàng chưa?
– Ba cái sàng à?
– Phải, ba cái sàng đấy ông ạ. Nào, bây giờ hãy xem điều ông muốn kể với tôi có lọt qua ba cái sàng ấy không. Cái sàng thứ nhất là sự thật. Ông có chắc chắn rằng điều ông sắp nói là sự thật không?

– Ờ, … thật ra tôi nghe qua người khác.
– Ra thế. Chúng ta tiếp tục qua cái sàng thứ hai nhé. Điều ông sắp nói đó là tốt chứ?
– Không hẳn vậy. Thực tình, nó ngược lại.
– Để lưu ý điều đó. Bây giờ hãy nói xem chuyện này có cần thiết không?
– Hầu như không.

– À, nếu điều ông muốn kể cho tôi nghe đã không thật, chẳng hay ho, cũng không cần thiết, vậy thì bỏ qua cho xong. (Christopher Notes)

2. Chúng ta hãy tập cho mình cái thói quen đừng vội nghĩ xấu về người khác. Hãy nhìn vào mình trước khi nhìn vào người khác.

Có như thế chúng ta sẽ tránh được cái thói xét đoán người như lòng Chúa mong ước. “Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới? Sao anh lại có thể nói với người anh em: “Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra”, trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình? (Lc 6,41-42)

Vào thời Vua Henry VII của Anh, ở Luân Đôn nạn trộm cắp thật nhiều. Quan Chương ấn Thomas More nhận thấy vị thẩm phán già hay khiển trách những người đến khiếu nại vì bị móc túi ngoài đường, ông quan tòa già quả quyết rằng nếu mấy nạn nhân đó cẩn thận giữ túi tiền của mình thì làm sao mà mất được.

Nhân một cuộc họp các thẩm phán, Thomas More bí mật cho gọi một tên móc túi chuyên nghiệp đang ở tù và dặn rằng:
-Ta sẽ thưởng cho nhà ngươi, nếu ngươi móc được túi tiền của ông quan tòa già kia.
Tên móc túi xin phép được tới nói chuyện với vị quan tòa già và đưa tay khéo léo móc được túi tiền của ông ta rồi hiên ngang về chỗ ngồi .
Thomas More bấy giờ mới lên tiếng xin các vị thẩm phán làm phúc bố thí cho một người nghèo ở đó. Vị nào cũng rờ túi tiền của mình. Vị quan tòa già kia giật mình vì không thấy túi tiền mình đâu nên la lớn:
– Bớ ăn cắp!  Có tên nào ăn cắp túi tiền của tôi rồi!
Thomas nói:
– Sao? Ông nói chúng tôi ở đây đã ăn cắp túi tiền của ông sao?
Ông quan tòa mặt đỏ bừng vì giận. Bấy giờ Thomas More mới gọi tên lưu manh kia và bảo trả lại túi tiền cho đương sự. Thomas nói với vị thẩm phán già:
– Tôi khuyên ông hãy bớt nghiêm khắc với những người đã bị móc túi ngoài đường phố, vì chính ông  cũng đã để cho người ta cuỗm mất túi tiền ngay giữa đại hội như thế!

3. Cha muốn kết thúc bằng lời khuyên của thánh Giacôbê “Thưa anh em, anh em đừng nói xấu nhau. Ai nói xấu hoặc xét đoán anh em mình là nói xấu và xét đoán Lề Luật. Nếu anh xét đoán Lề Luật, thì anh không còn là kẻ vâng giữ, mà là kẻ xét đoán Lề Luật.(Gc 4,11)

Chỉ có một Đấng ra Lề Luật và xét xử, đó là Đấng có quyền cứu thoát và tiêu diệt. Còn anh là ai mà dám xét đoán người thân cận? (Gc 4,12)
Chúa còn nói mạnh hơn “Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy; và anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em.”

Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con một tâm hồn
theo hình ảnh Tấm Bánh Thánh.
Một tâm hồn trong trắng,

cố tránh cả những ô uế nhỏ mọn
để luôn xứng đáng với Chúa.
Một tâm hồn khiêm hạ
tìm kiếm chỗ nhỏ bé,

nhưng luôn luôn muốn bày tỏ
một tình yêu lớn lao.
Một tâm hồn đơn sơ,
không biết đến phức tạp của ích kỷ,

và tìm hiến dâng mà không đòi lại.
Một tâm hồn lặng lẽ,
hạnh phúc khi thấy sự quảng đại của mình
không được người khác biết đến.

Một tâm hồn nghèo khó,
chỉ làm giàu cho mình
nhờ chiếm được chính Chúa.
Một tâm hồn luôn hướng về tha nhân,

quan tâm đến những nhu cầu
và ước muốn của họ.
Một tâm hồn luôn kết hiệp với Chúa,
và múc lấy nguồn sống từ nơi Chúa.

Thiếu nhi chúng con yêu quí,

Chúng ta vừa được nghe một bài Tin Mừng hết sức độc đáo của Chúa Giêsu do thánh Luca ghi lại.

Đây là câu chuyện nói cho chúng ta biết về lối sống của Chúa Giêsu cách tuyệt với nhất.

Vậy thử hỏi Chúa đã sống như thế nào? Thưa Chúa đã sống trọn vẹn lý tưởng yêu thương mà Chúa luôn giảng dạy. Bài Tin mừng hôm nay là một minh chứng cụ thể.
Cha hỏi chúng con: sống yêu thương là sống như thế nào chúng con?
Có nhiều cách nhưng cách rõ rệt và cụ thể nhất đó đó là phải biết tha thứ cho nhau.
Cha hỏi tiếp:
– Tại sao phải tha thứ chúng con? Thưa vì hận thù sẽ làm cho cuộc sống này mất đi nhiều niềm vui và hạnh phúc.
Cha chắc chúng con còn nhớ lời của nhà văn Alfred D’Souza mà cha đã nói với chúng con tuần trước: Đời sống có hạnh phúc hay không là hoàn toàn phụ thuộc vào cách suy nghĩ và cách sống của mỗi người” Vậy thì muốn có hạnh phúc chúng ta không được nuôi dưỡng cưu mang hận thù trong lòng. Sẽ chẳng có hạnh phúc cho những ai cứ nuôi dưỡng cưu mang mãi trong lòng sự hận thù và đeo đuổi mãi sự báo thù trong cuộc sống của mình.

Chúng con hãy nghe câu chuyện này: Đây là câu chuyện do nhà Văn hào Nga Léon Tolstoi có kể. Câu chuyện như sau: có một người hành khất kia đến trước cửa nhà một người giàu có để xin bố thí. Mặc cho người khốn khổ van xin, người giàu có vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Đến một lúc không chịu được những lời van xin đó, thay vì bố thí, người giàu có đã lấy một hòn đá ném vào người hành khất

Con người khốn khổ ấy lặng lẽ nhặt lấy hòn đá cho vào bị rồi thì thầm trong miệng: “Ta mang hòn đá này cho đến ngày nhà ngươi sa cơ thất thế. Ta sẽ dùng nó để ném trả lại ngươi”.
Năm tháng trôi qua, lời chúc dữ của người hành khất đã thành sự thật. Vì biển lận, người giàu có bị tước đoạt tất cả tài sản và bị tống giam vào ngục. Ngày hôm đó người hành khất cũng chứng kiến cảnh người ta áp giải người giàu có vào ngục. Nỗi căm hờn sôi sục trong lòng, ông đi theo đoàn người áp tải, tay không rời hòn đá mà người giàu có đã ném vào người ông cách đây mười mấy năm. Ông muốn ném hòn đá đó vào người tù để rửa sạch mối nhục hằng đeo đẳng trong lòng ông.
Nhưng cuối cùng khi nhìn thấy gương mặt tiều tụy đáng thương của kẻ đang bị cùm tay, người hành khất thả nhẹ hòn đá xuống đất rồi tự nhủ: “Tại sao ta lại mang nặng hòn đá từ bao nhiêu năm qua? Con người này, giờ đây cũng chỉ là một kẻ khốn khổ đâu có hơn gì ta”.

Hận thù tai hại như thế đó chúng con.

Thánh Mahasma Gandhi nói: “Thế Giới đã mệt mỏi vì hận thù. Tôi cảm thấy không thể nào chất chứa trong lòng sự hận thù oán ghét đối với bất cứ một tạo vật nào. Nhờ sự huấn luyện lâu năm trong việc tự chủ và cầu nguyện, hơn 40 năm nay, tôi đã chấm dứt được sự giận ghét và oán thù bất cứ một người nào. Kẻ thù của bạn sẽ đầu hàng khi bạn làm cho họ kiệt sức, nhưng họ sẽ chịu thua khi tâm hồn bạn từ chối, không tiếp tục sử dụng bạo lực nữa. Một trái tim dù chai đá tới đâu cũng trở nên mềm mại trong lò lửa của Tình yêu”
Karl Menninger nói: “Tình yêu là liều thuốc kỳ diệu chữa trị mọi vết thương của cả người cho lẫn người nhận”.

Lev Tolstoy còn nói mạnh hơn “Tình yêu diệu kỳ. Ở đâu có tình yêu, ở đó có sự sống”.Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy điều đó.
Một hiệp sỹ dũng cảm tên là Hidebrand bị một bạn đồng nghiệp tên là Bruno nhục mạ nặng nề. Hidebrand thề sẽ trả thù đích đáng. Ông suy nghĩ và chuẩn bị kỹ lưỡng chương trình hành động. Cuối cùng, ông chọn địa điểm và thời giờ thuận lợi. Ông thức dậy giữa đêm, một mình võ trang đầy đủ đi đến nơi thanh vắng mà ông biết Bruno sẽ đi ngang qua. Trên đường đi ông gặp thấy một nhà nguyện mở cửa. Ông vào đó để chờ sáng, và trong khi chờ đợi ông tiêu khiển bằng cách nhìn các bức tranh trong nhà nguyện.
Bức tranh thứ nhất vẽ Chúa Giêsu mặc áo choàng đỏ, đầu đội mão gai, phía dưới có ghi bằng chữ Latinh câu này: “Bị lăng nhục, Ngài không đáp trả lại bằng lăng nhục”.
Bức thứ hai nhắc lại cảnh đau buồn khi Ngài bị đánh đòn, với hàng chữ “Khi chịu những khổ đau như thế, Ngài không hề đe dọa”.

Và cuối cùng bức thứ ba trình bày Chúa Giêsu trên Thập Giá, hàng chữ là: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm”. Nhìn liên tiếp ba bức tranh như thế, tâm hồn Hidebrand bị xúc động mạnh. Ông quỳ gối xuống và bắt đầu cầu nguyện. Dần dần cơn hận thù giảm đi, rồi biến mất. Ông còn ngồi lại đó chờ kẻ thù của ông đến, nhưng chờ để tha thứ tận tình và để làm hoà với nhau. (Góp nhặt)

Đọc trong lịch sử của các vĩ nhân trên thế giới, cha thấy Mục sư Martin Luther King là người đã biết đem tình yêu vào cuộc sống một cách rất tuyệt vời.
Lịch sử còn ghi lại: Ngày 4-4-1968 mục sư Luther King lãnh tụ da đen tranh đấu cho quyền bình đẳng của người Mỹ da đen bị bắn chết. Hằng triệu người da đen và những người da trắng hiểu biết đã thương tiếc ông.

Martin Luther King đã hy sinh cả cuộc đời mình để ôn hòa đấu tranh, chống cảnh kỳ thị chủng tộc mầu da. Cũng chính vì đã dám lên tiếng đòi cho mọi người được đối xử bình đẳng như nhau trong một đại gia  đình của Thiên Chúa mà ông đã bị bắn gục.

Những ai đã nghe nói về Martin Luther King đều không thể quên được tinh thần yêu thương tha thứ của ông với những bất công do nạn kỳ thị chủng tộc gây ra. Câu chuyện sau đây do ông kể lại là một bằng chứng:
Chú bé da đen tên là Tom, theo thói quen, vừa tan trường là chạy đi phân phát báo cho các trường để lấy tiền giúp đỡ gia đình. Hôm ây chú bé bất ngờ mót tiểu quá, thay vì chạy đến một gốc cây hay là bờ tường, nó chạy ngay vào nhà vệ sinh dành riêng cho người da trắng, vừa để tiểu và cũng vừa để cho biết một lần.

Được vào trong nhà vệ sinh sạch sẽ, mát mẻ, Tom thấy sung sướng. Bất ngờ Tom nghe có tiếng chân người bước nhanh đập trên nền nhà đi về hướng nhà vệ sinh mà em đang ở trong đó, chưa kịp phản ứng gì thì em đã bị người da trắng vừa mới ập tới, đánh Tom một cái làm em ngã dúi vào nhà vệ sinh. Kèm theo với cái đạp lên thân đó là những lời nguyền rủa thằng bé da đen đã dám vi phạm luật lệ của bang Alabana Mỹ. Theo đó thì người da đen bị cấm không được bén mảng đến những nơi dành cho người da trắng, kể cả nhà vệ sinh.
Được chứng kiến cảnh đau lòng trên, ông Martin Luther King khuyên chú bé Tom da đen:
– Cháu Tom bé nhỏ đáng thương ơi, cháu có thể lựa chọn giữa hai thái độ, hoặc là cháu nhanh chạy ra khỏi nhà vệ sinh kia nhặt những cục đá lên rồi liệng vào người da trắng đã hạ nhục cháu kia, rồi cháu chạy về khu vực của người da đen và đề nghị với những người da đen như thế này: Một ngày kia, chúng mình sẽ giết sạch những người da trắng.

Nhưng cũng còn một thái độ, một sự lựa chọn khác nữa cao thượng hơn thái độ trên đây nhiều, đó là cháu sẽ im lặng nhớ đến Chúa Giêsu ngày xưa, Ngài cũng đã bị người ta xô té mấy lần trên đường vác thập giá. Nhưng lần nào cũng thế, Ngài cũng chỉ im lặng, chỗi dậy để tiếp tục đi đến đồi Golgotha. Cháu hãy tha thứ cho người da trắng kia đã hạ nhục cháu. Cháu Tom ơi!  Trả thù là điều quá dễ, nhưng yêu thương mới là khó. Chúng ta là những người da đen Hoa- Kỳ, chúng ta muốn xây dựng ngày mai tươi sáng hơn nhưng chỉ có tình thương mới làm được việc đó!

Chúng ta hãy nhớ: “Tình yêu là liều thuốc kỳ diệu chữa trị mọi vết thương của cả người cho lẫn người nhận”.Amen.

Thiếu nhi chúng con yêu quí

1. Chúng ta vừa được nghe một bài Tin mừng được thánh sử Luca ghi lại. Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu, Chúa của chúng ta nói cho chúng ta và mọi người biết về một điều mà mọi người ai cũng mong ước trong cuộc sống ở trần gian.
Cha đố chúng con điều đó là điều gì?
– Thưa cha đó là hạnh phúc.
– Chúng con trả lời rất đúng.

Nếu chúng con để ý một chút, chúng con sẽ thấy: ở đời này những lời được nói nhiều nhất trong cuộc sống là lời Hạnh phúc; chữ được viết nhiều nhất là chữ Hạnh phúc, lời cầu mong lớn nhất là cầu mong Hạnh phúc. Những hiện tượng trên đây chứng tỏ Hạnh phúc là khát vọng mạnh nhất của con người. Con người luôn đi tìm Hạnh phúc cho mình.
Lúc 15 giờ ngày mồng hai tết vừa qua, cha vào Google nhập từ hạnh phúc thì trong vòng chỉ có 0,47 giây Google đã cho cha khoảng 96.900.000 kết quả.
Cha tò mò muốn biết xem những người ở Tây Phương quan tâm đến vấn đề hạnh phúc như thế nào, cha lại vào Google nhập từ “Happiness” (Hạnh Phúc) thì trong vòng khoảng 0,80 giây Google cho cha một kết quả không ngờ: 652.000.000 kết quả (0,80 giây) nhiều hơn gấp 6 lần chúng ta.

Cha hỏi chúng con: Tất cả những kết quả đó cho chúng ta thấy điều gì? Thưa, cho chúng ta thấy hạnh phúc là đều có thật. Hạnh phúc là điều mà con người hằng tìm kiếm. Người ta đã nói nhiều đến hạnh phúc, cầu chúc cho nhau có nhiều hạnh phúc, ước mong cho mình tìm được thật nhiều hạnh phúc trên đời. Hạnh phúc trở thành một ám ảnh chi phối toàn bộ cuộc sống của con người.

Thế nhưng nếu phải hỏi hạnh phúc là gì và ở đâu thì chằng ai có thể trả lời được.
Cha kể cho chúng con câu chuyện vui này:
Một con chó lớn đang quan sát một chú chó con loay hoay cố chụp bắt chiếc đuôi của chính nó.
– Chú mày làm gì thế?. Con chó lớn hỏi.
– Dạ, cháu đang tìm kiếm hạnh phúc. Chú chó con trả lời. Rồi nó nói tiếp: “Cháu nghe bảo rằng hạnh phúc nằm trong cái đuôi của cháu; nếu cháu chụp được cái đuôi mình, cháu sẽ có hạnh phúc”

Con chó lớn cười ồ. Nó nói rằng chính nó cũng từng nghe thiên hạ đồn như thế. Nhưng rồi nó đã khám phá ra rằng mỗi lần mình cố đuổi bắt chiếc đuôi thì chiếc đuôi luôn luôn vượt khỏi mình. Vì thế nó nói: “giờ đây tao chẳng cố sức vô ích như vậy nữa. Tao chỉ làm những công việc bình thường của một con chó và tao nhận thấy hạnh phúc tự kéo đến với tao”.
Có nhiều người trong chúng ta cũng tưởng hạnh phúc ở chỗ nọ chỗ kia nên đã dốc công đi tìm. Có người tìm ở nơi tiền bạc. Có kẻ đi tìm ở nơi lạc thú. Có kẻ khác đi tìm ở nơi danh vọng nhưng thử hỏi đã có ai thực sự tìm thấy hạnh phúc ở nơi tiền bạc, lạc thú, danh vọng hay chưa thì quả là chưa có ai dám can đảm quả quyết đã tìm thấy.

Hôm đó Đức Thích Ca vào thủ đô của vua Kaniska. Nhà vua đã thân hành ra đón chào Ngài. Nhà vua là bạn thân của thân phụ Đức Thích Ca. Đức Thích Ca nhìn sâu vào đôi mắt nhà vua và nói:
– Xin Ngài hãy thành thực nói với tôi: Trong tất cả những thú vui mà Ngài đang có, Ngài có thực sự được một ngày hạnh phúc không?
Vua Kaniska cúi nhìn xuống đất và giữ thinh lặng.
Nhà vua im lặng vì không có can đảm trả lời là có.

2. Chính vì thế mà trong bài Tin mừng hôm Chúa Giêsu hướng chúng ta về một bí quyết mới để chúng ta có thể có được hạnh phúc trong cuộc đời của chúng ta. Theo Chúa thì chẳng cần phải đi tìm hạnh phúc ở đâu xa bởi vì hạnh phúc ở ngay trong cuộc sống của mỗi người. Hạnh phúc không ở đâu xa, Hạnh phúc ở ngay trong cuộc sống của mỗi người.
Sống làm sao để có hạnh phúc. Đó là mơ ước của mọi người. Nhà văn Alfred D’Souza từng chia sẻ: “Trước đây, tôi thường cho rằng nếu tôi vượt qua hết những khó khăn trước mắt thì mọi thứ sẽ ổn hơn, tôi sẽ có thời gian cho chính mình và tận hưởng hạnh phúc. Nhưng cuối cùng, tôi nhận thấy cuộc sống có tốt đẹp, hạnh phúc hay không hoàn toàn phụ thuộc vào cách suy nghĩ và cách sống của chính tôi”.

Cha xin nhắc lại: Có hạnh phúc hay không là hoàn toàn phụ thuộc vào cách suy nghĩ và cách sống của chính tôi”. Chính cách suy nghĩ và cách sống của chúng ta đem lại hạnh phúc hay bất hạnh cho chúng ta.

Tôi phải có thái độ nào đối với những giá trị vật chất của trần gian và phải sống thế nào trong tương quan với mọi người. Suy nghĩ đúng và sống đúng, tôi sẽ có hạnh phúc. Ngược lại tôi sẽ trở thành người bất hạnh.

Đây là câu chuyện từ Internet: Như thường lệ, sáng nay, tôi đến phòng tập thể dục trước khi đến sở làm. Ớ đó, tôi có một người bạn già nhưng rất thân thiết. Tuy đã 79 tuổi nhưng ông vẫn giữ được thân thể tráng kiện và một tinh thần yêu đời đặc biệt. Khi gặp tôi, ông nhận ra ngay tâm trạng bất ổn của tôi. Sau đó hai bác cháu nói chuyện với nhau thật lâu.
– Trong cuộc đời bác, bác cảm thấy lúc nào mình hạnh phúc nhất?
Tôi hỏi và chợt nhận ra mình đã thay đổi câu hỏi. Lẽ ra tôi phải hỏi là có khi nào bác gặp phải cảm giác buồn chán như tôi bây giờ không.

Hồi bác còn nhỏ, cuộc sống thật khó khăn. – Ông bắt đầu kể. – Bố mẹ bác đi làm ở xa, cả ngày mới về. Thỉnh thoảng, mẹ mua quà về cho mấy anh chị em bác, khi thì những chiếc bánh, khi thì mấy viên kẹo. Những lúc đó, bác thực sự thấy mình là người hạnh phúc nhất.

Đến tuổi đi học, lần đầu tiên bác đánh vần và đọc được tên mình. Bác thấy tự hào vô cùng, chạy đi khoe khắp nơi, lúc đó là thời gian hạnh phúc nhất
Khi tốt nghiệp đại học, bác được nhận vào làm việc ở một công ty lớn. Cầm trên tay tháng lương đầu tiên, bác vui sướng biết bao.

Có lần bác bị tai nạn phải nằm bệnh viện khá lâu. Những ngày ở bệnh viện bác có giờ suy nghĩ được nhiều điều mà trước kia bác không nghĩ đến, được gặp lại bạn bè và người thân. Khoảng thời gian ấy thật là tuyệt vời.

Và giờ đây, ở tuổi bảy mươi chín, bác vẫn có thể đến đây tập thể dục hàng ngày. Bác thấy mình vẫn còn có ích cho mọi người xung quanh. Đây là thời khắc tuyệt vời nhất của bác.
Cháu hãy nghĩ một giai đoạn mới của cuộc đời cũng giống như một chương mới của quyển sách. Dù có đau khổ, buồn hay vui đều có giá trị cho quyển sách cuộc đời. Cháu cứ đọc rồi sẽ thấy.(Thảo Nguyên theo Internet)
Một sinh viên Nhật bản đến văn phòng của một linh mục ở Boston, nói:
– Thưa cha, con đang đi tìm một đời hạnh phúc tốt đẹp. Cha có thể chỉ cho con biết phải tìm ở đâu.
Linh mục đáp:
– Chắc anh muốn trao đổi về tôn giáo?
– Thưa không, con không muốn trao đổi lý thuyết. Việc đó con thấy nhan nhản rồi. Con cần thứ khác Cha biết không. Khi còn ở ký túc xá đại học Cambridge, con ở chung phòng với một anh thợ mộc. Anh có đời sống rất đẹp. Anh không bao giờ nghĩ về mình, mà luôn nghĩ về người khác. Sinh viên tụi con nhiều khi sống cẩu thả, chén dĩa lung tung, đồ ăn vứt bừa bãi. Thấy thế, anh không nói gì nhưng khi mọi người ra khỏi phòng ăn, một mình anh đi thu dọn, sắp xếp lại cho ngăn nắp.

Nghe thế, cha đưa cho anh cuốn Thánh Kinh và nói:
– Hãy cầm lấy. Nếu anh muốn tìm một đời hạnh phúc tốt đẹp anh hãy tìm trong dó.
Hai năm sau, anh đến gặp cha cười cười nói:
– Cha có nhận ra con không?
– Hình như tôi đã gặp anh ở đâu, nhưng không nhớ rõ.
Anh đưa cuốn Thánh Kinh ra và nói:
– Con đã tìm thấy đời sống hạnh phúc tốt đẹp rồi cha ạ. Con đã tìm thấy đời sống đó nơi Đức Kitô.

Như vậy chúng con thấy, hạnh phúc không phải là điều gì xa vời, khó tìm. Hạnh phúc có thể tìm thấy ngay ở trong cuộc sống. Vậy nếu cha hỏi đâu là cuộc sống mang lại cuộc sống cho con người thì câu chuyện chúng ta vừa nghe là câu trả lời: Sống như Chúa đã sống, sống như Chúa dạy đó là cách chúng ta sẽ tìm thấy hạnh phúc cho chúng ta trên đời.
Cha chúc mỗi thiếu nhi yêu quí của cha tìm được hạnh phúc khi chúng con biết sống như thế. Amen.